Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Tuổi hai mươi làm sao không tiếc?
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ Quốc?
(Trường ca “Những người đi tới biển” – Thanh Thảo)
Những câu thơ trên của Thanh Thảo đã thể hiện lí tưởng cao đẹp của thế hệ trẻ thời chống Mĩ cứu nước. Qua đó tác giả nhắc nhở thế hệ trẻ chúng ta hôm nay: Bất cứ thời đại nào, mỗi con người chúng ta nhất là thế hệ thanh niên cũng luôn phải ý thức vai trò trách nhiệm của mình đối với đất nước. Trước tiên thế hệ trẻ phải xác định tư tưởng, tình cảm, lí tưởng sống của mình: yêu quê hương đất nước, tự hào tự tôn dân tộc, có ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của dân tộc; lao động, học tập để khẳng định bản lĩnh, tài năng cá nhân và phục vụ cống hiến cho đất nước, sẵn sàng có mặt khi Tổ Quốc cần. Thời đại ngày nay, xu thế toàn cầu là xu thế hội nhập, khoa học kĩ thuật phát triển với tốc độ cao, vậy thế hệ trẻ cần phải học tập tích lũy tri thức để góp phần phát triển đất nước theo kịp thời đại, hội nhập với xu thế phát triển chung của quốc tế. Bên cạnh đó, phải rèn luyện sức khỏe để có khả năng cống hiến và bảo vệ đất nước. Đồng thời thanh niên cũng cần quan tâm theo dõi đến tình hình chung của đất nước, tỉnh táo trước hành động của mình không bị kẻ xấu lợi dụng. Về vấn đề chủ quyền biển đảo, thanh niên cần hưởng ứng và tích cực các diễn đàn hợp pháp trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên Internet, khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam trên các diễn đàn, đồng thời kịch liệt lên án và đấu tranh tham gia ngăn chặn các hành vi vi phạm xâm phạm chủ quyền biển, hải đảo thiêng liêng của Tổ Quốc, phải luôn có “trái tim nóng, cái đầu lạnh”. Như vậy, xây dựng và bảo vệ tổ quốc là trách nhiệm thiêng liêng của thanh niên nói riêng và của mỗi con người Việt Nam nói chung.
Dài ~~ Tự tóm tắt lại
Nhiều nhà thơ, nhà văn đã lấy tuổi trẻ, lấy thanh niên để làm đề tài cho bài văn, bài thơ của mình. Ngày trước, đã có biết bao anh hùng vì đất nước tổ quốc Việt Nam mà không quản ngại khó khăn, xả thân mình vì độc lập tự do của nước nhà. Đặc biệt có những anh hùng hi sinh khi tuổi đời còn rất trẻ. Vậy, vấn đề được đặt ra ở đây là tuổi trẻ ngày nay cần có trách nhiệm như thế nào để giúp đất nước phát triển thịnh vượng như các bị tiền bối ngày xưa ??? Để giúp nước nhà phát triển, đầu tiên các bạn trẻ cần ra sức học tập thật chăm chỉ để có kiến thức thật vững vàng. Thứ hai, các bạn trẻ phải có hướng đi thật đúng đắn cho nghề nghiệp tương lai của mình để có thể phục dựng cho nước nhà theo hướng tốt nhất phù hợp với năng lực của mình. Và hơn nữa, các bạn còn cần phải ràn luyện thêt lực để có thể cống hiến trong trong trong bất cứ khi nào. Nói chung, việc giúp đỡ, cống hiến, cho nước nhà luôn là việc cần thiết nhất ở mỗi thời đại
Đoạn thơ bộc lộ cảm xúc dạt dào của tác giả trước những vẻ đẹp bình dị trên đất nước Việt Nam thân yêu. Hình ảnh “biển lúa” rộng mênh mông gợi cho ta nièm tự hào về sự giàu đẹp, trù phú của quê hương. Hình ảnh “cánh cò bay lả dập dờn” gợi vẻ nên thơ, xao xuyến mọi tấm lòng. Đất nước còn mang niềm tự hào với vẻ đẹp hùng vĩ của “đỉnh Trường Sơn” cao vời vợi sớm chiều mây phủ. Đoạn thơ đã giúp ta cảm nhận được tình cảm thiết tha yêu quý và tự hào về đất nước của tác giả Nguyễn Đình Thi.Đất nước Việt Nam ta hiện ra trong khổ thơ trên của nhà thơ Nguyễn Đình Thi thật giàu đẹp và đáng yêu, thật nên thơ và hùng vĩ. Sự giàu đẹp và đáng yêu đó đựoc thể hiện qua những hình ảnh: Biển kúa mênh mông hứa hẹn một sự no đủ, cánh cò bay lả rập rờn thật thanh bình, giản dị và đáng yêu. Sự hùng vĩ và nên thơ được thể hiện qua hình ảnh đỉnh Trường Sơn cao vời vợi sớm chiều mây phủ. Đất nước Việt Nam ta tươi đẹp biết nhường nào!
Bài thơ được viết dưới thể lục bát, âm điệu nhẹ nhàng, bay bổng nhưng cũng không kém phần sôi nổi, trầm hùng. Câu thơ mở đầu như câu hát ca ngợi da diết:
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều.
Từ lâu, 4 câu thơ trên đã đi vào tiềm thức mỗi người dân Việt Nam như một niềm tự hào về quê hương. Nhà thơ đã tinh tế vẽ nên một bức tranh màu sắc hài hòa, tươi đẹp, rất đặc trưng của làng quê Việt. Giữa nền xanh biếc “biển lúa” là hình ảnh đàn cò trắng chao nghiêng rập rờn. Cánh cò ấy không cao vút tầng không mà “bay lả” giữa cánh đồng, dưới những đám mây mờ bị che phủ bởi đỉnh núi, mở ra khung cảnh về một đất nước thanh bình.
