Thuyết minh về danh lam thắng cảnh(k9 Bà rịa -Vũng Tàu) đừng lấy trên mạng ạ.Mai cần gấp
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
1.Tượng chứa Kitô
2.Ngọn hải đăng
3.Nhà tù Côn Đảo
4.Bạch Dinh
5.Đảo Hòn Bà
TK
Những địa điểm tuyệt vời nhất dành cho danh lam & thắng cảnh tại Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu:
Tượng Chúa Kitô
Ngọn Hải Đăng Vũng Tàu.
Nhà Tù Côn Đảo.
Đền thánh Đức Mẹ Bãi Dâu.
Bến Tàu Cánh Ngần Vũng Tàu.
Vịnh Hạ Long là một thắng cảnh có một không hai của đất nước Việt Nam. Cái đẹp của Hạ Long trước hết là sự kì vĩ của thiên nhiên. Trên một diện tích hẹp mọc lên hàng nghìn đảo nhấp nhô khuất khúc như rồng chầu phượng múa. Đảo có chỗ sừng sững chạy dài như bức tường thành vững chãi, ngăn khơi với lộng, nối mặt biển với chân trời. Có chỗ đảo dàn ra thưa thớt, hòn này với hòn kia biệt lập, xa trông như quân cờ bày chon von trên mặt biển. Tùy theo sự phân bố của đảo, mặt vịnh Hạ Long lúc tỏa mênh mông, lúc thu hẹp lại thành ao, thành vũng, lúc bị kẹp giữa hai triền đảo như một dòng suối, lúc uốn quanh chân đảo như dải lụa xanh. Thiên nhiên Hạ Long chẳng những kì vĩ mà còn duyên dáng. Nét duyên dáng của Hạ Long chính là cái tươi mát của sóng nước, cái rạng rỡ của đất trời. Sóng nước Hạ Long quanh năm trong xanh. Đất trời Hạ Long bốn mùa sáng nắng. Bốn mùa Hạ Long mang trên mình một màu xanh đằm thắm: xanh biếc của biển, xanh lam của núi, xanh lục của trời. Màu xanh ấy như trường cửu, lúc nào cũng bát ngát, cũng trẻ trung, cũng phơi phới. Tuy bốn mùa là vậy, nhưng mỗi mùa Hạ Long lại có những nét riêng biệt, hấp dẫn lòng người. Mùa xuân của Hạ Long là mùa sương và cá mực. Mùa hè của Hạ Long là mùa mùa gió nồm nam và cá ngừ, cá vược. Mùa thu của Hạ Long là mùa trăng biển và tôm he… Song quyến rũ hơn cả vẫn là mùa hè của Hạ Long. Những ngày hè đi bên bờ biển Hạ Long ta có cảm giác như đi trước cửa gió. Ngọn gió lúc êm ả như ru, lúc phần phật như quạt, mang cái trong lành, cái tươi mát của đại dương vào đất liền, làm sảng khoái tâm hồn ta. Trong tiếng gió thổi, ta nghe tiếng thông reo, tiếng sóng vỗ, tiếng ve ran và cả tiếng máy, tiếng xe, tiếng cần trục từ trên các tầng than, bến cảng vòng lại. Những âm thanh của sự sống trăm ngả tụ về, theo gió ngân lên vang vọng.
Em tham khảo nhé !
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc, Ngã ba Đồng Lộc đã trở thành một địa chỉ đỏ, mảnh đất thiêng liêng, là biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Ngã ba Đồng Lộc đi vào lịch sử như một bản anh hùng ca về quyết tâm sắt đá tất cả vì miền Nam ruột thịt, vì độc lập tự do thống nhất Tổ quốc, vì hòa bình.
Ngã ba Đồng Lộc thuộc địa phận xã Đồng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, nằm trên đường Hồ Chí Minh qua dãy Trường Sơn, là giao điểm của quốc lộ 15A và tỉnh lộ 2 của Hà Tĩnh.
Vào những năm tháng chiến tranh chống Mỹ, mọi con đường từ Bắc vào Nam đều phải đi qua nơi đây. Ngã ba Đồng Lộc có diện tích khoảng 50ha nằm gọn trong một thung lũng hình tam giác, hai bên là đồi núi trọc, giữa là con đường độc đạo. Do địa hình như vậy nên khi bom đạn của địch trút xuống phía nào, đất đá cũng lăn xuống đường cản trở giao thông.
Chính vì sự hiểm yếu và quan trọng đó mà không quân Mỹ liên tục đánh phá Đồng Lộc nhằm cắt đứt huyết mạch giao thông của quân dân ta hướng về chiến trường miền Nam. Nơi này đã đã được mệnh danh là “tọa độ chết”. Người ta đã thống kê rằng, mỗi mét vuông đất nơi đây đã gánh 3 quả bom tấn. Chỉ tính riêng 240 ngày đêm từ tháng 3 đến tháng 10/1968, không quân địch đã trút xuống đây 48.600 quả bom các loại.
