K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

6 tháng 9 2019

Đáp án C

8 tháng 12 2019

Đáp án C

Trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, khi mô tả về chế độ thuế khóa và đời sống người dân Đại Việt ở Đàng Ngoài thế kỉ XVIII, Phan Huy Chú đã viết: "Vì trung thu quá mức dân kiệt vật lực mà không thể nộp đủ đến nỗi trở thành bần cùng mà phải bỏ cả nghề nghiệp. Có người vì thuế sơn mà chặt cây sơn, vì thuế vải lụa mà phá khung củi, vì thuế cá tôm mà phải xé chài lưới".Chế độ thuế...
Đọc tiếp

Trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, khi mô tả về chế độ thuế khóa và đời sống người dân Đại Việt ở Đàng Ngoài thế kỉ XVIII, Phan Huy Chú đã viết: "Vì trung thu quá mức dân kiệt vật lực mà không thể nộp đủ đến nỗi trở thành bần cùng mà phải bỏ cả nghề nghiệp. Có người vì thuế sơn mà chặt cây sơn, vì thuế vải lụa mà phá khung củi, vì thuế cá tôm mà phải xé chài lưới".

Chế độ thuế khóa nặng nề là một trong những nguyên nhân dẫn đến các cuộc đấu tranh của nông dân chống lại triều đình phong kiến ở Đàng Ngoài thế kỉ XVIII.

Vậy khởi nghĩa nông dân ở Đàng Ngoài thế kỉ XVIII nổ ra trong bối cảnh nào? Diễn biến, kết quả, ý nghĩa và tác động của khởi nghĩa nông dân đối với xã hội Đại Việt ra sao?

1
NG
13 tháng 8 2023

Tham khảo

- Giữa thế kỉ XVIII, chính quyền phong kiến Đàng Ngoài rơi vào khủng hoảng trầm trọng; đời sống nhân dân cơ cực nên họ đã vùng lên đấu tranh chống lại chính quyền.

- Các cuộc khởi nghĩa của nông dân Đàng Ngoài diễn ra sôi nổi, tiêu biểu là: khởi nghĩa của Hoàng Công Chất, khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu và khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương,… tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, nên các cuộc khởi nghĩa này cuối cùng đều thất bại.

- Ý nghĩa:

+Thể hiện ý chí đấu tranh chống áp bức, chống cường quyền và thể hiện sức mạnh của quần chúng nhân dân;

+ Báo hiệu sự suy yếu không thể cứu vãn của chính quyền Lê - Trịnh.

- Tác động:

+ Buộc chính quyền Đàng Ngoài phải thực hiện một số chính sách như khuyến khích khai hoang, cho nông dân lưu tán trở về quê,…

+ Làm lung lay chính quyền Lê - Trịnh.

NG
26 tháng 10 2023

Câu 1: Vùng Đông Nam Bộ trở thành vùng trồng cây công nghiệp lớn của cả nước nhờ những điều kiện thuận lợi như sau:

- Khí hậu ấm áp và mưa đều đặn: Đông Nam Bộ có khí hậu nhiệt đới với mùa mưa đều đặn, điều này rất thuận lợi cho việc trồng cây công nghiệp như cao su, cacao, hạt điều, và cây lúa.

- Đất phù hợp cho nông nghiệp: Đất ở vùng này thường có độ phì nhiêu tốt và phù hợp cho việc trồng cây công nghiệp. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành nông nghiệp công nghiệp.

- Mạng lưới sông ngòi và hệ thống tưới tiêu: Vùng Đông Nam Bộ có nhiều sông ngòi và hệ thống tưới tiêu phát triển, giúp cải thiện khả năng sản xuất cây trồng và nâng cao hiệu suất nông nghiệp.

NG
26 tháng 10 2023

Câu 2: Vùng Đông Nam Bộ phát triển mạnh kinh tế biển vì:

- Vị trí địa lý gần biển: Vùng này có bờ biển dài, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành thủy sản và du lịch biển.

- Các cảng biển quan trọng: Các cảng biển như Vũng Tàu, Cần Thơ, và TP.HCM là cửa ngõ quan trọng cho vận chuyển hàng hóa và thương mại quốc tế, giúp kích thích phát triển kinh tế biển.

