K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

21 tháng 12 2018

mời bạn sang trang ngữ văn nhéleuleu

21 tháng 12 2018

mình viết lộn

13 tháng 12 2021

Tham khảo:

Trong những ngày từ quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã viết nhiều bài thơ đặc sắc, trong số đó có bài số 43 trong chùm thơ Bảo kính cảnh giới. Bài thơ là bức tranh phong cảnh mùa hè độc đáo nhưng thấp thoáng là niềm tâm sự của tác giả.

Câu thơ đầu tiên, ta đọc lên thoáng qua sao có vẻ an nhàn, êm đềm thanh thoát đến thế:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường”.

Nguyễn Trãi kia! Ông đang ngồi dưới bóng cây nhàn nhã như hóng mát thật sự. Việc quân, việc nước chắc đã xong xuôi, ông mới trở về với cuộc sống đơn sơ, giản dị, mộc mạc mà chan hòa, gần gũi với thiên nhiên. Một số sách dịch là “Rỗi, hóng mát thuở ngày trường”. Nhưng “rỗi” hay “rồi” cũng đều gây sự chú ý cho người đọc. Rảnh rỗi, sự việc đều xong xuôi, đã qua rồi. “Ngày trường” lại làm tăng sự chú ý. Cả câu thơ không còn đơn giản là hình ảnh của Nguyễn Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả “Nhàn rỗi ta hóng mát cả một ngày dài”. Một xã hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải đành “hóng mát” cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa.

Về với thiên nhiên, ông lại có cơ hội gần gũi với thiên nhiên hơn. Ông vui thú, say mê với vẻ đẹp của thiên nhiên.

“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông, thiên nhiên bừng bừng sức sống. Cây hòe lớn lên nhanh, tán nó càng lớn dần lên có thể như một tấm trướng rộng căng ra giữa trời với cành lá xanh tươi. Những cây thạch lựu còn phun thức đỏ, ao sen tỏa hương, màu hồng của những cành, hoa điểm tô sắc thắm. Qua lăng kính của Nguyễn Trãi: sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời...

 

Qua cảnh mùa hè, tình cảm của Nguyễn Trãi cũng thể hiện một cách sâu sắc:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”.

“Chợ” là hình ảnh của sự thái bình trong tâm thức của người Việt. Chợ đông vui thì nước thái bình, thịnh trị, dân giàu đủ ấm no; chợ tan rã thì dễ gợi hình ảnh đất nước có biến có loạn, có giặc giã, có chiến tranh, đao binh... lại thêm tiếng ve kêu lúc chiều tà gợi lên cuộc sống nơi thôn dã. Chính những màu sắc nơi thôn dã này làm cho tình cảm ông thêm đậm đà sâu sắc và gợi lại ý tưởng mà ông đang đeo đuổi:

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương".

“Dân giàu đủ", cuộc sống của người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc là điều mà Nguyễn Trãi từng canh cánh và mong ước. Ở đây, ông đề cập đến Ngu cầm vì thời vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng là thái bình thịnh trị. Vua Thuấn có một khúc đàn “Nam Phong” gảy lên để ca ngợi nhân gian giàu đủ, sản xuất ra nhiều thóc lúa ngô khoai. Cho nên, tác giả muốn có một tiếng đàn của vua Thuấn lồng vào đời sống nhân dân để ca ngợi cuộc sống của nhân dân ấm no, vui tươi, tràn đầy âm thanh hạnh phúc. Những mơ ước ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi là nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ. Đó là ước mơ vĩ đại. Có thể nói: dù triều đình có thể xua đuổi Nguyễn Trãi nhưng ông vẫn sống lạc quan yêu đời, mong sao cho ước vọng lí tưởng của mình được thực hiện để nhân dân có một cuộc sống ấm no.