Để giữ vững huyết mạch giao thông, quân dân ta cũng huy động tối đa mọi nguồn lực bảo vệ Ngã ba Đồng Lộc, lúc cao điểm ở nơi này có tới 1,6 vạn người – chủ yếu là bộ đội pháo binh và lực lượng thanh niên xung phong phá bom, mở đường.
Tiểu đội 4, thuộc Đại đội 552, tổng đội thanh niên xung phong 55 Hà Tĩnh làm việc thường trực tại ngã ba Đồng Lộc. Trưa ngày 24/7/1968, Tiểu đội 4 gồm 10 cô gái trẻ, do Võ Thị Tần-24 tuổi, làm tiểu đội trưởng được lệnh san lấp hố bom ở khu vực địch vừa thả bom để nhanh chóng thông đường cho xe qua.
Nhận nhiệm vụ xong, các cô đến hiện trường gấp rút triển khai công việc với niềm vui được gửi gắm trên từng chiếc xe đi qua. Họ làm việc không ngơi tay, vừa cười, vừa nói và đã ba lần các cô bị vùi lấp, nhưng đều rũ đất đá đứng dậy tiếp tục làm việc. Đến 16 giờ 30 phút, trận bom thứ 15 trong ngày dội xuống Đồng Lộc. Một quả bom rơi trúng vào đội hình 10 cô gái. Một, hai phút, rồi năm phút trôi qua. Mặt đất mù mịt. Cả trận địa lặng đi rồi tiếng khóc vỡ òa. Các cô đã hy sinh.
10 cô gái Đồng Lộc kiên cường dũng cảm: Võ Thị Tần (24 tuổi), Hồ Thị Cúc (24 tuổi), Nguyễn Thị Nhỏ (24 tuổi), Dương Thị Xuân (21 tuổi), Võ Thị Hợi (20 tuổi), Nguyễn Thị Xuân (20 tuổi), Hà Thị Xanh (19 tuổi), Trần Thị Hường (19 tuổi), Trần Thị Rạng (18 tuổi), Võ Thị Hà (17 tuổi) đã ngã xuống khi tuổi còn quá trẻ.
Mười đóa hoa ấy vừa độ mười tám, đôi mươi – cái tuổi đẹp nhất của tuổi trẻ, của đời người – đã mãi mãi ra đi, mang trong tim bao nhiệt huyết, khát vọng của ước mơ, hoài bão. Mười đóa hoa ấy đã hy sinh cả tuổi thanh xuân, đã kiên cường chiến đấu cho lý tưởng cao đẹp của dân tộc.
Những chiến công của các chị đã đi vào lịch sử, trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của tuổi trẻ Việt Nam. Máu của các chị đã góp phần tô thắm màu cờ của Tổ Quốc.
46 năm đã trôi qua, chiến tranh đã lùi vào quá khứ. Mảnh đất Đồng Lộc năm xưa mang trên mình những hố bom chi chít, giờ đã thành địa chỉ xanh chứa đựng những huyền thoại cao cả, linh thiêng. Đồng Lộc hôm nay đã đổi thay, những con đường bạt ngàn nắng gió, những đồng ruộng thơm mùi lúa thẳng cánh cò bay. Gió đại ngàn vẫn thổi, tiếng chuông ngân vang một góc trời. Nơi đó, 10 cô gái đã hy sinh cho công cuộc thống nhất đất nước.
Tuyến đường vào Nam những năm đó, giờ đã thênh thang rộng mở. Cả một vùng Ngã ba Đồng Lộc đã xanh tươi. Từ cầu Sông Nghẽn đi lên vùng cung đường ngã ba là cả một vùng lúa Đại Lộc, Tiến Lộc, Thanh Lộc, Đồng Lộc… xanh mướt.
Để có được những cánh đồng trải đầy màu xanh của ngày hôm nay, các chiến sĩ đã phải đánh đổi bằng màu đỏ của máu, bằng cả tuổi thanh xuân. Tổ quốc mãi ghi công những người con gái Thanh niên xung phong!
Khu di tích Đá Chông nằm trong hệ thống vùng đất đồi gò huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây có tọa độ địa lý 21 độ 8 vĩ độ Bắc và 105 độ 19 kinh độ Đông cách trung tâm Hà Nội khoảng gần 50 km theo đường chim bay; có gianh giới với ba xã Thuần Mỹ, Minh Quang, Ba Trại, phía Tây giáp sông Đà, bên kia sông là xã Đồng Luận, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ.
Có độ cao bình quân so với nước biển là 40 m, cá biệt có nơi cao tới 143,6m (đỉnh U Rồng), địa hình bị chia cắt thành nhiều mảnh nhỏ, cao ở phía Bắc và phía Đông, thấp dần về phía Tây và Tây Nam.
Nhiệt độ bình quân năm là 230C, nóng nhất vào tháng 6 và tháng 7, lạnh nhất vào tháng 12 tới tháng 2 năm sau; có lượng mưa trung bình hàng năm 1682-1798 mm. Mưa tập trung từ tháng 5 tới tháng 10; độ ẩm bình quân là 85%: max 96%, min 66%. Diện tích khoảng 250 ha, hồ ao 17,7 ha.
