Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo:
1. Người Việt đã tiếp thu văn hoá bên ngoài một cách chủ động để phát triển văn hoá dân tộc.
2.
− Tiếp thu chữ Hán - Việt nhưng vẫn sử dụng Tiếng Việt. dùng âm Việt đọc chữ Hán.
− Học một số phát minh kỹ thuật như làm giấy, chế tao đó thuỷ tinh,…
− Tiếp thu một số ngày tết như tết Hàn thực, Đoan Ngọ, Trung thu nhưng đã có sự vận dụng cho phù hợp với văn hóa của người Việt.
3. Lời tâu của viên quan đô hộ người Hán cho em biết rằng:
− Nước Việt ta là một nước độc lập, có có truyền thống văn hoá, phong tục tập quán riêng, khác với người Hán, không thể áp đặt được. Đồng thời cũng phản ánh sự thừa nhận thất bại từ chính sách cai trị của các triều đại phong kiến phương Bắc.
4.
- Nho giáo, còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng (Nhơn đạo) là một hệ thống đạo đức, triết học xã hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề xướng và được các môn đồ của ông phát triển với mục đích xây dựng một xã hội hài hòa, trong đó con người biết ứng xử theo lẽ phải và đạo đức, đất nước thái bình, thịnh vượng.
Nho giáo rất có ảnh hưởng tại ở các nước Đông Á là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam. Những người thực hành theo các tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà Nho, Nho sĩ hay Nho sinh.
5.
Người Việt tiếp thu có chọn lọc văn hóa Trung Quốc trong thời Bắc thuộc:
– Phật giáo, Đạo giáo dụ nhập vào nước ta thời kì này, hòa quyện cùng với tín ngưỡng dân gian
– Tiếp thu chữ Hán nhưng sử dụng tiếng Việt dùng âm Việt để đọc chữ Hán, tạo cơ sở hình thành vốn từ Hán-Việt ngày càng phong phú, đặc sắc
– Tiếp thu kĩ thuật tiến bộ của Trung Quốc: làm giấy, dệt lụa, kĩ thuật bón phân bắc trong trọt trọt và nhiều sản phẩm thủ công khác.
Tham Khảo
- Trong suốt thời Bắc thuộc, nhân dân ta đã tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hoá Trung Hoa để phát triển văn hoá dân tộc, như: + Học một số phát minh kỹ thuật của người Trung Quốc. Ví dụ: làm giấy, chế tạo đồ thuỷ tinh,... + Tiếp thu một số lễ tết nhưng đã có sự vận dụng cho phù hợp với văn hóa của người Việt.
Câu 1: Văn hóa ở nước ta thời kì Bắc thuộc có đặc điểm gì nổi bật:
A. Văn hóa Trung Quốc không ảnh hưởng gì đến văn hóa nước ta
B. Nhân dân ta tiếp thu hoàn toàn văn hóa Trung Quốc
C. Nhân dân ta chỉ vận dụng những ngày lễ tết của Trung Quốc vào Việt Nam
D. Nhân dân ta tiếp thu và sáng tạo yếu tố văn hóa của Trung Quốc nhưng vẫn bảo tồn, giữ gìn những giá trị văn hóa cốt lõi của dân tộc
Câu 2: Ý nghĩa quan trọng nhất của chiến thắng Bạch Đằng năm 938 là gì?
A. Đánh tan cuộc xâm lược của quân Nam Hán
B. Bảo vệ nền tự chủ giành được sau khởi nghĩa Khúc Thừa Dụ
C. Để lại những nghệ thuật quân sự quý báu cho các cuộc đấu tranh sau này
D. Kết thúc hơn 1000 năm Bắc thuộc, mở ra thời kì độc lập, tự chủ lâu dài
Câu 3: Các triều đại phong kiến phương Bắc bắt nhân dân ta phải thay đổi phong tục theo người Hán nhằm mục đích gì?
A. Bảo tồn và phát triển tinh hoa văn hóa phương Đông
B. Khai hóa văn minh cho nhân dân ta
C. Nô dịch, đồng hóa nhân dân ta về văn hóa
D. Phát triển văn hóa Hán trên đất nước ta
Câu 4: Nhà Hán chiếm Âu Lạc, chia thành 3 quận và gộp với 6 quận của Trung Quốc nhằm mục đích chủ yếu nào sau đây?