Để có được sự thanh bình ấy, dân tộc ta đã phải trải qua bao đau thương, mất mát, chịu bao gông xiềng của phong kiến, đế quốc. Hình ảnh “mảnh áo nâu nhuộm bùn” như minh chứng cho sự gian lao, tảo tần, cho đức hy sinh của những con người thật thà, chất phác. Trước muôn vàn khổ đau, mảnh đất nghèo biến những con người bé nhỏ thành những anh hùng bất khuất, không chịu lùi bước trước bạo tàn mà “chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên”. Trong mọi hoàn cảnh, lòng yêu nước luôn được đặt lên trên hết.
Chiến thắng của nhân dân ta cũng chính ở tinh thần tự cường và ý chí gan dạ ấy. Vần thơ Nguyễn Đình Thi độc đáo ở chỗ, bên cạnh những cụm từ nhanh, mạnh còn là những gam màu nóng của “áo nâu”, “máu lửa”, “đất đen”, thể hiện bản lĩnh kiên định của người dân chân chất yêu chuộng hòa bình. Cao cả hơn là tính nhân văn được tác giả gói gọn trong câu thơ “súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”. Những con người không chỉ anh dũng trong chiến đấu mà còn biết vượt qua mất mát chiến tranh, chịu thương, chịu khó cùng nhau xây dựng đất nước hòa bình, hạnh phúc.
Từ bức tranh làng quê tươi đẹp, thanh bình ở hiện tại, tác giả gợi lại hình ảnh quá khứ hào hùng của dân tộc, để rồi sau đó lại hòa âm điệu nhẹ nhàng, thanh thoát vào nhịp sống mới mẻ. Đó là một Việt Nam chan hòa ánh nắng, nơi “hoa thơm, cỏ ngọt bốn mùa trời xanh”, nơi con người “yêu trọn tấm tình thủy chung”. Đất nước còn mang vẻ hữu tình bởi vô vàn cảnh sắc tươi mới: màu đen đôi mắt trở nên “long lanh” đầy cảm xúc, bàn tay rắn rỏi trong đau thương cũng như có “phép tiên”… Tất cả dệt nên một cuộc sống tinh khôi.
Quê hương không chỉ là nơi ta sinh ra, mà còn là nơi in dấu tuổi thơ, nơi của những “bâng khuâng chuyến đò” mà đêm đêm vọng câu hò Trương Chi. Mảnh đất “chôn rau, cắt rốn” ấy chan chứa bao nghĩa tình, khiến ai đi xa cũng phải nhớ về. Điệp từ “ta đi ta nhớ” càng nhấn mạnh tình yêu son sắt, sự gắn bó bền chặt:
Ta đi ta nhớ núi rừng
Ta đi ta nhớ dòng sông vỗ bờ
Từ nỗi nhớ nước non đến nỗi nhớ những điều dung dị, mộc mạc:
Nhớ đồng ruộng, nhớ khoai ngô
Bát cơm rau muống quả cà giòn tan
“Ta” lớn lên nhờ đồng ruộng và khoai ngô, nhờ bữa cơm đạm bạc của rau muống, quả cà dầm tương. Thức quà của làng quê giản dị mà nuôi nấng biết bao thế hệ nên người. Dù mai này cất bước đến đâu, bữa cơm ấy vẫn luôn hiện hữu như sợi dây gắn kết để gợi nhớ quê hương. Yêu đất nước cũng chính là yêu từ bao điều bình dị như thế.
Đất nước ngày một khang trang, đời sống nhân dân cũng đổi thay rõ rệt. Vậy nhưng, hình ảnh hào hùng trong quá khứ và niềm vui của con người những năm đầu hòa bình sẽ mãi trường tồn với thời gian. Để mỗi chúng ta có thể tự hào rằng, Việt Nam đất nước ta ơi/ Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn…
Việt Nam là một quốc gia ven biển, có chiều dài bờ biển trên 3620 km, với hơn 3000 hòn đảo lớn nhỏ, đặc biệt có hai quần đảo lớn là Trường Sa và Hoàng sa. Biển nước ta được xác định theo 5 vùng: Nội thủy, lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế, thềm lục địa. Theo Công ước của Liên Hiệp quốc về Luật biển năm 1982 Việt Nam có vùng biển rộng hơn 1 triệu km2, ước tính chiếm khoảng 30% diện tích Biển Đông. Biển đảo là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam, gắn với quá trình sinh tồn và phát triển từ ngàn đời của dân tộc ta.
Biển đảo nước ta có vị trí chiến lược hết sức quan trọng, liên quan trực tiếp đến độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đến sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Biển nước ta chứa đựng nhiều giá trị về kinh tế, là trục giao thông đường biển quốc tế từ Thái Bình Dương sang Đại Tây Dương, chứa đựng tiềm năng kinh tế - du lịch biển to lớn. Nhìn từ góc độ an ninh quốc phòng, biển đảo nước ta là không gian chiến lược đặc biệt quan trọng, là tuyến phòng thủ nhiều tầng, nhiều lớp, là những điểm tựa, những pháo đài tiền tiêu, là lá chắn vững chắc từ hướng biển. Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta cho thấy trong số 14 lần kẻ thù tiến công xâm lược nước ta có tới 10 lần chúng bắt đầu từ hướng biển. Nhớ lại lịch sử và để chúng ta cảm nhận được câu thơ của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến: Thương đất nước trên ba ngàn hòn đảo/ Suốt ngàn năm bóng giặc vẫn chập chờn. Với vị trí địa lý như thế, bảo vệ và giữ gìn biển đảo trở thành nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Từ ngày 7/5 đến ngày 16/5/2016, Đoàn cán bộ Học viện Cảnh sát nhân dân được vinh dự tham gia Đoàn công tác số 11 của Quân chủng Hải quân đi thăm, kiểm tra quân dân quần đảo Trường Sa và Nhà Dàn DK1. Một hành trình hàng trăm hải lý, một trải nghiệm hải trình đầy ý nghĩa để có sự hiểu biết về biển đảo bằng trực giác, bằng cảm nhận từ thực tế với thật nhiều cảm súc dạt dào. Có lẽ hiếm có cơ hội trong cuộc đời mỗi người chúng ta có dịp được đi và trải nghiệm Trường Sa. 10 giờ sáng ngày 7/5/2016 Tàu 996 chở 198 hành khách cùng với các chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng rẽ sóng tiến về biển đảo xa xăm. Chúng tôi thật không thể diễn tả hết tâm trạng chờ đợi mong mỏi để được đến với các hòn đảo nơi đầu sóng ngọn gió, vị trí tiền tiêu của Tổ quốc.