- Ngành công nghiệp dầu khí: Các nguồn tài nguyên dầu khí ngoại khơi cũng tạo cơ hội phát triển lớn cho kinh tế vùng Đông Nam Bộ.

Đọc đoạn trích sau: Tôi nghĩ rằng. Múc một gáo nước, biển cả không vì thế mà vơi; thêm một gáo nước, biển cả không vì thế mà đầy. Cho nên người dùng binh giỏi không lấy thắng nhỏ mà mừng, không lấy thua to mà sợ. Nay các ông chỉ có tàn tốt vài nghìn giữ một thành trở trọi, lương sắp hết mà viện binh không thấy đến, dân chủng ngày một lìa, mà quân sĩ ngày một mòn, cải thế...
Đọc tiếp

Đọc đoạn trích sau: Tôi nghĩ rằng. Múc một gáo nước, biển cả không vì thế mà vơi; thêm một gáo nước, biển cả không vì thế mà đầy. Cho nên người dùng binh giỏi không lấy thắng nhỏ mà mừng, không lấy thua to mà sợ. Nay các ông chỉ có tàn tốt vài nghìn giữ một thành trở trọi, lương sắp hết mà viện binh không thấy đến, dân chủng ngày một lìa, mà quân sĩ ngày một mòn, cải thế mạnh yếu được thua, có thể ngồi mà tỉnh được. Huống hồ nước Nam ta binh voi thì nhiều, tâm lực đều nhau, vũ khi ngày càng tinh nhuệ, khí quân ngày càng hồ hởi, kẽ sĩ trí mưu, các tướng vũ dũng chẳng khác gì cây rừng, răng lược vậy. Các ông có thắng một trận nhỏ cũng không thấy là mạnh, mà ta dẫu có thua một trận nhỏ cũng không thấy là yếu. Vừa qua, mấy người tì tưởng của ta tuổi trẻ tỉnh ngông, không theo ước thúc, khinh chiến để thất cơ, các ông lấy thế làm đắc chi. Nay đem những tướng hiệu ở các lộ Tân Bình, Thuận Hoá, Diễn Châu, Nghệ An và ở các cơ Tiền Vệ, Tam Giang, Xương Giang, Trấn Dĩ" và đem nhiều người bị các ông làm lầm lỡ như thiên hộ, bá hộ quan hơn trăm người, quân một vạn mấy nghìn người, trai gái lớn nhỏ hơn ba vạn người do Thái đô đốc” và các quan Tam ti chỉ huy so với vài người tì tướng của ta thì ai hơn ai kém, ai được ai thua? Thế mà ngài không hề lấy thế làm lo, lại còn giương vậy nói khoác chẳng khác gì nhà dương cháy mà chim én còn nhơn nhơn cùng nhau vui mừng, há chẳng đáng cười lắm sao! Và ngày nay ở đất Lưỡng Quảng nghe tin quân ta thừa thắng ruổi dài, bọn đạo tặc đã nhân dịp mà trỗi dậy. Tích Lịch đại vương” đã giữ đất xưng đế. Mà binh voi của ta ngày đêm tiến công. Bằng Tường, Long Châu”đều vào tay ta. Còn ngài ngày ngày trông đợi viện binh mà nói phao là viện binh sắp đến, nào có khác gì trong mộng nói chuyện mông không. Lại càng đáng cười lắm nữa. Ngày trước, đô đốc họ Thái và các chỉ huy thiên vạn hộ cùng các quan phủ huyện châu có bảo tôi đem sự lý trong tờ chiếu của Thái Tông hoàng đế cho lập con cháu họ Trần để về Kinh mà tâu bày và tổ cáo việc quan tổng binh không biết, trấn thủ phương Nam, lại theo kế của người khác, tự gửi văn thư đi thu binh mã của các vệ, giả làm giảng hòa rồi thì bội trớc để đến nỗi bọn ấy nhao nhao kêu la thất sở. Nhưng tôi cử nghĩ như tờ tàu ngày trước bắt được thì thấy tổng binh đại nhân thực có lòng thành, chỉ vì bọn họ Phương Chính, Mã Kỳ 3'làm cho mê hoặc mới nên nỗi thế. Bởi vậy lời bàn ấy chưa