Là nơi từ năm 1957 Bác Hồ đã lựa chọn để xây dựng khu căn cứ trong kháng chiến chống Mỹ (tài liệu được tỉnh Hà Tây khẳng định).
Khu di tích Đá Chông còn gọi là K84, trước đây gọi là K9. Khi Bác của chúng ta đi vào cõi vĩnh hằng, nơi đầu tiên ướp bảo quản thi hài Bác là Viện quân y 108, cơ sở đó gọi là K75 A. Hội trường Ba Đình nơi tổ chức lễ viếng Bác từ ngày 6 tới 9/9/1969 gọi là K75 B. Tới khi đưa Bác lên yên nghỉ ở Khu di tích Đá Chông thì gọi là K84 (tức là K75 + K9 = K84), đây là địa điểm tốt, lí tưởng có phong cảnh đẹp, giao thông thuận tiện, có sông Đà chảy qua, khí hậu trong lµnh, yên tĩnh, đất đai rộng, là địa điểm kín, nhiều cây che phủ, dân xung quanh thưa thớt (trước đây), có điều kiện giữ gìn bí mật, thuận tiện cho tăng gia sản xuất để nuôi bộ đội.
Cơ sở đề giữ gìn thi hài Bác gồm có:
- Tầng trên: Là khu làm việc liên hoàn, thuận lợi, bảo đảm vệ sinh môi trường. Đã được Bộ Tư lệnh công binh cải tạo có bệ, trong bệ có cáng, trên bệ có lồng kính. Nơi để Bác nghỉ gần giống như quan tài kính ở tại Lăng, thuận tiện cho việc phục vụ khi có các đoàn tới thăm viếng Bác và nghiên cứu để phục vụ viếng ở Lăng sau này.
- Tầng ngầm có kết cấu hầm kiên cố, kiến trúc của hầm có khả năng triệt tiêu và cản các sóng chấn động do áp lực mạnh của vũ khí nổ gây ra, có hệ thống phòng chống chất độc hoá học, chính đó là yếu tố đảm bảo tuyệt đối an toàn thi hài Bác.
Tuy vậy hầm có một số nhược điểm không thuận lợi cho việc giữ gìn thi hài đó là đường xuống hầm dốc, hẹp. Trần nhà làm bằng loại bakelit có màu nâu sẫm nên khi quan sát thi hài bị phản màu, có nhiều tấm ghép nối không phẳng cho nên khó khăn cho công tác vệ sinh vô trùng.
Trong 6 năm chiến tranh chống Mỹ cứu nước, thi hài Bác được giữ gìn bảo quản tại đây ba lần với tổng thời gian là 4 năm 4 tháng 19 ngày. Đó là các thời gian sau:
Đợt 1: Từ ngày 23/12/1969 tới ngày 03/12/1970 vì lúc đó cả nước có chiến tranh, nên lưu giữ Bác ở căn cứ an toàn hơn ở Hà Nội.
Cuối năm 1970 do Mỹ - Ngụy tập kích bằng máy bay trực thăng xuống một vị trí ở gần thị xã Sơn Tây, cho nên thi hài Bác lại được chuyển về Viện quân y 108.
Đợt 2: Từ ngày 19/8/1971 tới ngày 11/7/1972, khi đó ë miền Bắc mưa to liên tiếp 10 ngày, nước sông Hồng dâng cao 12m80, có nguy cơ vỡ đê, nên thi hài Bác lại được đưa trở về bảo quản tại khu căn cứ K84 này.
Trong thời gian này chúng ta giữ gìn thi hài Bác ở hầm dưới tầng ngầm. Riêng việc chuyển thi hài Bác xuống tầng ngầm vào ngày 04/11/1971 kéo dài 5h55 (từ 9 giờ tới 14h55), với sự tham gia của các đồng chí chuyên gia Liên Xô: Zerebxov, Kazelxev, Xômkin, phía Việt Nam có các đồng chí Nguyễn Gia Quyền, Lê Điều, Nguyễn Văn Châu, Nguyễn Trung Hát, Nguyễn Hoài Nam (phiên dịch), cùng với hai lực lượng là Cảnh vệ và Công binh. Tại tầng ngầm này thi hài Bác được giữ gìn tới ngày 11/7/1972 (8 tháng 7 ngày).
Tới gần cuối năm 1972 ta nhận định có nguy cơ Mỹ dùng máy bay B52 ném bom Hà Nội, Hải Phòng mà K84 nằm trên đường bay của địch từ Thái Lan sang, cho nên thi hài Bác lại được chuyển sang bảo quản tại H21.
Đợt 3: từ ngày 08/02/1973 tới ngày 17/7/1975 sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết, thi hài Bác lại được đưa trở lại K84 để bảo quản vì nơi đây có điều kiện kỹ thuật tốt hơn ở H21.