Tàu 996 đưa Đoàn công tác số 11 ra thăm và làm việc tại quần đảo Trường Sa
Hành trình của Đoàn công tác cập đảo Đá lớn vào lúc 14 giờ ngày 9/5/ 2016, được gặp gỡ, giao lưu cùng các chiến sĩ Hải quân làm nhiệm vụ trên Đảo. Qua làm việc, thăm hỏi, giao lưu, chúng tôi mới thấy hết ý thức trách nhiệm, tình yêu của người lính đối với mỗi hòn đá, mỗi con sóng, giữa nắng gió và bão tố biển khơi. Giữa biển cả mênh mông, nơi chỉ có những con sóng bạc đầu, nơi ngày đêm người lính đảo luôn hướng về đất liền, tiếng cười, giọng nói, cái bắt tay, đôi câu trò truyện như những điều giản dị đời thường nhưng giữa đảo sóng xa xôi ấy lại là niềm mong mỏi, khát khao, chờ đợi…Có lẽ giữa bốn bề dài rộng vô tận của biển cả mỗi chúng ta mới thấy hết cái qúy giá của gọng nói, nụ cười, của những lời động viên chia xẻ. Trong bao la sóng dội ấy có tiếng cười đồng đội, có tình quân dân nồng ấm thân thương, có sự chia xẻ và có cả niềm tin vào sự vững bền của chân lý chủ quyền, của những giá trị thiêng liêng cao cả. Sự cao cả ở đây không chỉ là những khẩu hiệu, những chỉ thị mà là những việc làm rất cụ thể, là sức chịu đựng của những chàng trai lính đảo trước cái nắng nóng của biển đảo, sự chát mặn của biển sâu, những khó khăn, thiếu thốn trăm bề của đời sống vật chất và tinh thần giữa đảo xa vây quanh bốn bề sóng nước…
Đoàn cán bộ Học viện CSND chụp ảnh tại Cột đá chủ quyền Đảo Trường Sa lớn
Hành trình thăm và làm làm việc với quân dân đảo Trường Sa đưa chúng tôi đến với đảo Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn Đông, Cô Lin, Phan Vinh A, Phan Vinh B, Đảo Đá Tây, Đảo Trường Sa Lớn và đến Nhà Dàn DK1 khép lại hành trình đầy ắp những trải nghiệm quý giá.
Đồng chí Đại tá, PGS,TS. Phạm Thái Bình - Trưởng đoàn tặng quà của Học viện CSND cho chiến sĩ Đảo Sơn Ca.
Được tới những đảo chìm, đảo nổi thuộc quần đảo Trường Sa, được tận mắt nhìn, suy ngẫm mới thấy biển cả thật rộng lớn, hùng vĩ và thân thương đến nhường nào! Biển đã trở thành một phần máu thịt của người dân Việt Nam, là một phần lãnh thổ thiêng liêng không thể tách rời, không thể chia cắt, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng. Biết bao máu xương, công sức, mồ hôi, nước mắt của các thế hệ người Việt đã đổ xuống để xác lập quản lý và bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền các đảo trên Biển Đông!
Mang trong mình tình yêu biển cả da diết, nhưng chỉ khi được đến, trực tiếp nếm vị mặn chát của nước biển, trực tiếp chứng kiến những khó khăn vất vả của các chiến sĩ biển đảo Trường Sa chúng tôi mới càng ngấm, càng hiểu và càng thấy yêu quý Tổ quốc Việt Nam, dải đất cong cong hình chữ S đã trải qua bão dông, khói lửa, gian khó nhọc nhằn và sinh tồn cùng 4000 năm dựng nước, giữ nước. Đất nước của thế đứng, của nhưng bài ca chiến trận “sáng chắn bão dông, chiều ngăn nắng lửa…”. Đến với Trường Sa, chúng tôi càng cảm nhận hết câu nói của Bác Hồ kính yêu từng căn dặn “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng/ Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển/ Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”.