quyết.Nếu ngài nay lại có thể biết theo ước cũ, thì nên cho quân về ngay, cùng hòa giải với đô đốc họ Thái, một mặt là để khỏi khổ can qua cho hai nước; mặt khác để cởi mở nỗi oán hờn thấy mình bị bán rẻ của ông Thái. Như thế thì ngài được toàn quân mà khỏi họa, hả chẳng hay sao? Nếu cứ giữ sự mê muội cho đến chết, không biết biến thông thì cũng như câu Đường Thái Tông bảo “đem hết lòng chung mà chẳng ích gì” (tận trung vô ích) vậy. Và chăng, bậc đại trượng phu làm việc nên phải lỗi lạc, đường hoàng. Muốn đánh thủy thì cứ đem hết chiến thuyền bày ở trên sông để quyết tử chiến, muốn đánh bộ thì cứ xuất hết binh mã ra nơi đồng ruộng một hai ngày để quyết sống mái, chứ không nên chúi đầu ở góc thành, chợt ra chợt vào, cướp giật củi cỏ mà cho là kế hay. Như thế là việc làm của đàn bà con gái, không phải là việc làm của đại trượng phu! (Thư gửi Vương Thông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Trãi toàn tập, Hoàng Khôi biên dịch, NXB Văn hoá thông tin, 2001, tr.548 - 550). Lựa chọn đáp án đúng nhất: Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của văn bản là ? A. Tu su B. Nghị luận C. Miêu tả D. Biểu cảm Câu 2. Văn bản Thư gửi Vương Thông được viết bằng loại chữ nào ? A. Chữ Nôm B. Chữ Hán C. Chữ quốc ngữ D. Chữ Hán và Quốc ngữ Câu 3. Bố cục của văn bản trên gồm mấy phần? A. Hai phần B. Ba phần C. Bốn phần D. Năm phần Câu 4. Đối tượng hướng đến của văn bản trên là ai? A. Mã Kỳ B. Tích Lịch đại vương I biên dịch, NXB C. Vương Thông D. Phương Chính Câu 5. Mục đích hướng đến của văn bản là gi? A. Thuyết phục tướng giặc rút quân về nước, tránh được chiến tranh cho nhân dân. B. Khuyên giặc ra đầu hàng, hứa hẹn những điều tốt đẹp nếu đối phương thực hiện. C. Tuyên bố chính thức giao chiến với đội quân xâm lược nhà Minh. D. Tuyên bố đội quân xân lược nhà Minh chính thức thất bại ở Đại Việt. Câu 6. Cách xưng hô của Nguyễn Trãi đối với Vương Thông cho thấy điều gì? A. Sự mia mai, khinh bị B. Sự coi thưởng, khiêu khích C. Sự mềm mỏng, nhún nhưởng D. Sự tôn trọng, khôn khéo. Câu 7. Đoạn văn mở đầu (từ “ Tôi nghĩ rằng...răng lược vậy " chủ yếu nêu lên luận điểm gì? A. Người dùng binh giỏi phải là người hiểu biết về thuật dùng binh B. Người dùng binh giỏi phải dũng cảm chiến đấu đến cùng. C. Người dùng binh giỏi phải đồng cam cộng khổ với binh lính D. Người dùng binh giỏi phải hết lòng gắn bó với nhân dân. Trả lời câu hỏi/ Thực hiện yêu cầu: Câu 8. Đoạn văn mở đầu sử dụng chủ yếu các thủ pháp lập luận nào? Câu 9. Vấn đề được tác giả đưa ra bàn luận trong bức thư trên là gì? Dựa vào đâu mà em biết được điều đó? Câu 10. Từ văn bản trên, em rút ra được bài học gì trong cuộc sống?

1
24 tháng 3 2023

Câu 1

 

25 tháng 10 2021

b. Vì nó mang lại sự sống cho Giôn-xi

7 tháng 9 2016

không được vì nếu kết thúc ở đó thì không thể giải thích được hiện tượng mưa lũ hàng năm hihi

17 tháng 1 2019

Chọn đáp án: A

29 tháng 7 2019

Đáp án A