Tại K84 không chỉ là nơi giữ gìn bảo quản thi hài Bác một cách đơn thuần, mà còn diễn ra nhiều sự kiện chuyên môn rất quan trọng như tiến hành chỉnh hình thi hài Bác ba lần do Viện sỹ Lopoukhin và GS Mikhailov chủ trì, đó là các thời điểm:
- Lần 1 : Tháng 4 năm 1970 (do viện sĩ Lopoukhin chủ trì)
- Lần 2: Tháng 9 năm 1970 (do viện sĩ Lopoukhin chủ trì)
- Lần 3: Tháng 4 năm 1975( do GS. Mikhailov chủ trì)
Hội đồng khoa học liên quốc gia Liên Xô- Việt Nam đánh giá trạng thái thi hài Bác, Chủ tịch về phía Liên Xô là Viện sỹ Kraevxki, các uỷ viên gồm có các Viện sỹ Mađrasov, Đêbov, Kuprianov, Lapoukhin; Chủ tịch phía Việt Nam là đồng chí Phùng Thế Tài, các uỷ viên gồm đồng chí Vũ Văn Cẩn- Bộ trưởng Bộ Y tế, Trần Kinh Chi, Nguyễn Gia Quyền và các Bác sỹ khác, lần đầu tiên làm việc tại K84 vào ngày 23/5/1970. Tại đây đã khẳng định sau tám tháng ướp bảo quản thi hài Bác được giữ gìn rất tốt.
Một điều rất thú vị nữa mà ít ai biết đến là điều kiện vô trùng của môi trường giữ gìn thi hài Bác lại tốt hơn ở cơ sở tại Viện quân y 108, nơi mà chúng ta chuẩn bị từ trước rất cẩn thận. Điều đó được khẳng định tại biên bản làm việc ngày 12/3/1971 giữa Ban phụ trách giữ gìn và bảo vệ thi hài Hồ Chủ tịch (chủ trì: đồng chí Phùng Thế Tài) với Đoàn chuyên gia y tế Liên xô và trong buổi gặp mặt của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Song Hào với Đoàn chuyên gia y tế Liên xô cùng ngày 12 tháng 3 năm 1971, đã được GS. TSKH. Đenhixov Nhikonski- Viện phó Viện nghiên cứu khoa học Lăng Lê-nin đã khẳng định.
Cũng tại nơi đây chúng ta không chỉ giữ gìn an toàn thi hài Bác mà còn tổ chức nhiều buổi viếng Bác rất trọng thể cho nhiều đoàn đại biểu khác nhau. Tiêu biểu nhất là đoàn Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương do đồng chí Lê Duẩn- Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu viếng Bác vào ngày 23/8/1970; Đoàn cán bộ Trung ương Cục Miền Nam do đồng chí Nguyễn Văn Linh dẫn đầu viếng Bác (tháng 2/1974).
Cũng tại nơi đây chúng ta cùng với Bạn đã nghiên cứu một số vấn đề để chuẩn bị cho việc phục vụ lễ viếng thường xuyên sau này ở Lăng Bác tại Quảng trường Ba Đình lịch sử.
Ngoài ra còn nhiều cuộc trao đổi kinh nghiệm giữa các chuyên gia Bạn và cán bộ y tế của ta để học tập kinh nghiệm của Bạn, cũng là nơi để thử thách rèn luyện cả về ý chí lý tưởng cách mạng cho tất cả các lớp cán bộ, cũng là nơi tích luỹ kinh nghiệm thực tiễn trong chuyên môn nghiệp vụ về y tế, kỹ thuật, phương án bảo vệ an ninh trong điều kiện đất nước có chiến tranh.
Với các sự kiện đã diễn ra ở K84 về giữ gìn thi hài Bác thì rõ ràng đây là địa danh có ý nghĩa lịch sử đặc biệt gắn liền với sự nghiệp giữ gìn lâu dài thi hài Bác trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nơi đây đã được chính Bác chọn làm căn cứ để Bác cùng với Bộ Chính trị làm việc, quyết định một số vấn đề về kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng XHCN ở miền Bắc, điều đó càng làm ý nghĩa của công trình tăng lên. Vì thế chúng ta cần phải giữ gìn, phát huy ý nghĩa chính trị của khu di tích này để góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, tự hào dân tộc cho các thế hệ hôm nay và mai sau để chúng ta vững vàng, có niềm tin thực hiện thắng lợi mong muốn của Bác lúc sinh thời là xây dựng nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh.
Muốn giữ và phát huy ý nghĩa chính trị của khu di tích Đá Chông thì phải tôn tạo, sửa chữa, nâng cấp công trình. Tuy vậy tại khu vực này không thể sửa chữa, xây dựng tuỳ tiện được, không thể mượn danh nghĩa tôn tạo mà làm sai lệch kiến trúc nguyên thuỷ của công trình. Vì vậy tôi đề nghị tôn tạo và nâng cấp cần tuân theo các yêu cầu sau:
- Phải giữ được sự nguyên vẹn lịch sử của công trình tại khu vực mà Bác đã ở và khu vực đã sử dụng bảo quản thi hài Bác.