Khi đoàn chúng tôi dừng lại tại vùng biển đảo Gạc Ma - Cô Lin thuộc quần đảo Trường Sa - nơi mà cách đây 28 năm, vào ngày 14/3/1988 đã diễn ra cuộc chiến đấu và hy sinh anh dũng của cán bộ chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam vì sự vẹn toàn chủ quyền biển đảo thân yêu của Tổ quốc. Lễ tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ Hải quân nhân dân Việt nam đã hy sinh trên quần đảo Trường Sa được tổ chức thành kính, trang nghiêm trên bong Tầu 996. Những người con anh hùng của đất mẹ Việt Nam đã vĩnh viễn nằm lại nơi biển sâu hàng ngàn mét trong lòng đại dương mênh mông, trong sóng vỗ gầm gào, trong nước biển mặt chát như máu và nước mắt, như tình thương và uất hận dâng trào…Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến từng viết: Máu đã đổ ở Trường Sa ngày ấy/ Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi thân/ Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả/ Những chàng trai ra đảo đã quên mình…Trường Sa hôm nay trong Lễ tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ, trong tĩnh lặng trầm tư của lòng người và sự lặng im hiếm hoi của biển cả, đồng chí Đại tá Đoàn Huy Tòng, Phó chủ nhiệm Hậu cần quân chủng Hải quân xúc động đọc Diễn văn tưởng niệm đưa chúng tôi về trở về với thời máu và hoa của dân tộc…Trong những chiến sĩ đã yên mình dưới lòng biển cả đất mẹ thân yêu có những chàng trai binh nhất, binh nhì, khi hy sinh chưa tròn một tuổi quân, chưa một lần biết yêu. Những chàng trai tuổi hai mươi ấy đã hóa thành sóng nước với biết bao nhiêu ước mơ, những nhiệt huyết đam mê tuổi trẻ còn dang dở, đành gửi lại biển xanh và nổi chìm cùng con sóng. Để hôm nay, những thông điệp về những giá trị sống được kết nối, hiện hữu và linh nghiệm trở về… Thông điệp ấy nói với chúng ta rằng, hơn tất cả là sự biết ơn, sự thành kính và tiếc thương những đồng chí đồng đội của chúng ta đã vĩnh viễn nằm lại nơi biển sâu. Họ để lại cho chúng ta một ý nghĩa cao cả về giá trị sống, để mỗi chúng ta cần học bài học để sống tốt hơn, không hổ thẹn với lương tâm mình và với những người đã ngã xuống trên biển đảo vì chủ quyền linh thiêng nơi vọng gác tiền tiêu của Tổ quốc.
Khi làm lễ Tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ tại vùng đảo Gạc Ma và tại vùng biển Nhà Dàn DK1, chúng tôi đã thả lễ vật, hương hoa, các vật dụng xuống biển như một hành động tri ân, tấm lòng thành kính trước hương hồn của các liệt sĩ hy sinh vì biển đảo quê hương. Biển sâu xanh thẳm, lạnh và mặt chát, sự liên tưởng về một nghĩa trang bằng nước, nơi sâu thẳm của đại dương, chúng tôi và Tổ quốc luôn ghi công và nhớ về các anh! Vẫn biết không có cuộc chiến tranh nào lại không có sự hy sinh, những mất mát, bi thương. Các anh và còn nhiều lắm các liệt sĩ đã hy sinh và hóa thành tượng đài bất tử cho Tổ quốc được hòa bình. Nhớ lại những năm tháng chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, những nghĩa trang Trường Sơn, Quảng Trị, những nghĩa trang liệt sĩ ở tất cả các tỉnh thành trên đất nước từ Ải Năm Quan đến đất Mũi Cà Mau, từ Trường sơn đến nghĩa trang liệt sĩ trên biển đảo Trường Sa… Không chỉ có nghĩa trang trên biển mà có cả nghĩa trang trên sông. Có lẽ không một quốc gia nào giống như Việt Nam lại có nhiều nghĩa trang liệt sĩ đến thế. Hầu như làng nào, xã nào cũng có nghĩa trang liệt sĩ. Chỉ tính riêng ở Quảng trị đã có 72 nghĩa trang rồi với hàng vạn ngôi mộ. Nếu mỗi ngôi mộ chỉ thắp lên một ngọn nến thì đêm đêm cả nước ta sẽ sáng rực lên như một dải ngân hà. Chúng ta đã từng thả hoa và nến trên sông Thạch Hãn, hoa tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đã trôi đỏ trên dòng sông Thạch Hãn cùng những âm hưởng hào hùng bi tráng… Và hôm nay, chúng tôi thả hương hoa xuống Biển Đông trong lòng tự hỏi còn có bao nhiêu người lính nằm lại dưới đáy đại dương sâu lạnh kia? Có bao nhiêu người lính còn nằm lại nơi núi rừng Trường sơn heo hút?...Có lẽ, không có sự hy sinh nào vĩ đại và được nghi nhận như sự hy sinh vì Tổ quốc. Không có giá trị nào cao hơn giá trị của sự cống hiến vì độc lập, chủ quyền của dân tộc, vì từng tấc đất thiêng liêng của cha ông mà người lính đã ngã xuống. Anh có thể nằm lại trong lòng đất, đất ôm anh và sưởi ấm cho anh nơi cõi vĩnh hằng, để anh trở về trong lòng đất mẹ kính yêu. Anh có thể nằm lại nơi sông sâu, biển cả, nhưng sóng biển, mưa nguồn vẫn đưa anh trở về với đất mẹ, nơi đó có nhân dân và Tổ quốc của anh.
Giữa biển cả gầm gào sóng vỗ, một vòng tròn Gạc Ma bất tử nơi ấy cách đây 28 năm Tàu HQ - 604 bị tàu chiến nước ngoài tấn công và bị bắn chìm, 64 sĩ quan chiến sĩ hải quân và công binh đã anh dũng hy sinh, các anh vĩnh viễn nằm lại với biển cả mênh mông, rộng lớn và sâu thẳm. Quên sao được hình ảnh Thiếu úy Trần Văn Phương đã hy sinh khi tay không giữ cờ Tổ quốc: “Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo”! Đúng, máu của các liệt sĩ hy sinh trên quần đảo Trường Sa đã tô thắm cho lá cờ truyền thống của lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng. Giữa bốn bề biển cả mênh mông sự hy sinh của các anh hòa vào làm thành bản anh hùng ca dạt dào tiếng sóng. Và chỉ giữa biển cả mênh mông này, chúng tôi mới thấu hiểu sự hy sinh đó thật lớn lao đến nhường nào! Vì thế “Bảo vệ biển đảo của Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng cao cả, là mệnh lệnh trái tim của người lính” các lực lượng Hải quân nhân dân Việt nam anh hùng đã dũng cảm vượt mọi khó khăn gian khổ, kiên trì, mưu trí, sáng tạo, bản lĩnh, chủ động bình tĩnh xử lý các tình huống trên nguyên tắc chủ quyền biển đảo là giá trị tối cao, sự hy sinh của các anh đã viết tiếp trang sử 4000 năm dựng nước và giữ nước.