A. Vơ vét được nhiều của cải, sản vật
B. Đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta
C. Thực hiện dễ dàng chính sách đồng hóa
D. Biến nước ta thành một bộ phận lãnh thổ Trung Quốc
Câu 5: Các triều đại phong kiến phương Bắc thực hiện chính sách đưa người Hán sang sinh sống lâu dài ở nước ta nhằm mục đích:
A. Nâng cao đời sống văn hóa cho người Việt
B. Làm phong phú thêm nền văn hóa cho người Việt
C. Đồng hóa về văn hóa đối với người Việt
D. Biến nước ta trở thành một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc
- Nhân dân ta biết tiếp nhận và “Việt hoá” những yếu tố tích cực của nền văn hoá Trung Hoa.
- Bộ máy cai trị của người Hán chỉ đến cấp huyện, tại các làng xã vẫn do người Việt đứng đầu, đây là bức thành trị vững chắc để bảo vệ các giá trị văn hóa dân tộc.
- Đại đa số nhân dân lao động nghèo khổ không có điều kiện theo học ở các trường dạy tiếng Hán.
- Tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán,… của người Việt đã được hình thành từ lâu đời, đậm đà bản sắc riêng, có sức sống mãnh liệt không thể bị tiêu diệt. Bên cạnh đó, nhân dân ta luôn có ý thức giữ gìn, bảo tồn văn hóa dân tộc.
Người Việt vẫn giữ được phong tục ,tập quán và tiếng nói riêng của tổ tiên bởi vì:
- Trường học được mở, chỉ có tầng lớp trên mới có tiền cho con em mình đi học, còn đại đa số nông dân lao động nghèo khổ, không có điều kiện, do vậy họ vẫn giữ được phong tục, tập quán, tiếng nói của tổ tiên.
- Phong tục tập quán và tiếng nói của tổ tiên đã được hình thành và xác định vững chắc từ lâu đời, nó trở thành đặc trưng riêng của người Việt, bản sắc dân tộc Việt và có sức sống bất diệt
Tham khảo:
- Trong suốt thời Bắc thuộc, nhân dân ta đã tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hoá Trung Hoa để phát triển văn hoá dân tộc, như:
+ Tiếp thu Phật giáo, Đạo giáo, có sự hoà nhập với tín ngưỡng dân gian.
+ Tiếp thu chữ Hán nhưng vẫn sử dụng tiếng Việt, dùng âm Việt để đọc chữ Hán, tạo cơ sở hình thành vốn từ Hán – Việt.
+ Học một số phát minh kỹ thuật của người Trung Quốc. Ví dụ: làm giấy, chế tạo đồ thuỷ tinh, kĩ thuật bón phân bắc trong trồng trọt...
+ Tiếp thu một số lễ tết nhưng đã có sự vận dụng cho phù hợp với văn hóa của người Việt. Ví dụ: tết Trung Thu của người Trung Quốc mang ý nghĩa đoàn viên; khi du nhập vào Việt Nam, tết Trung Thu là tết thiếu nhi...
+ Tiếp thu một số quy tắc lễ nghĩa, cách đặt tên họ giống người Hán, tư tưởng gia trưởng, phụ quyền, nhưng vẫn giữ gìn truyền thống tôn trọng người già và phụ nữ...
Tham khảo
- Trong suốt thời Bắc thuộc, nhân dân ta đã tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hoá Trung Hoa để phát triển văn hoá dân tộc, như: ... + Tiếp thu chữ Hán nhưng vẫn sử dụng tiếng Việt, dùng âm Việt để đọc chữ Hán, tạo cơ sở hình thành vốn từ Hán – Việt. + Học một số phát minh kỹ thuật của người Trung Quốc.
Tham khảo:
1/
- Để bảo vệ và phát triển văn hóa dân tộc trong hàng nhìn năm Bắc thuộc, người Việt đã:
+ Luôn có ý thức giữ gìn nền văn hóa bản địa của mình:
-Truyền dạy tiếng Việt cho con, cháu; nghe – nói hoàn toàn bằng tiếng mẹ đẻ.
-Duy trì các phong tục – tập quán, như: thờ cúng tổ tiên; thờ cúng anh hùng dân tộc; nhuộm răng đen, ăn trầu, xăm mình...
+ Tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hóa Trung Hoa để phát triển văn hóa dân tộc.
2/
Những phong tục của người Việt được nhắc đến trong tư liệu trên: xăm mình, têm trầu, ăn trầu, búi tóc, nhuộm răng đen,....