Bài thơ này đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn với tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”. Ông yêu thiên nhiên cây cỏ say đắm. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những phút giây bi quan của cuộc đời mình. Dù sống với cuộc sống thiên nhiên nhưng Ức Trai vẫn canh cánh “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng nhân dân, lí tưởng nhân nghĩa, lí tưởng mong cho thôn cùng xóm vắng không có một tiếng oán than, đau sầu.

27 tháng 2 2017

Nguyễn Trãi là một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Ông để lại cho đời sau nhiều tác phẩm có giá trị lớn.Nếu như “Bình Ngô đại cáo” của ông mang đầy nhiệt huyết, lòng tự tôn dân tộc thì bài thơ “Cảnh ngày hè” là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.
Mở đầu bài thơ “Cảnh ngày hẻ” là sáu câu thơ miêu tả cảnh ngày hè:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng Ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Tác giả đã đón nhận cảnh ngày hè trong tư thế ung dung, thoải mái khi ở ẩn, lúc nhà vua không còn trọng dụng tới nữa. Bức tranh cảnh ngày hè được tác giả vẽ lên thật rực rỡ và tươi đẹp với nhiều màu sắc. Đó là màu xanh của cây hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng lung linh của ánh nắng chiều. Tất cả hòa quyện lại với nhau. Tạo nên cảnh vật đặc trưng của mùa hè. Không chỉ cảm nhận bằng thị giác, tác giả còn cảm nhận cảnh vật bằng thính giác và khướu giác. Ông thấy mùi hương của ao sen, thấy âm thanh “lao xao” của làng chài, “dắng dỏi” của tiếng ve. Bức tranh cảnh ngày hè đã trở nên sinh động hơn, đặc sắc hơn với âm thanh và mùi vị. Mặc dù khung cảnh mà tác giả miêu tả là cuối ngày, khi mặt trời lặn nhưng mọi vật vẫn tràn đầy sức sống với những từ ngữ “đùn đùn”, “giương”, “phun”, “tiễn”, “ lao xao”, “dắng dỏi”. Những từ ngữ đó cũng góp phần thể hiện những điều trong lòng tác giả - ước mong được cống hiến cho nhân dân, cho đất nước. Nhiệt huyết đó như muốn phun ra, trào ra và lan tỏa đi khắp nơi. Trong sáu câu thơ này, tác giả đã thay đổi, không đi theo tính quy phạm của văn học phong kiến nữa. Ông miêu tả cảnh ngày hè với những sự vật vô cùng gần gũi với cuộc sống hằng ngày.
Hai câu cuối của bài thơ đã được tác giả gửi gắm trọn vẹn tâm tư và suy nghĩ :
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Tuy tác giả đón nhận cảnh ngày hè với tư thế ung dung trong một ngày nhàn rỗi nhưng ông vẫn luôn suy nghĩ, lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Cảm nhận cảnh ngày hè nhưng tác giả vẫn quan tâm tới cuộc sống của nhân dân. Thế nên ông nghe thấy âm thanh tấp nập, lao xao của làng chài. Ông quan tâm tới nhân dân, lo cho dân cho nước. Chính vì vậy, ông ước mong mình có cây đàn của vua Ngu Thuấn. Với cây đàn đó, Nguyễn Trãi có thể mang tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và đất nước.
Bài thơ “Cảnh ngày hè” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật có chen hai câu thơ lục ngôn. Tuy vậy, nhà thơ lại không tuân theo bố cục : Đề - Thực - Luận - Kết của thể thơ Đường luật. Chính vì thế, bài thơ mang nét đặc sắc riêng của một nhà thơ kiết xuất của dân tộc Việt Nam. Không chỉ thế, bài thơ còn có hình ảnh hoa lựu khiến ta liên tưởng tới hai câu thơ của Nguyễn Du:
“ Đầu tường hoa lựu lập lòe đơm bông”
Câu thơ của Nguyễn Du mang đậm chất tạo hình nhưng câu thơ của Nguyễn Trãi lại thể hiện được cá tính về nhiệt huyết của mình. Điều đó cho thấy rõ hơn tài năng của Nguyễn Trãi về thơ văn.
Bài thơ “Cảnh ngày hè” đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Ông là người yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Nhưng trên hết, ông là một người vừa có tài, vừa có tâm bởi ông luôn lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Ông muốn cống hiến nhiệt huyết của mình để nhân dân hạnh phúc, ấm no, đất nước giàu mạnh. Tư tưởng của Nguyễn Trãi như một bài học gửi gắm cho thế hệ trẻ về lòng yêu nước, ước mong cống hiến cho đất nước.