- Tôn tạo lịch sử phải kết hợp với xây dựng nâng cấp các khu phụ cận nhằm mục đích tạo sự hoành tráng của khu di tích, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân tới đây học tập tư tưởng đạo đức của Bác và thưởng ngoạn cảnh đẹp của Khu di tích. Vì vậy cần có kiến trúc hài hoà, khoa học, tránh những công trình phô trương hình thức không phù hợp với tư tưởng của Bác.
- Sự tôn tạo và xây dựng mới phải phù hợp với điều kiện thực tiễn của Khu di tích, xây dựng đơn vị chính quy và đáp ứng nhu cầu văn hoá của nhân dân tới đây tưởng niệm và học tập đạo đức của Bác.
- Ngoài ra còn phải chú ý hiệu quả kinh tế để phục vụ đời sống bộ đội, đây cũng là truyền thống của bộ đội ta và cũng là lời dạy của Bác với quân đội.
Muốn đạt được các yêu cầu trên, chúng ta cần phải kết hợp với các lực lượng. Vấn đề là kết hợp như thế nào, theo tôi có ba loại phối kết hợp như sau:
1. Phối hợp với các cơ quan khoa học chuyên ngành để quy hoạch tổng thể toàn khu vực cũng như thiết kế từng công trình. Những năm qua ta đã phối hợp khá tốt. Các đơn vị điển hình là Viện Lâm nghiệp (của Bộ Lâm nghiệp trước đây) đã có quy hoạch tổng thể khu vực tháng 2 năm 1985; trường Đại học Lâm nghiệp, Nông nghiệp 1; Viện Thiết kế; Trung tâm thiết kế Bộ Quốc phòng....
2. Phối hợp với chính quyền địa phương, các đơn vị đóng quân trong khu vực và động viên nhân dân địa phương chủ động tham gia bảo vệ khu di tích: cụ thể là Huyện uỷ, UBND, MTTQ và các lực lượng vũ trang của huyện Ba Vì, Đảng uỷ và chính quyền tại các xã Thuần Mỹ, Minh Quang, Ba Trại.
3. Phối hợp với các cơ quan Trung ương, chính quyền của các địa phương tổ chức cho nhân dân tới đây tham quan, tưởng niệm và học tập đạo đức của Bác, không ngừng bổ sung các cây xanh không chỉ để làm đẹp khu vực mà quan trọng hơn là để các địa phương có điều kiện được tôn vinh. Nguồn gốc của các cây xanh có thể là:
- Các cây xanh do các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước trồng: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng v.v....
- Các cây xanh do lãnh đạo của các tỉnh, các đơn vị quân đội trồng: như Bộ Tư lệnh Hải quân đưa cây bàng vuông từ đảo Trường Sa về, tỉnh Quảng Bình đưa cây trầm hương, Học viện Quốc phòng đưa cây cơ nia từ Tây Nguyên ra, Trung ương Đoàn tặng hàng trăm cây ăn quả (xoài, khế, ngân hạnh) trồng quanh hồ khu B.
Với trách nhiệm cao của cán bộ chiến sỹ của BTL bảo vệ Lăng Bác mà trực tiếp là Đoàn 285, với tình cảm sâu nặng của nhân dân cả nước, với tiềm năng to lớn của các nhà khoa học thuộc nhiều ngành khác nhau, tôi tin tưởng nhất định chúng ta giữ được và phát huy ý nghĩa chính trị của Khu di tích Đá Chông.
BÀI VĂN THUYẾT MINH VỀ BIỂN NHÀ TRANG
Dọc mảnh đất chữ S Việt Nam có rất nhiều những bãi biển nổi tiếng. Kể đến như biển Vũng Tàu, biển Titop Hạ Long, biển Sầm Sơn,… Và có một bãi biển nổi tiếng không chỉ trong nước và với cả ngoài nước là biển Nha Trang.
Vừa đặt chân vào trung tâm thành phố Nha Trang, bạn hẳn sẽ thích thú trước khung cảnh đẹp nao lòng của thiên nhiên đẹp ngỡ ngàng ở nơi đây. Đó chính là bờ biển dài hun hút, xanh biếc và mênh mông nằm bên thành phố dọc theo con đường Trần Phú – con đường biển đẹp nhất đất Việt. Cùng với những hàng cây xanh rì, những đám mây bồng bềnh lơ lửng giữa trời, bãi biển Nha Trang đã khiến du khách siêu lòng ngay từ ánh nhìn đầu tiên.
Biển Nha Trang dài 7km với cát trắng mịn bờ biển thoai thoải dài cong ôm lấy vịnh Nha Trang xanh ngọc ngà. Bãi biển uốn cong với hai, bên bờ biển những rặng dừa và hàng dương lao xao trong gió càng tôn lên vẻ đẹp ngây ngất của biển. Nước trong màu xanh nhìn thấy được cả dưới đáy biển. Cát biển Nha Trang vàng rực rỡ như màu vàng của nắng trời. Từ trên cao nhìn xuống biển Nha Trang như một bức tranh vô cùng kì ảo và thơ mộng , dịu dàng đến khó quên.một bãi biển với bờ cát trắng tải dài như một tấm lụa, những hàng cây dừa, cây dương đu đưa trong gió cùng tới dòng nước biển xanh ngắt tạo nên một bức tranh, một bãi biển vô cùng sinh động và quyến rũ. Biển Nha Trang đẹp mọi lúc mọi khoảnh khắc. Ngay cả trong bầu trời đã khoác lên chiếc áo đen tuyền thì bãi biển Nha Trang cũng lung linh, độc đáo với những ánh đèn đầy sắc màu. Từ trên những tòa nhà cao tầng hướng về biển trời lúc đêm về hẳn sẽ là một trong những khám phá thú vị mà du khách không thể nào quên được đấy!
