Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
1.Lấy 2 chậu cây, 1 chậu có lá và 1 chậu không có lá. Chùm túi nilông lên cả hai chậu. Sau một thời gian thì thấy ở chậu cây có lá xuất hiện hơi nước trong túi nilông. còn chậu không có lá thì không có hiện tượng. Chứng tỏ cây thoát hơi nước qua lá.
vì khí que đóm đang cháy mà khi đặt vô cốc thủy tinh thì vụt tắt nên rút ra kl: cây lấy oxi trong không khí
Đặt cây nằm trong cốc lên tấm kính , úp ngược cốc thuỷ tinh to vào cốc có cây trồng . Lấy túi giấy đen bao lại . Sau 4 giờ , mở túi giấy đen ra . Đặt đóm đã được đốt vào cốc thuỷ tinh to . Ta nhận thấy đóm ko tiếp tục cháy vì cây đã lấy ô xi để thực hiện quá trình hô hấp .
Thí nghiệm.
- Đặt cây vào chậu thủy tinh, bịt kín bằng lắp.
- Dùng tấm vải đen bao kín không để có ánh sáng..
- Để qua 1 đêm đến sáng hôm sau ta dùng que diêm đốt cháy nên cho vào lọ thủy tinh.
- Que diêm ngay lập tức tắt không cháy nữa.
\(\rightarrow\) Không có khí $O_2$ duy trì sự cháy trong bình. Chứng tỏ rằng trong quá trình hô hấp cây đã sử dụng hết khí $O_2$
CO2 vì nó làm dd ca(oh)2 bị vẩn đục
vì có cây, khi cây thực hiện qt hô hấp sẽ lấy oxi từ mt và thải ra co2 mt kk .ở hai bên là như nhau nhưng bên A có thêm cây nên lượng co2 lớ hơn-> lớp vẩn .đục dày hơn
khi k có .ánh sáng qt hô hấp diễn ra mạnh hơn(cái kết luận nì k chắc :p)
Không khí trong hai chuông đều có chất khí ca bô níc(CO2) vì ở cả hai chuông đều có lớp váng trắng
Vì cây ở chuông A đã nhả ra khí CO2
Từ đó rút ra kết luận khi ko có ánh sáng cây sẽ hô hấp ( lấy vào khí ôxi nhả ra khí ca bô níc)
Bước 1: đặt cốc có cây vào cốc thủy tinh to, dùng tấm kính đậy kín
B2: dùng túi đen bọc toàn bộ cốc sao cho ánh sáng ko lọt vào. Để trong đó 4h.
B3: đốt que đóm rồi mở nhẹ tấm kính và cho vào xem cây đóm có cháy ko
Từ những dụng cụ trên, ta có thí nghiệm sau :
Bước 1 : Đặt 2 chậu cây vào chỗ tối 2 ngày để tinh bột ở lá bị tiêu hết đi.
Bước 2 : Đặt mỗi chậu cây lên một tấm kính ướt. Dùng hai chuông thủy tinh ( A hoặc B ) úp ra ngoài mỗi chậu cây.
Bước 3 : Trong chuông A cho thêm cốc nước vôi trong, để dung dịch này hấp thụ hết các khí cacbonic của không khí trong chuông.
Bước 4 : Đặt 2 chuông thí nghiệm ở chỗ có nắng. Sau khoảng 5 - 6 giờ, ngắt lá của mỗi cây để thử tinh bột bằng iot loãng.
* . Kết quả :
- Lá ở chuông A có màu vàng
- Lá chuông B có màu tím đen
* . Kết luận :
- Khi chế tạo tinh bột, cây cần khí cacbonic, ánh sáng, nước và chất diệp lục.
- Dùng cây có đủ rễ, thân, lá để làm cây đối chứng, dùng cây không có lá để chứng minh lượng nước lọ A bị mất đi là do thoát hơi nước qua lá.
- Thí nghiệm của Tuấn và Hải đã chứng minh được điều này vì ta có thể thấy trong thí nghiệm phần lớn nước vào cây là do rễ hút vào và được thoát ra ngoài nhờ lá. Thí nghiệm Dũng và Tú mới chỉ chứng minh được có sự thoát hơi nước qua lá.
- Ta có thể rút ra kết luận: Phần lớn nước do rễ hút cây và được thoát ra ngoài nhờ sự thoát hơi qua lá.
- Tiến hành: Lấy 2 cốc nước vôi trong giống nhau, đặt lên hai tấm kính ướt rồi dùng 2 chuông thuỷ tinh A và B úp vào. Trong huông A có đặt một chậu cây. Cho cả 2 chuông thí nghiệm vào bóng tối.
- Kết quả: Sau khoảng 6 giờ ngắt thấy cốc nước vôi trong ở chuông A có váng dày và đục hơn ở chuông B.
- Giải thích: Cả 2 cốc nước vôi trong ở 2 chuông đều đục là bởi vì trong không khí có khí cacbonic khi tác động với dung dịch nước vôi trong tạo chất kết tủa là váng. Cốc B váng mỏng hơn là do chỉ có cacbonic của không khí còn ở cốc A váng dầy và đục hơn là mởi vì ngoài cacbonic trong không khí còn có khí cacbonic của cây nhả ra.
- Kết luận. Từ thí nghiệm trên chứng tỏ khi cây hô hấp thì nhả ra khí cácbonic