3/
Những phong tục của người Việt trong thời kì Bắc thuộc vẫn được duy trì đến ngày nay: làm bánh chưng bánh giày, xăm mình, ăn trầu ở một số vùng quê…
THAM KHẢO
Nhân dân ta luôn phải đấu tranh chống lại ách áp bức bóc lột, giành độc lập dân tộc và đặc biệt là chống âm mưu đồng hóa về văn hóa của các triều đại phong kiến Trung Hoa. Sức sống của văn hóa Việt vẫn được bảo tồn và phát triển.tham khảo
Nhân dân ta luôn phải đấu tranh chống lại ách áp bức bóc lột, giành độc lập dân tộc và đặc biệt là chống âm mưu đồng hóa về văn hóa của các triều đại phong kiến Trung Hoa. Sức sống của văn hóa Việt vẫn được bảo tồn và phát triển.Thành tựu văn hoá: Từ trong các xóm làng cổ; người Việt thời Bắc thuộc vẫn bảo tồn và phát huy cái vốn liếng văn hoá bản địa; nội sinh tích luỹ được qua hàng nghìn năm trước. Đành rằng trong suốt thời kì dài đằng đẵng đó; nhân dân ta phải sống cảnh “cá chậu chim lồng” trong một cơ cấu văn minh ngoại lai. Nhưng xã hội bao giờ cũng là xã hội của nhân dân; nhân dân vẫn; trong một môi trường sinh thái cụ thể và quen thuộc; không ngừng đấu tranh để phát triển sản xuất và văn hoá. Bất cứ lực lượng xã hội nào; bất cứ bạo lực chính trị nào cũng không ngăn cản được sự phát triển kinh tế; văn hoá tự mở lấy đường đi. Nét hằng xuyên của văn hoá Việt Nam là sự “không chối từ” việc tiếp thu; tiêu hoá và làm chủ những ảnh hưởng văn hoá của nước ngoài. Qua con đường giao lưu văn hoá; trào lưu di cư của một số sĩ phu và bần dân Hán tộc xuống Giao Chỉ; trên trường kì lịch sử chịu ảnh hưởng của một đế chế lớn và tạm thời (cái tạm thời nhiều thế kỉ của lịch sử!) nằm trong phạm vi của đế chế ấy; nhân dân ta đã vay mượn khá nhiều vốn liếng của nhân dân Trung Quốc về văn hoá vật chất cũng như về văn hoá tinh thần. Văn hoá vật chất: Ngay trong khi vay mượn; nhân dân ta vẫn thể hiện được tinh thần sáng tạo. Về văn hoá vật chất; từ chỗ tiếp thu được kĩ thuật làm giấy của Trung Quốc; nhân dân ta đã biết tìm tòi; khai thác nguyên liệu địa phương (gỗ trầm; rêu biển) để chế tác những loại giấy tốt; chất lượng; có phần hơn giấy sản xuất ở miền nội địa Trung Hoa. Trong khi chịu ảnh hưởng của kĩ thuật gốm sứ Trung Quốc; ta vẫn sản xuất ra các mặt hàng độc đáo như sanh hai quai (Trung Quốc chỉ có chảo); ống nhổ; bình con tiện đầu voi; bình gốm có nạm hạt đá ở chung quanh cổ tựa như loại “iang”của đồng bào Mơnông gần đây. Văn hoá tinh thần: Chủ thể mang truyền thống văn hoá ngàn xưa và sáng tạo nền văn hoá mới trong khi không ngừng hấp thu và hội nhập những yếu tố văn hoá ngoại sinh là người Việt cổ. Đấu tranh văn hoá; trước tiên là sự đấu tranh thường xuyên chống âm mưu đồng hoá của kẻ thù để bảo tồn nòi giống Việt. Biểu hiện rõ rệt của sự bảo tồn giống nòi và văn hoá Việt đặng chống đồng hoá là sự bảo tồn tiếng Việt; tiếng mẹ đẻ; tiếng nói của dân tộc. Tiếng nói là một thành tựu văn hoá; là một thành phần của văn hoá. Tiếng Việt thuộc nhóm ngôn ngữ được xác lập từ xưa ở miền Đông Nam Á và điều đó chứng tỏ cái gốc tích lâu đời; bản địa của dân tộc ta trên dải đất này. Khi bị đế chế Trung Hoa chinh phục và kiểm soát chặt chẽ; tiếng Hán- và chữ Hán- được du nhập ồ ạt vào nước ta. Song nó không thể tiêu diệt được tiếng Việt bởi một lí do rất đơn giản là chỉ một lớp người thuộc tầng lớp