Nhắc đến biển Nha Trang không thể không nói đến Vịnh Nha Trang, một vịnh tuyệt đẹp có diện tích trên 500km², bao gồm 19 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó Hòn Tre là đảo lớn nhất, có diện tích 3.250 ha và đảo nhỏ nhất là Hòn Nọc chỉ khoảng 4 ha.
Tại biển Nha Trang, có rất nhiều hoạt động được diễn ra. Nhiều du khách vẫy vùng trong làn nước biển trong xanh mát lạnh. Nhiều du khách lại thích thú nằm trên bãi cát vàng nhìn ngắm ra biển mà lặng lẽ suy nghĩ những điều vu vơ. Để phục vụ cho nhu cầu của du khách thời nay, có rất nhiều trò chơi mạo hiểm được tổ chức. Như trò chơi kéo dù, du khách có thể ngắm nhìn cảnh biển từ trên trời cao và cảm nhận một biển Nha Trang ở góc khác. Hay như trò lướt ván, đua mô tô trên nước lại tạo cho người tham gia những cảm giác thú vị mới lạ. Bởi vậy, biển Nha Trang ngày càng sôi động và trẻ trung.
Với vẻ đẹp thu hút đầy quyến rũ của mình, Nha Trang trở thành địa điểm tổ chức của nhiều lễ hội cũng như các cuộc thi. Nhiều năm các cuộc thi Hoa Hậu Việt Nam được tổ chức tại đây. Các Festival cũng được tổ chức hàng năm thu hút hàng trăm triệu lượt khách trong và ngoài nước.
Biển Nha Trang thu hút khách du lịch không chỉ bởi vẻ đẹp của nó mà còn có ẩm thực đặc sắc khiến ai đến đây nhớ mãi không quên. Đó là những bữa ăn hải sải tươi ngon có mực, có tôm, có hàu,… đầy dinh dưỡng. Hay những món đặc sản như bánh canh chả cá- một món ăn rất bình dân nhưng khá phổ biến bởi hương vị và tính chất đậm đà của món ăn, hay món nem nướng, món ăn cũng không thể nào bỏ qua nếu bạn từng đặt chân lên thành phố biển xinh đẹp này. và còn rất nhiều món ngon khác:bò nướng lạc cảnh, bún sữa, bún ốc, bánh căn hay chả
Tháng 5-6 hoặc những dịp lễ tết là thời điểm cao độ của du khách đến biển Nha Trang. Vì thế nếu muốn đến đây để có một thời gian du lịch tuyệt vời thì du khách phải đặt phòng trước tại các khách sạn giá cả phù hợp. Với những du khách có nhu cầu ngắm biển nên đặt phòng tại những resort cạnh biển. Đặc biệt nên tìm hiểu trước về những địa điểm nổi tiếng tại đây để có một chuyến du lịch hoàn hảo
Những phút giây vui chơi thú vị cùng bãi biển hay những khoảnh khắc bình yên bên bờ biển sẽ phần nào xua đi những phiền muộn, lo toan trong cuộc sống thường nhật của bạn, giúp bạn thư giãn và tìm lại những niềm vui trong cuộc sống. Biển Nha Trang với nước trong xanh bãi cát vàng sẽ luôn là điểm đến lý tưởng cho mọi người.
Tham khảo 1 số ý trong bài văn sau nha chép hết là gãy tay á :)
Hải Phòng là một thành phố du lịch nổi tiếng với nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, mỗi khi nhớ đến Hải Phòng, các du khách thường nhớ đến biển khơi, nhớ những đặc sản mang đậm hương vị địa phương và sự nồng hậu của người dân phố biển. Trong đó không thể không nhớ tới Cát Bà – một thắng cảnh đẹp, đã từng níu chân rất nhiều du khách khi đến mảnh đất xinh đẹp này.