18 tháng 12 2019

Sáu câu thơ đầu: Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống ngày hè

- Hoàn cảnh sống của Nguyễn Trãi trong những ngày về ở ẩn:

+ “Rồi”: Là một từ cổ có nghĩa là rảnh rỗi, nhàn hạ

+ “Ngày trường”: Ngày dài, chỉ khoảnh thời gian rảnh rỗi.

+ Hóng mát: Hoạt động an nhàn, tĩnh tại, thư thái

→ Tâm thế an nhàn, thảnh thơi của tác giả. Nguyễn Trãi một đời bận rộn, tận tâm vì đất nước, đây là những giây phút hiếm hoi của cuộc đời.

- Bức tranh thiên nhiên rực rỡ, sống động.

+ Xuất hiện trong ba câu thơ là những sự vật quen thuộc của của mùa hè: lá hòe , thạch lựu, hoa sen.

→ Sự vật gần gũi, giản dị

+ Cách miêu tả sự vật của tác giả: Màu sắc - màu xanh của hoa hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, trạng thái - đùn đùn, rợp, phun, tiễn, mùi hương: mùi sen cuối hạ.

→ Cách miêu tả tinh tế, sinh động khiến các sự vật hiện lên vừa có màu sắc vừa có trạng thái, vừa có mùi hương

⇒ Các sự vật vốn gần gũi, giản dị nhưng qua cách phối hợp đường nét, màu sắc cùng các động từ mạnh đã vẽ lên một bức tranh căng tràn sự sống

⇒ Thể hiện tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên của của Nguyễn Trãi.

- Vẻ đẹp bức tranh cuộc sống con người

+ Nguyễn Trãi dùng nhiều từ Hán Việt như ngư phủ, cầm ve, tịch dương kết hợp nhuần nhuyễn với những từ thuần Việt tạo nên vẻ đẹp vừa mộc mạc, bình dị, vừa trang trọng tao nhã.

+ Cuộc sống được cảm nhận bằng âm thanh: Âm thanh từ làng chợ cá, của tiếng ve râm ran mỗi độ hè về

+ Nhà thơ sử dụng hai từ láy tượng thanh “lao xao” – âm thanh của những phiên chợ cá, “dắng dỏi” – diễn tả âm thanh của tiếng ve, kết hợp với nghệ thuật đảo cấu trúc câu nhằm nhấn mạnh những âm thanh bao trùm làng quê.

→ Cuộc sống sôi động, ồn ão, tràn đầy sức sống và âm thanh.

⇒ Cả thiên nhiên và con người đều hiện lên tràn đầy sức sống

⇒ Tâm hồn lạc quan, yêu đời, tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên, tha thiết với cuộc sống quê nhà của nhà thơ Nguyễn Trãi.

2 tháng 1 2022

Em tham khảo:

Nguyễn Trãi là một nhà quân sự, nhà chính trị, anh hùng dân tộc, nhà văn, nhà thơ lỗi lạc của dân tộc. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Nguyễn Trãi cũng hướng về lợi ích của nhân dân, của đất nước. Ông cũng là một người có lòng yêu thiên nhiên tha thiết. Trong khoảng thời gian bị nghi kị phải lui về ở ẩn ở Côn Sơn, ông dường như đắm chìm, vui vầy với thiên nhiên cây cỏ. Phân tích vẻ đẹp tâm hồn của nguyễn trãi qua bài thơ “Cảnh ngày hè” ta sẽ thấy rõ điều đó.