Trải nghiệm trong chuyến công tác Trường Sa, chúng tôi mới hiểu rõ rằng, chủ quyền của chúng ta về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hiện hữu không chỉ từ phương diện lịch sử, những văn bia, chứng sử hết sức rõ ràng mà còn là những cột mốc xi măng vững chắc chứa đựng thông điệp đanh thép về chủ quyền hợp pháp, không thể tranh chấp trên Biển Đông, những cột đá chủ quyền với những vĩ độ, kinh độ được thừa nhận dựa theo Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982. Những cột đá chủ quyền nơi đoàn công tác đến thăm vừa mang tính biểu tượng của chủ quyền quốc gia trên đảo song những cột đá chủ quyền ấy còn được đúc bằng máu, mồ hôi, sự hy sinh của người chiến sĩ Hải quân và nhân dân Việt Nam qua nhiều thế hệ. Họ không chỉ tạo dựng cột mốc trên thực địa đứng vững trước bão tố phong ba theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng mà còn là cột mốc sâu thẳm về giá trị trong lòng mỗi chúng ta.
Đồng chí Đại tá Vũ Văn Lâu - Giám đốc Công an tỉnh Gia Lai, thành viên của Đoàn tặng quà cho cán bộ chiến sĩ đảo Sơn Ca
Có đi Trường Sa mới biết nước biển Trường Sa xanh và mặn nhường nào! Giữa những đảo nổi, đảo chìm chỉ có nước biển và nước biển, chỉ có một màu xanh tít tắp, chỉ có gió, bão tố, nắng nóng và mây trời mêng mông vô tận…Đến với Trường Sa chúng tôi chứng kiến màu xanh của thiên nhiên hoa trái, những cây bàng vuông, cây phong ba, những vạt rau xanh, những chậu hoa mười giờ đỏ thắm đang bật dậy với sức sống mãnh liệt giữa sóng cồn bão giật. May mắn được đến với Trường Sa chúng ta sẽ hiểu được sức mạnh của con người trên đảo thật quả cảm và khâm phục. Những cán bộ chiến sĩ, nhân dân trên đảo Trường Sa sống trong bão tố, thiếu thốn trăm bề, vậy mà vẫn có những con người cả đời gắn bó với biển đảo, có những chiến sĩ, những chàng trai mười tám, đôi mươi đã vượt lên sóng cả, bảo tố gian nguy đang ngày đêm chắc tay súng, giữ vững chủ quyền biển trời thiêng liêng của Tổ quốc. Các chiến sĩ Trường Sa vẫn đứng hiên ngang giữa bão tố phong ba để canh giữ từng mỏm đá, từng bãi san hô, giữ cho những ngọn hải đăng luôn sáng để thắp sáng cho chân lý chủ quyền là bất khả xâm phạm. Có đến, có đi Trường Sa chúng ta mới cảm nhận hết cái hay, cái thực của bài hát “Khúc quân ca Trường Sa” của nhạc sỹ Đoàn Bổng “Ngày qua ngày, đêm qua đêm, chúng tôi đứng đây giữ gìn quê hương. Đảo này là của ta, biển này là của ta, Trường Sa. Dù phong ba, dù bão tố, dù gian khổ ta vẫn vượt qua. Chiến sĩ Trường Sa, viết tiếp bài ca, về những tấm gương anh Bộ đội Cụ Hồ, đem chí trai, giữ vững chủ quyền Tổ quốc Việt Nam ta, giữ vững chủ quyền Tổ quốc Việt Nam ta… »
Một năm ở Trường Sa chỉ có vài tháng biển ít bão tố, các đoàn thăm đảo từ đất liền mới có thể thực hiện được hành trình. Những cuộc đi thăm như thế chỉ diễn ra chốc lát, vội vã bởi phải phụ thuộc vào nước biển lúc triều lên và chia tay khi nước triều chưa kịp rút. Những lời ca tiếng hát, những cái bắt tay thật chặt và ấm áp tình quân dân, đôi khi là những giọt nước mắt, những xẻ chia với người lính đảo rắn giỏi, sạm nắng, mạnh mẽ nhưng cũng rất lạc quan yêu đời, đầy đam mê và khát vọng. Chúng tôi đã hát cùng với người lính đảo bằng cả trái tim mình, và chúng tôi muốn gửi gắm đến họ lời nhắn nhủ từ đất liền rằng các anh cứ yên lòng và kiên trung canh giữ biển đảo, hơn 90 triệu trái tim người dân đất Việt luôn hướng về các anh, sẽ không thể có một thế lực nào có thể chia cắt giữa đất liền với biển đảo xa xôi, rằng “Hoàng Sa, Trường Sa trong trái tim Tổ quốc Việt Nam”.