Quần đảo Cát Bà với trên 360 hòn đảo lớn nhỏ trong đó có đảo Cát Bà nằm ở phía nam vịnh Hạ Long, ngoài khơi thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 30km, cách thành phố Hạ Long khoảng 25km, nếu đi đường bộ thì mất gần 2 giờ, nếu đi tàu cao tốc chỉ mất khoảng 1 giờ là tới nơi. Trong đó, đảo Cát Bà là lớn nhất với diện tích 158 km2, dài 20km và cao hơn 200m so với mặt biển. Về mặt hành chính, quần đảo thuộc thị trấn Cát Bà, huyện đảoCát Hải, thành phố Hải Phòng. Nơi đây đã được công nhận là khu dự trữ sinh quyển thứ 3 của Việt Nam đồng thời được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Khi các du khách thập phương có cơ hội đi du lịch và đến tham quan mảnh đất này thì chắc hẳn ai cũng sẽ phải cảm thấy tò mò về tên gọi và nguồn gốc lịch sử của nó. Điều đó liên quan đến một truyền thuyết cổ xưa do người dân người dân địa phương kể lại. Tương truyền vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Nghĩa Lộ có chàng trai tuấn tú tên là Hùng Sơn, nghe tiếng mõ truyền, theo thánh Gióng đánh giặc Ân. Hùng Sơn được cử làm tướng tiên phong, chỉ huy chặn giặc trên biển. Lúc bấy giờ, các ông phải dùng thuyền nhỏ bí mật ra các đảo ngoài khơi xa lập trận đồ đợi giặc tới, còn các bà ở lại đảo lớn phía sau tăng gia sản xuất, chuyên lo việc hậu cần. Ngày chiến thắng, vua Hùng nghe được câu chuyện cảm động đó bèn xuống chiếu đặt tên cho hòn đảo, nơi đóng đại bản doanh của Hùng Sơn là Các Ông (thuộc vịnh Hạ Long) và hòn đảo của những người phụ nữ yêu nước chờ chồng, động viên các ông đánh giặc là Các Bà mà bây giờ tên của hòn đảo đó chúng ta đọc chệch thành Cát Bà.
Đảo Cát Bà là tấm thảm xanh khổng lồ chứa đựng nhiều bí ẩn, hấp dẫn. Tổng diện tích đảo rộng hơn 26.000 ha, với 2 vùng lõi (bảo tồn nghiêm ngặt và không có tác động của con người), 2 vùng đệm (cho phép phát triển kinh tế hạn chế song kết hợp với bảo tồn) và 2 vùng chuyển tiếp (phát triển kinh tế). Đảo Cát Bà là vùng hội tụ đầy đủ cả rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, các rạn san hô, thảm rong và đặc biệt là hệ thống hang động. Khí hậu trên đảo rất mát mẻ, trong lành, thích hợp cho du lịch nghỉ dưỡng. Ðịa hình vườn đa dạng, chủ yếu là dãy núi đá vôi với nhiều hang động kì thú và xen kẽ là những bãi cát trắng phau, mịn màng, nơi du khách tắm biển. Các ngọn núi đá vôi có độ cao trung bình 150m, cao nhất là đỉnh Cao Vọng, cao 322m so với mặt biển.
Ngày nay, Cát Bà được thiên nhiên ban tặng cho rất nhiều các hòn đảo nhỏ có tên gọi riêng đặc sắc như: hòn Cát Ông, hòn Cát Đuối, hòn Mây, hòn Quai Xanh, hòn Tai Kéo,… mỗi hòn đảo đều có hình dáng khác nhau tạo thành quần đảo du lịch nổi tiếng sạch đẹp này.
Đến với Cát Bà ta còn được ngắm nhìn một thảm rừng nhiệt đới xanh tươi với các kiểu thổ nhưỡng đặc biệt. Đây là khu rừng nguyên sinh với nhiều loài động thực vật phong phú và là khu Vườn quốc gia lớn nhất Việt Nam. Vườn quốc gia Cát Bà có tổng diện tích 15.200 ha trong đó 9.800 ha là rừng và diện tích biển là 4.500 ha. Trong đó có nhiều loại cây gỗ quý, có giá trị, thân cao thẳng vút, tán lá xum xuê, tỏa hương thơm ngát như: kim giao, lát hoa, săng lẻ,… Cùng nhiều loại động vật quý hiếm trên thế giới như: khướu, đại bành đất, coa cát, voọc đầu trắng (loài động vật được đưa vào sách đỏ, chỉ còn duy nhất trên đảo Cát Bà), tắc kè, khỉ mặt đỏ, sơn dương, sóc đuôi cờ,… Nơi đây cũng có suối nước khoáng phong phú không kém cùng rừng ngập mặn như kiểu rừng của miền Nam Bộ nước ta, loài cây sinh sống chủ yếu là cây ú, vẹt, đước. Với phạm vi che phủ rộng 2000 ha, các rừng ngập mặn ở đây có vai trò quan trọng về sinh thái và kinh tế bởi đây là nơi sinh trưởng của nhiều loài động vật gồm 20 loài thú, 69 1oài chim, 20 loài bò sát và lưỡng cư, 11 loài ếch nhái. Nếu đi xuyên rừng 5km nữa, chúng ta sẽ gặp một cảnh quan độc đáo của Vườn quốc gia đó là Ao Ếch. Đây là đầm nước ngọt duy nhất, rộng khoảng 3,2 ha nằm trên núi cao.