Trong sự nghiệp văn chương, Nguyễn Trãi để lại cho nền văn học Việt Nam di sản vô giá. Nếu với “Bình Ngô đại cáo”, ông thể hiện sự đanh thép trong bản tuyên ngôn độc lập thứ hai (sau Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt) hướng đến nhân dân, dân tộc; thì ở “Cảnh ngày hè” Nguyễn Trãi lại hiện lên với vẻ đẹp tâm hồn qua tình yêu dành cho cảnh sắc thiên nhiên.

Bài thơ “Cảnh ngày hè” như một bức tranh thiên nhiên sống động được Nguyễn Trãi khắc họa bằng ngôn từ, với đầy đủ hương thơm, sắc màu, âm thanh. Nhưng ẩn sâu cái bức tranh ấy là tâm hồn đẹp đẽ của người thi nhân giữa cuộc sống thôn quê bình dị.

Tình yêu thiên nhiên của Nguyễn Trãi thể hiện ở ngay đầu bài thơ với tư thế của nhân vật trữ tình trong câu thơ:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường”

Câu thơ có một nhịp thơ thật lạ lùng: 1/5. Nhưng chính nhịp thơ này lại mang đến cảm giác một ngày thư thái, rỗi rãi. Người thi nhân lúc này dù ngồi trước hiên nhà hóng mát, dù chìm đắm vào thiên nhiên cũng không thể quên hết việc đời. Nên cảm xúc của nhà thơ thực sự không phải thanh thản, nhẹ nhõm gì. Điều này thể hiện ở từ “ngày trường”, nghĩa là một ngày rất dài, gợi cho thấy sự buồn chán, vô vị.

Hầu hết các nhà thơ thường được trao nhiều cảm hứng bởi mùa thu xao xuyến hay mùa xuân tươi mới, nhưng với Nguyễn Trãi thì lại là mùa hè. Vốn là một người yêu thiên nhiên tha thiết, hồn thơ lại khoáng đạt và cảm xúc tinh tế, Nguyễn Trãi đã vẽ nên trước mắt người đọc một bức tranh mùa hạ tuyệt đẹp với đủ sắc hương:

“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Nhắc đến mùa hè, thì cây hòe là một trong những hình ảnh rất đặc trưng. Những tán lá hòe “đùn đùn” trải rộng, che mát một khoảng sân. Từ láy “đùn đùn” mang một sức gợi hình mạnh mẽ, người đọc như thấy nhựa sống của cây đang căng tràn trong từng cành lá. Còn bên hiên nhà, hoa lựu đỏ rực và tỏa hương thơm. Cái màu đỏ của hoa lựu khiến không gian dường như có sự chuyển động, có sự bừng sáng hòa cùng đám lá xanh của cây hòe. Như ta cũng từng bắt gặp hình ảnh hoa lựu rực rỡ trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du: “Dưới trăng quyên đã gọi hè/Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông”.

 

Sắc đỏ của hoa lựu được nhà thơ quan sát và đưa vào không chỉ bởi nó là đặc trưng của mùa hè, mà dường như còn muốn làm nổi bật lên sức sống của mùa hè. Cùng với hoa lựu, sen dưới ao nhà cũng đang tận hưởng mùa hè bằng sắc hồng và hương thơm quyến rũ. Đến đây ta thấy, nếu như câu thơ đầu thể hiện tâm sự nhàn rỗi chán chường của nhà thơ, thì lúc này, trước hương sắc và sức sống của mùa hè, trước thiên nhiên rực rỡ; tâm hồn thi nhân đã trở nên tươi vui và say mê thưởng thức. Bởi thế mà nhà thơ mới gợi ra được sự sinh động của thiên nhiên trong từng màu sắc, đường nét.

Và bức tranh ấy, còn thi vị hơn nữa, đầy say mê hơn nữa khi không chỉ có sắc, có hương mà còn có sự hòa quyện của âm thanh cuộc sống thôn quê bình dị:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.”