Đoàn cán bộ Học viện CSND thăm hỏi và tặng quà cho các gia đình ở đảo Trường Sa lớn
Đến với Trường Sa, có một điều thật kì diệu, nơi đảo xa là thế, khó khăn là thế, vẫn có tiếng trẻ thơ hò reo nơi sân trường, tiếng giảng bài và học bài của cô và trò hòa cùng tiếng sóng. Ở nơi đó còn có những chùa chiền cổ kính, những nhà sư, những tiếng chuông chùa, bài tụng kinh niệm phật của sư thầy cầu cho quốc thái dân an, chủ quyền biển đảo được giữ vững, sóng yên biển lặng, cầu cho hải lộ bình an…Đến với Trường Sa, đến với những người lính đảo, những người dân, trường học và những cô giáo trẻ trung yêu đời yêu nghề, những ngư dân ngày đêm bám biển, những nhà sư nhất tâm thiền viện vì đẹp đạo tốt đời…một vạt rau xanh, một ngôi đền cổ kính, một mái chùa linh nghiêm…đó chính là hình ảnh của quê hương đất Việt nơi đảo xa. Đó cũng chính là chủ quyền dân tộc đã có từ ngàn xưa mà cha ông ta đã tạo dựng. Có đến với Trường Sa chúng ta mới thấy tình cảm quân dân nơi đây thật ấm áp chân tình, cởi mở, tự nhiên. Hình như giữa biển khơi, con người trở nên thật bé bỏng, mong manh và chỉ còn lại là sự đoàn kết, yêu thương, gần gũi. Trước giông tố biển cả, trước sức uy hiếp của kẻ thù để người lính đảo chắc tay súng, vượt lên muôn ngàn khó khăn gan khổ, hiểm nguy, thiếu thốn để bảo vệ những hòn đảo thân yêu của Tổ quốc, thì hơn 90 triệu người dân phải hướng về biển đảo. Hãy dành cho những người lính đảo sự quan tâm nhiều hơn nữa về vật chất và tinh thần để họ chắc tay súng bảo vệ biển đảo quê hương.
Cán bộ Học viện CSND với các trẻ em trên Đảo Trường Sa
Học viện Cảnh sát nhân dân đã nhiều năm nay luôn có những hoạt động hết sức thiết thực hướng về Hoàng Sa và Trường Sa thân yêu. Năm nay Học viện gồm 15 thành viên trong đó có 13 đồng chí là cán bộ lãnh đạo cấp khoa, phòng, bộ môn và trung tâm cùng 2 đại biểu khách mời danh dự. Hoạt động của Đoàn đã hoàn thành tốt mục tiêu và kế hoạch, để lại nhiều dấu ấn sâu đậm. Đoàn đã giao lưu và tặng 28 thùng quà cho các đơn vị đóng quân trên các đảo; Tặng quà cho 7 hộ dân đang sinh sống trên đảo Trường Sa lớn; Tham gia cuộc thi “Tìm hiểu về Trưởng Sa” đạt được 2 giải thưởng… Một chuyến đi công tác tuy nắng gió, khắc nghiệt nhưng đầy ý nghĩa. Qua chuyến công tác này, chúng tôi trong mỗi bài giảng, trong phạm vi công tác của mình sẽ kể cho sinh viên, cho những ai chưa có cơ hội đến Trường Sa về một Trường Sa hùng vĩ, kiên cường, niềm tin và niềm kiêu hãnh của dân tộc, để cùng lắng đọng trong cảm xúc Trường Sa và thêm yêu hơn đất nước của mình. Chúng tôi sẽ kể cho sinh viên nghe về người lính đảo Trường Sa rắn giỏi, sạm nắng, kiên trung, yêu đời đang ngày đêm thầm lặng giữ gìn biển đảo quê hương, kể về 64 chiến sĩ đã anh dũng hy sinh trước họng súng thô bạo của quân thù hòng dã tâm chiếm đảo, về 7 chiến sĩ đã hy sinh khi cơn bão lớn làm đổ nhà Dàn…Tất cả những anh hùng liệt sĩ ấy, có người chưa một lần được yêu và có người chưa một lần nhìn thấy mặt đứa con đầu lòng, có đồng chí Chính trị viên Nhà giàn DK sau 3 ngày đêm chống chọi với bão biển hung dữ đã nhường phần lương khô nhỏ bé cuối cùng của mình cho đồng đội trẻ tuổi hơn và thả trôi mình vào vòng xoáy hung bạo của biển cả khi trên mình vẫn cuốn lá cờ Tổ quốc, hầu hết thi thể của các anh vẫn nằm dưới đáy đại dương sâu thẳm bao la…Những điều ấy chúng tôi muốn kể cho chính mình và cho những người chưa được đến Trường Sa để “Trường Sa, Hoàng Sa luôn trong trái tim chúng ta!"
Cuộc sống của các chiến sỹ và nhân dân trên các đảo của quần đảo Trường Sa cũng thật gần gũi, thân thương qua từng hình ảnh mà đoàn công tác đã ghi lại. Như ở đất liền, nơi đầu sóng ngọn gió ấy đều có những công trình gợi nhớ tới hình ảnh của làng quê Việt: Đó là những tượng đài uy nghi và những mái chùa cổ kính thâm nghiêm. Nơi ấy, ngày đêm luôn vang vọng tiếng chuông chùa, vang vọng lời nguyện cầu cho hòa bình, cho quốc thái dân an. Đó cũng là nơi đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng tâm linh rất Việt Nam của cán bộ, chiến sĩ, nhân dân sinh sống trên quần đảo và hàng ngàn lượt công dân Việt Nam khi ra thăm huyện đảo Trường Sa, bởi Trường Sa là mảnh đất thiêng liêng và không thể tách rời của Tổ quốc Việt Nam.
Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: “Vì lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, thế nên dù ở bất cứ nơi đâu, nơi biên cương núi cao hay hải đảo xa xôi thì sự nghiệp “trồng người” luôn được các cấp chính quyền chăm lo. Qua lời kể của đồng chí Chính uỷ, tôi được biết ở đảo Trường Sa Lớn có một trường học đặc biệt, bởi trường học chỉ có vài học sinh song lại ở nhiều lớp khác nhau nhưng cùng chung một phòng học và 1 cô giáo dạy tất cả các chương trình học; trong giờ học, tiếng giảng bài và tiếng học bài của cô và trò hòa cùng tiếng sóng biển. Thật là một điều kỳ lạ và cũng vô cùng thân thương bởi ở quần đảo Trường Sa này, để có được lớp học bên bờ sóng, cô giáo trẻ phải chấp nhận hi sinh nhiều lợi ích cá nhân, phải có một tâm thế vững vàng đứng trên bục giảng với tất cả tấm lòng, nhiệt huyết của tuổi trẻ thì mới làm được điều kỳ diệu là đem ánh sáng văn hóa cho trẻ thơ trên đảo.
Ngày qua ngày, lớp học ở đảo Trường Sa vẫn vang lên tiếng ê a đánh vần. Những gương mặt trẻ thơ, hồn nhiên đến lớp trong tình yêu thương của cô giáo trẻ. Từ Trường Sa đầy nắng và gió, từ mảnh đất khô cằn, khắc nghiệt, những đứa trẻ đáng yêu kia sẽ là những mầm xanh tiếp tục đâm chồi, nảy lộc, vươn cao khẳng định sức sống nơi đảo xa…
Được chứng kiến giờ phút chia tay của đoàn công tác với cán bộ, chiến sỹ trên các đảo, những cánh tay giơ lên, những giọt nước mắt lăn dài trên má đã thực sự làm tôi xúc động. Trường Sa xa dần trong sóng nước mênh mông, khuất dần sau những con sóng bạc đầu. Những cây bàng vuông, những cánh hoa san hô, quà tặng của các chiến sỹ và nhân dân trên đảo đã rút ngắn khoảng cách giữa đảo xa với đất liền. Những người ở lại giữ đảo mang trong tim hình ảnh của Tổ quốc, của sự quan tâm sẻ chia của đất liền. Còn người về, trên ngực áp lấp lánh những chiếc Huy hiệu Trường Sa, lòng cảm phục những người đang ngày đêm chắc tay súng nơi đảo xa để giữ bình yên cho đất liền và một tình yêu vô bờ dành cho quần đảo này.
Trường Sa, hai tiếng thiêng liêng và rất đỗi tự hào của bất cứ người dân đất Việt nào khi đặt chân đến đây. Ai đã từng đến Trường Sa dù một lần cũng có thể đong đầy cảm xúc, và những câu chuyện về Trường Sa sẽ mãi mãi là những kỉ niệm đẹp, đáng nhớ. Những câu chuyện, những kỷ niệm sẽ không thể tải hết điều cần nói về Trường Sa, nhưng cũng sẽ rút ngắn khoảng cách giữa đảo xa với đất liền. Mỗi khi nhắc đến quần đảo Trường Sa, mọi người sẽ tự nhủ với chính mình: “Không xa đâu Trường Sa ơi!”, câu hát nằm lòng ít nhất với ai đã từng một lần đặt chân đến Trường Sa. Với tôi, tôi học được ở các chiến sỹ nơi muôn trùng sóng gió, khó khăn, gian khổ lòng yêu đời và tinh thần cống hiến hết mình cho Tổ quốc. Tôi nhận được nhiều giá trị đáng quý trong buổi nói chuyện này từ các chiến sỹ Trường Sa và biết mình cần phải sống và nên sống như thế nào cho ý nghĩa; tôi biết, đây không phải là suy nghĩ của riêng mình.
^^
Học giỏi !
Trận đấu giữa U23 Việt Nam và U23 Qatar vừa rồi thật là một trận đấu rất quyết liệt. Các cầu thủ của chúng ta tuy bị dẫn trước 1-0 nhưng sau đó đã gỡ lại được. Kết thúc hiệp 1 tỉ số là 1-1. Bắt đầu hiệp 2 tầm 19 phút sau, Qatar ghi thêm bàn thắng dẫn trước 2-1. Nhưng sau đó Quang Hải đã tung cú sút vọt thẳng vào khung thành đối phương. Hết 90 phút, tỉ số là 2-2. Sau 2 hiệp phụ thì 2 đội không ghi thêm bàn thắng nào. Trận đấu buộc phải đến penalty. Việt Nam đã thắng và Văn Thanh đã ghi bàn cú sút cuối cùng. Trận đấu thật là sôi động và tràn đầy niềm vui và hi vọng.
“Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
Năm về nuôi cái cùng con,
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng”.
Đọc bài thơ “Cao Bằng” em như được sống lại kỉ niệm tuổi thơ. Em vui thú như được vượt bao đèo cao để tới thăm thú nước non Cao Bằng hùng vĩ:
“Sau khi vượt đèo Gió
Ta lại vượt đèo Giàng
Lại vượt đèo Cao Bắc
Thì ta tới Cao Bằng”
Đặc sản của Cao Bằng là mận ngọt “đón môi ta dịu dàng”. Phải chăng hai chữ “dịu dàng” còn nói lên một nét đẹp của bà con Cao Bằng là rất đôn hậu và hiếu khách.
Các chữ “rất thương”, “rất thảo”; các so sánh “hình như hạt gạo”, “hiền như suối trong”, đã nói lên một cách đậm đà những phẩm chất tốt đẹp của ông bà, của chị, của em, của đồng bào Cao Bằng: hiền lành, phúc hậu, chất phác, trong sáng... Đây là khổ thơ hay nhất trong bài “Cao Bằng”:
“Rồi đến chị rất thương
Rồi đến em rất thảo
Ông lành như hạt gạo
Bà hiền như suối trong”.