Bên cạnh đó, Cát Bà còn nổi tiếng với những hang động đẹp. Nếu động Trung Trang có nhiều nhũ đá đẹp mà rất rộng rãi, có thể chứa tới hàng trăm người thì động Hùng Sơn lại có ý nghĩa như một chứng tích lịch sử quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Đây đã từng là một bệnh viện với hàng trăm giường nằm trong lòng núi. Ngoài ra còn có động Phù Long (động Cái Viềng), nơi có nhiều hang động đẹp. Không những vậy, tên động còn gắn với một truyền thuyết ứng với vết tích thiên nhiên còn hiện hữu ở khu vực này. Cùng với dãy Phù Long, còn có động Thiên Long rộng và sâu với những nhũ đá nhiều màu sắc đẹp mắt. Những cột đá khổng lồ nhiều hình thù được bao bọc bởi những rễ cây ăn vắt vẻo đung đưa từ đỉnh núi xuống động. Điểm đến thứ tư là động Đá Hoa Cương, ngay từ tên gọi cũng mang cho mọi người những liên tưởng độc đáo. Tuy nhiên, vì kết cấu bên trong của động là những hệ thống nhũ đá còn nguyên vẹn nên khi có ánh sáng chiếu vào những nhũ đá óng ánh như kim cương thật là đẹp mắt, mỗi hình dáng khác nhau nhưng phải mất một thời gian khá dài để nước bào mòn đá tạo thành những nhũ đá lộng lẫy sống động cùng thời gian. Thiên nhiên thật kì thú, sự hoà trộn của rừng và biển mang lại cho vùng đất này những thắng cảnh tuyệt đẹp.
Ngoài ra, Cát Bà còn được nhiều người biết đến với các bãi tắm đẹp, cát trắng, nước xanh, sóng êm ,… Có thể kể đến các bãi tắm như: Cát Dứa, Cát Ông, Cát Đá Bằng,… Đây là những bãi tắm nhỏ xinh, kín đáo với cát trắng mịn, nước biển có độ mặn cao, trong suốt, nhìn rõ cả nền cát vàng dưới đáy ; phía trước trông ra biển cả mênh mông, phía sau và hai bên là vách núi như bức tường thành. Tại đây du khách sẽ được đắm mình dưới dòng nước trong xanh, mát rượi thoả thích nô đùa cùng sóng nước. Chẳng biết từ bao giờ, những con sóng gặm nhấm sâu vào vách đá tựa như người họa sĩ nào dày công đẽo gọt tạo thành tác phẩm đặc sắc nhất.
Với những bãi biển bao la đó, Cát Bà là nơi cư trú, sinh sôi của nhiều hải sản như bào ngư, ngọc trai, cá vược, cá ngừ ,… có nhiều nhà bè nuôi hải sản tại Bến Bèo cung cấp đặc sản cho thành phố như: tôm he, ruốc cá ngừ, rượu bào ngư, nước mắm Vạn Vân,… Trong đó nhiều loại có thể dùng làm nguyên liệu sản xuất hàng mỹ nghệ quý như đồi mồi, tôm rồng, trai ngọc, san hô, vỏ trai, ốc biển,…
Đến với Cát Bà ta còn được thưởng thức những món ăn đặc trưng của biển, các loại hải sản tươi sống được đánh bắt và dưới bàn tay lành nghề của các đầu bếp nơi đây chắc hẳn sẽ làm xao xuyến bao thực khác muôn phương với những hương vị hấp dẫn không thể chối từ.
Cũng giống như những vùng miền trên khắp mọi nơi của tổ quốc, ở Cát Bà có nhiều lễ hội và trò chơi dân gian. Đặc biệt, nếu ai đến thăm Cát Bà vào ngày 1/4 – ngày Bác Hồ về thăm huyện đảo, ta còn được xem lễ hội đua thuyền rồng, các cuộc thi đấu thể thao, văn nghệ, hay các trò chơi dân gian gắn liền với đặc trưng của biển gồm: hội xuống biển, bơi thuyền thúng,… mang đậm hào khí lễ hội truyền thống. Chắc hẳn ai cũng sẽ thấy hào hứng và thích thú.
Chính từ những điều kiện thuận lợi sẵn có như vậy, Cát Bà đang có rất nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế. Cát Bà trở thành một địa điểm du lịch sinh thái lí tưởng, con đường xuyên đảo đã kéo mảnh đất xinh đẹp này gần với đất liền. Nhiều bãi tắm mới được đưa vào sử dụng cùng nhiều trung tâm vui chơi lí thú. Trong tương lai, Cát Bà còn tiếp tục phát triển nghề nuôi trồng thủy sản và ngành đóng tàu. Nhờ vậy mà nơi đây đã và đang trở thành mũi nhọn du lịch của thành phố.
Cát Bà được mệnh danh là “đảo ngọc” của thành phố Hải Phòng, vì vậy là một công dân của thành phố, chúng ta cần biết bảo vệ hình ảnh của hòn “đảo ngọc” đó cũng như xây dựng và quảng bá hình ảnh của mảnh đất quê hương ra với bạn bè muôn phương để Cát Bà phát triển hơn nữa và trở thành điểm đến quen thuộc của du khách trong và ngoài nước.
Tham khảo ở đây:
https://toploigiai.vn/dan-y-thuyet-minh-ve-danh-lam-thang-canh-dao-cat-ba-lop-8