“Lao xao” là âm thanh nghe đâu đó xa xa vọng lại, chẳng rõ ràng nhưng vẫn văng vẳng âm vang. Một chữ “lao xao” đã đủ tái hiện âm thanh cuộc sống thường nhật của làng chài. Đọc câu thơ này, người đọc có thể hình dung thấy cảnh chợ cá thân quen, bận rộn với cảnh kẻ bán người mua.

Mùa hè còn có tiếng kêu inh ỏi của đám ve. Tiếng ve là tiếng gọi hè, cũng như thúc giục nhưng hoa những sắc màu của mùa hè bừng nở, tỏa rực. Và tiếng ve cũng làm đầy không gian tĩnh lặng của căn lầu giữa buổi chiều buông.

Như vậy, qua bài thơ “Cảnh ngày hè” có thể thấy, Nguyễn Trãi cảm nhận bức tranh thiên nhiên với vả thị giác, khứu giác và thính giác. Vì vậy, cảnh ngày hè trong thơ hiện lên thật rộn rã và căng tràn sức sống. Có lẽ chính tính yêu thiên nhiên say đắm, sự tinh tế trong cảm nhận đã giúp người thi nhân quan sát, miêu tả và tận hưởng thiên nhiên ngày hè thật tỉ mỉ và đặc sắc như thế.

Nguyễn Trãi là người yêu thiên nhiên, và cũng bởi vậy mà qua thiên nhiên ông muốn nói lên tâm sự, tâm tình ẩn sâu trong lòng. Và mặc dù ông đang vui với thiên nhiên, có vẻ như đang hòa hợp với đời sống thôn quê, nhưng cái tình chủ đạo của bài thơ vẫn là tấm lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi, là nỗi niềm trăn trở của ông về đất nước. Chính cái khung cảnh thiên nhiên và cuộc sống bình dị thường nhật những ngày hè ở thôn dã đã mở ra ước vọng tha thiết trong lòng nhà thơ:

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.”

Hai câu thơ cuối này, dường như là sự kết đọng bao suy tư, trăn trở của người thi nhân. Người ta vẫn nói, “tức cảnh sinh tình”, quả không sai. Cái tình ở đây của Nguyễn Trãi là ông ước có trong tay cây đàn của vua Thuấn để tấu lên một khúc “Nam phong” – khúc nhạc mang ước vọng cầu cho nhân dân muôn nơi được sống ấm no, hạnh phúc. Câu thơ mang nặng nỗi lo cho dân, cho nước, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao cả của một người dành suốt cuộc đời đấu tranh cho lợi ích dân tộc.

Tâm tình này của Nguyễn Trãi không khỏi làm ta liên tưởng tới tấm lòng khao khát vì dân của Đỗ Phủ trong bài thơ “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá”:

“Ước được nhà rộng muôn ngàn gian,
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,
Gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn!
Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững đứng trước mắt,
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!”

Qua đó ta thấy, Nguyễn Trãi và Đỗ Phủ có sự tương giao trong tư tưởng, nhận thức của như nỗi niềm thời đại. Ta còn thấy rõ hơn, Nguyễn Trãi bấy lâu dù có lui về ở ẩn, dù có vẻ như vui vầy với gió mây cây cỏ, thì trong tâm vẫn nặng trĩu nỗi lo nước, thương đời. Suốt cuộc đời, mọi việc ông làm đều hướng đến một khát vọng, khi có giặc thì trừ giặc, hết giặc thì lo ấm no, hạnh phúc cho dân. Tình yêu nước, thương dân này của ông đã vang danh bao đời và còn vang danh ngàn đời. Điều này chính là cốt cách, tư tưởng nhân đạo sâu sắc của nhà thơ.