trên học. Nhân dân lao động trong các xóm làng Việt cổ vẫn sống theo cách sống riêng của mình; cho nên họ duy trì tiếng nói của tổ tiên; tiếng nói biểu hiện cuộc sống và tâm hồn người Việt. Cố nhiên; dưới ách thống trị lâu năm của người ngoài; trong cuộc sống đã xảy ra những biến đổi về vật chất và tinh thần; đã nảy sinh những nhu cầu mới. Cho nên tiếng Việt cũng phải biến đổi và phát triển. Trải qua nhiều thế kỉ; tiếng Việt ngày càng xa với trạng thái ban đầu của nó. Nó đã hấp thu những yếu tố ngôn ngữ Hán. Tiếng Việt có nhiều từ gốc Hán. Người ta thấy nhiều từ gốc Hán ngay cả trong vốn từ vị cơ bản và trong các hư từ. Nhưng nhân dân ta đã hấp thu ảnh hưởng của Hán ngữ một cách độc đáo; sáng tạo; đã Việt hoá những từ ngữ ấy bằng cách dùng; cách đọc; tạo thành một lớp từ mới mà sau này người ta gọi là từ Hán- Việt. (Có một quá trình ngược lại; nhiều từ Việt được hội nhập vào Hán ngữ và tạo nên một lớp từ Việt- Hán). Trước và trong thời Bắc thuộc; tiếng Việt cũng tiếp thu nhiều ảnh hưởng của ngôn ngữ Mã Lai; Tạng- Miến; và nhất là Ấn Độ (các từ chỉ cây trồng như mít; lài.. và đặc biệt là các từ thuộc về Phật giáo như Bụt; bồ đề; bồ tát; phù đồ; chùa; tháp; tăng già…). Điều đó khiến vốn từ tiếng Việt thêm phong phú. Từ thời Hùng Vương; đã có một nền phong hoá riêng của người Việt cổ tuy còn giản dị; chất phác. Bọn đô hộ cố sức đưa vào xã hội Việt cổ nhiều thứ lễ giáo Trung Hoa (chủ yếu là lễ giáo của đạo Nho). Điều đó; nhất định ảnh hưởng đến phong hoá Việt Nam. Đó là điều không tránh khỏi. Và nhân dân ta có khả năng thích ứng vô hạn với mọi loại tình thế trong khi những truyền thống dân tộc và dân gian của nền phong hoá Việt Nam vẫn được giữ gìn và phát triển. Nếu một mặt lễ giáo Trung Hoa ít nhiều đã tăng cường sự áp chế trong gia đình và củng cố chế độ phụ quyền (từ đầu công nguyên trở về trước;tính chất phụ quyền trong gia đình Việt cổ còn mờ nhạt) thì mặt khác nó không thể ngăn cản được sự củng cố ở một mức nhất định những truyền thống tích cực của xã hội làng xóm của ta; ví như lòng tôn kính và biết ơn đối với cha mẹ tổ tiên (có ý kiến cho rằng sự thờ cúng tổ tiên nảy sinh ở khu vực Đông Nam Á trước khi Nho giáo được truyền bá tới miền này). Nét đặc biệt; là lòng tôn trọng phụ nữ của phong hoá Việt cổ. Lễ giáo Trung Hoa có đặc trưng là sự khinh miệt phụ nữ; cố sức thắt chặt họ vào cỗ xe “tam tòng; tứ đức” nhưng vẫn không ngăn cản được truyền thống dũng cảm đánh giặc và lãnh đạo nhân dân đánh giặc của Hai Bà Trưng; Bà triệu…Vai trò của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội vẫn được đề cao. Cùng với phong tục dùng trống đồng; nhiều tục lệ cổ truyền khác vẫn được giữ vững như tục cạo tóc hay búi tóc; xăm mình; chôn cất người chết trong quan tài hình thuyền hay thân cây khoét rỗng; tục nhuộm răng; ăn trầu cau…Cố nhiên; trong diễn trình lịch sử; nhiều phong tục tập quán đã thay đổi. Từ tập quán giã gạo bằng chày tay (hình ảnh khắc trên trống đồng); từ đầu công nguyên trở về sau; người Việt chuyển sang lối giã gạo bằng cối đạp (theo hệ thống đòn bẩy). Từ tập tục ở nhà sàn; dần dần người Việt chuyển sang ở nhà đất bằng… Từ thời Hán; nền văn học nghệ thuật Trung Quốc đã đạt đến trình độ cao và có ảnh hưởng lớn ở vùng Đông Á. Nền văn học nghệ thuật ấy cũng