Núi non Cao Bằng hùng vĩ “đo làm sao cho hết”. Cũng như tình yêu nước, tình yêu cách mạng của nhân dân Cao Bằng thì vô cùng sâu sắc, mãnh liệt, son sắt thủy chung:
“Lại lặng thầm trong suốt
Như suối khuất rì rào”
Cao Bằng có hang Pác Bó, với núi Các-mác, suối Lê-nin, nơi mà Bác Hồ đã sống và hoạt động cách mạng bí mật những năm 1941-1942; Bác đã sống trong sự đùm bọc, chở che của đồng bào để “nhóm lửa cách mạng”.
Cao Bằng với em và với nhiều người thì “xa xa ấy”. Nhưng Cao Bằng lại rất gần gũi với mỗi chúng ta, với mỗi con người Việt Nam. Vì Cao Bằng là biên cương, là vị trí tiền tiêu của Tổ quốc:
“Bạn ơi có thấy đâu
Cao Bằng xa xa ấy
Vì ta mà giữ lấy
Một dải dài biên cương”.
Đọc bài thơ, em càng thấy yêu cảnh trí núi non và con người Cao Bằng, càng yêu hơn đất nước và con người Việt Nam.
Đặc sản của Cao Bằng là mận ngọt “đón môi ta dịu dàng”. Phải chăng hai chữ “dịu dàng” còn nói lên một nét đẹp của bà con Cao Bằng là rất đôn hậu và hiếu khách.
Các chữ “rất thương”, “rất thảo”; các so sánh “hình như hạt gạo”, “hiền như suối trong”, đã nói lên một cách đậm đà những phẩm chất tốt đẹp của ông bà, của chị, của em, của đồng bào Cao Bằng: hiền lành, phúc hậu, chất phác, trong sáng... Đây là khổ thơ hay nhất trong bài “Cao Bằng”:
“Rồi đến chị rất thương
Rồi đến em rất thảo
Ông lành như hạt gạo
Bà hiền như suối trong”.
Núi non Cao Bằng hùng vĩ “đo làm sao cho hết”. Cũng như tình yêu nước, tình yêu cách mạng của nhân dân Cao Bằng thì vô cùng sâu sắc, mãnh liệt, son sắt thủy chung:
“Lại lặng thầm trong suốt
Như suối khuất rì rào”
Cao Bằng có hang Pác Bó, với núi Các-mác, suối Lê-nin, nơi mà Bác Hồ đã sống và hoạt động cách mạng bí mật những năm 1941-1942; Bác đã sống trong sự đùm bọc, chở che của đồng bào để “nhóm lửa cách mạng”.
Em về nhà và em học bài
Em về nhà rồi nấu cơm ( ko chắc )
a) Đất nước Việt Nam tươi đẹp , con người VN cần cù
VN VN
b) Vì Lan chăm chỉ học tập nên Lan đạt kết quả cao trong học tập
CN VN CN VN
điền thêm một số vào chỗ trống để tạo thành câu ghép
a, em về và
b, em về nhà rồi
Cũng như bao truyền thống khác, tinh thần yêu nước là một nét đặc sắc trong văn hóa lâu đời của nước ta, nó được thể hiện từ xưa đến nay và đi sâu vào từng hành động, ý nghĩ của mỗi con người. Lòng yêu nước là yêu tất cả những gì tốt đẹp, yêu thiên nhiên muôn hình vạn trạng, yêu bầu trời trong xanh, yêu đàn chim bay lượn, yêu cả những dòng sông thân thương hay gần gũi nữa là yêu những chiếc lá mỏng manh. Nói cho cùng thì tinh thần yêu nước nó xuất phát từ ý chí, sự quyết tâm phấn đấu, xây dựng Tổ quốc, tình yêu thương và cả niềm hi vọng. Tinh thần yêu nước bao gồm cả nhiều tình yêu khác: tình yêu gia đình, quê hương, tình yêu con người. Nó được bộc lộ ở mọi lúc mọi nơi, mọi cá nhân, bất cứ nơi nào có người dân Việt Nam sống thì đó sẽ mãi là mầm mống, là chồi non của tinh thần yêu nước Việt Nam. Và đó cũng sẽ không phải là lí tưởng của mình dân tộc Việt Nam mà còn rất nhiều nước khác, lí tưởng ấy luôn đi đầu
k mk nha
Hình ảnh quê hương đất nước in dấu đậm đà trong ca dao, dân ca. Đọc ca dao, dân ca, ta cảm thấy tâm hồn nhân dân ôm trọn bóng hình quê hương đất nước. Mỗi vùng quê có một cách nói riêng, cảm nhận riêng về sự giàu đẹp của nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Đọc những bài ca ấy, chúng ta như vừa được đi tham quan một số danh lam thắng cảnh đặc sắc của đất nước từ Bắc vào Nam.
Với nhân dân ta, quê hương là nơi quê cha đất mẹ, là cái nôi thân thiết, yêu thương. Quê hương là mái nhà, luỹ tre, cái ao tắm mát, là sân đình, cây đa, giếng nước, con đò, là cánh đồng xanh, con cò trắng, cánh diều biếc tuổi thơ. Đất nước với quê hương chỉ là một, là cơ đồ ông cha để lại, là núi sông hùng vĩ thiêng liêng. Quê hương đất nước được nói đến trong ca dao, dân ca đã thể hiện biết bao tình cảm yêu thương, tự hào của nhân dân ta từ bao đời nay.
Đất nước ta nơi nào cũng đẹp. Cảnh trí non sông như gấm như hoa; sản phẩm phong phú, con người cần cù, thông minh sáng tạo đã xây dựng quê hương đất nước ngày thêm giàu đẹp.