 

Qua phân tích vẻ đẹp tâm hồn của nguyễn trãi, ta có thể cảm nhận được biết cao tình cảm, bao nhiêu suy tư, trăn trở của Nguyễn Trãi. “Cảnh ngày hè” không chỉ vẽ nên trước mắt người đọc một bức tranh thiên nhiên tươi sáng, nhiều sắc màu và tràn đầy sức sống; mà hơn thế còn cho ta thấy vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi, chân dung tinh thần của người anh hùng dân tộc, cũng là người nghệ sĩ hết mực tại hoa.

Bên cạnh nội dung, tình cảm đáng trân trọng, bài thơ “Cảnh ngày hè” còn thể hiện cái tài của Nguyễn Trãi trong nghệ thuật văn chương. Với tác phẩm này, ông dùng thể thơ thất ngôn xen với lục ngôn và dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ nghệ thuật có sức biểu cảm, biểu nghĩa tuyệt vời. Các hình cảnh của thôn dã được ông đưa vào thơ gợi sự gần gũi, bình dị và mang đậm “chất” Việt Nam. Nếu văn chương cổ bài xích hình ảnh dân dã như “chợ cá” hay âm thanh của đời thường, thì Nguyễn Trãi lại yêu thích và đưa vào thơ, tạo sự gần gũi, bình dị và mang đậm “chất” Việt Nam”.

23 tháng 3 2022

Cuối đoạn thơ, mặc dù Kiều đã giãi bày hết nỗi khổ tâm riêng của mình với em, đã nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng những đau khổ vì tình duyên tan vỡ trong tâm trí nàng vẫn không nguôi. Vẫn còn mang nặng nợ tình với Kim Trọng, vẫn biết mình phận bạc, Thúy Kiều vẫn phải thốt lên đau đớn:« Ôi Kim lang hỡi Kim lang. Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây »Phải chăng đây là tiếng thơ kêu xé lòng mà sau này nhà thơ Nguyễn Du đã nói thay bao người, bao thế hệ! Chỉ một câu thơ và tên Kim Trọng được gọi đến hai lần. Những thán từ « ôi, hỡi » khiến câu thơ vang lên như một lời than, tiếng gọi thảng thốt, nghẹn ngào, mang theo lời trăn trối cuối cùng gửi đến chàng Kim trước lúc đi xa. Kiều đã rất ân cần với chàng Kim thế mà giờ đây nàng tự nhận mình là người phụ bạc, không đổ lỗi cho hoàn cảnh mà tự nhận hết trách nhiệm về mình. Nàng đâu còn nghĩ đến nỗi đau của riêng mình. Tất cả tấm lòng, sự lo lắng lại dành cho hạnh phúc của người mình yêu. Kiều thương chàng Kim hơn chính bản thân mình.

19 tháng 12 2020

Tham khảo:

Bàn luận về chữ “Nhàn” trong hai bài thơ:

 - Cả hai bài thơ đều thể hiện chữ “Nhàn”; thực chất đây là lối sống nhàn tản, xuất thế, cách ứng xử tiêu cực của những nhà nho không gặp thời. Đối chiếu với hoàn cảnh cụ thể của hai bài thơ, ta thấy việc về nhàn là cách duy nhất để giữ gìn khí tiết. Nhưng một khi đã về “nhàn”, các nhà thơ lại rộng mở tấm lòng, hòa mình với cuộc sống nơi thôn dã. - Mức độ thể hiện của chữ “Nhàn” ở hai bài thơ có sự khác nhau:

+ Nguyễn Trãi tuy về nhàn nhưng vẫn đau đáu trong nỗi niềm ái quốc ưu dân. Ông nhàn cư chứ không nhàn tâm. Đây chính là tinh thần nhập thế tích cực ngay cả khi đã về nhàn.

+ Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, “Nhàn” được nâng lên thành triết lí sống, thành một lựa chọn. Về nhàn ông đã thật sự tìm được sự thoải mái về tinh thần cũng như về thể xác (“nội đắc tâm thân lạc”. - Tuy có những biểu hiện khác nhau nhưng cả hai bài thơ đều cho thấy cách sống lạc quan và đặc biệt là tâm hồn thanh cao của các vị danh nho