dần dần được du nhập vào nước ta. Do du nhập bằng con đường nô dịch; với mục đích nô dịch nên mức độ truyền bá cũng chậm và mức độ tiếp thu của ta cũng hạn chế nhiều. Nhưng dù sao nó cũng để lại dấu ấn trên sự phát triển của nền văn hoá Việt. Thời Văn Lang; Âu Lạc; ta chưa có một nền văn học chính thức và thành văn tuy vẫn có một đời sống văn hoá khá cao. Nét đặc trưng của nó là văn hoá ngôn từ (chứ không phải chữ nghĩa sách vở) với phương thức thông tin truyền miệng. Nền văn nghệ dân gian của ta khá giàu có và tiếp tục phát triển dưới dạng các huyền thoại; huyền thích hay cao dao; tục ngữ. Cuộc sống của nông dân còn hạn chế trong khuôn khổ xóm làng; vùng địa phương; với những điều kiện còn chật hẹp; cho nên sự sáng tạo về nghệ thuật còn mang tính chất giản dị. Sự du nhập nền văn học nghệ thuật Trung Quốc đã có một tác dụng tích cực nhất định đối với đời sống văn hoá Việt Nam; nhất là ở một số trung tâm chính trị và buôn bán tập trung như Luy Lâu; Long Biên… Cho đến một hai thế kỉ sau công nguyên; văn hoá Đông Sơn và nghệ thuật Đông Sơn vẫn tiếp tục tồn tại tuy đang trên đà suy thoái mạnh. Dựa vào những hiện vật phát hiện được trong các mộ gạch cổ thuộc các thế kỉ I- VI; người ta hay nói đến sự nảy sinh một nền văn hoá nghệ thuật Hán – Việt trong thời gian này. Về âm nhạc; bên cạnh một số nhạc cụ có chịu ảnh hưởng Trung Hoa như khánh; chuông…chịu ảnh hưởng Ấn Độ và Trung Á như trống cơm; hồ cầm; vẫn tồn tại những nhạc cụ độc đáo của nền nhạc Việt như trống; khèn; cồng chiêng… Phần cốt lõi của văn hoá tinh thần; là tư tưởng mà ngày trước thường biểu hiện chủ yếu dưới hình thức tôn giáo; tín ngưỡng… Phong tục tập quán thời các vua Hùng dựng nước nhìn chung còn thuần hậu; chất phác. Đó là phong hoá tín ngưỡng của một cư dân sống trong khung cảnh một nền văn minh nông nghiệp lúa nước đang phát triển. Phong hoá Giao Chỉ cho đến đầu công nguyên còn rất khác với văn minh Hán. Đứng trên phương diện thể chế chính trị và cơ cấu xã hội hạ tầng; có thể nói; trong thời Bắc thuộc; người Việt mất nước chứ không mất làng. Bởi vậy; như một tác giả phương Tây đã nhận xét; qua Bắc thuộc; nước Việt như một toà nhà chỉ bị thay đổi “mặt tiền” mà không bị thay đổi cấu trúc bên trong. Đó là một hạn chế rất lớn của nền văn hoá Bắc thuộc và cũng là một lợi thế quan trọng của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống đồng hoá; giành lại độc lập dân tộc. Nền đô hộ của phong kiến Trung Quốc trong thời Bắc thuộc chỉ có bề dài của thời gian; chứ thiếu bề rộng trong không gian và càng thiếu hẳn bề sâu trong lòng cấu trúc của xã hội nước ta. Nền đô hộ ấy bạo ngược và thâm độc; song vẫn có phần hờt hợt và chỉ có tác động trên bề mặt của xã hội Việt Nam.
Về văn hóa, xã hội:
- Nhân dân ta biết tiếp nhận và “Việt hoá” những yếu tố tích cực của nền văn hoá Trung Hoa như ngôn ngữ, văn tự.
- Mâu thuẫn bao trùm trong xã hội là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chính quyền đô hộ phương Bắc.
Điểm nổi bật tình hình văn hoá nước ta thời Bắc thuộc là gì?
A.Văn hoá Hán không ảnh hưởng nhiều đến văn hoá nước ta.
B.Nhân dân ta tiếp thu văn hoá Trung Quốc một cách triệt để.
C.Tiếp thu văn hoá Trung Quốc để phát triển văn hoá dân tộc.
D.Bảo tồn phong tục, tập quán truyền thống của dân tộc.