Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Uống nước nhớ nguồn :
-Khuyên nhủ chúng ta rằng phải sống sao cho trọn tình, trọn nghĩa, biết nhớ ơn công sinh thành, công dưỡng dục, công dạy dỗ của những người đã giúp đỡ mình từ đó phải biết học tập và làm việc sao cho xứng đáng với đạo lý làm người của dân tộc ta.
Có công mài sắt có ngày nên kim :
-Khuyên nhủ chúng ta rằng chỉ khi có lòng quyết tâm và kiên trì thì bất cứ khó khăn nào ta cũng có thể vượt qua để đạt được thành công như mong muốn.
Có công mài sắt có ngày nên kim: Là lời khuyên nhủ chúng ta phải biết cố gắng, nỗ lực, kiên trì thì sẽ được hưởng thành quả xứng đáng, đạt được ước mơ cũng như mong ước của mình. Muốn đạt được ước mơ thì phải luôn biết nỗ lực không ngừng nghỉ, phải luôn quyết tâm thực hiện tới cùng.
Uống nước nhớ nguồn: Khi hưởng thụ một thành quả nào đó, người ta phải nhớ ơn và đền ơn xứng đáng những người đã đem lại thành quả mà mình đang được hưởng.
Nhóm 1 : Thương người như thể thương thân
- Môi hở răng lạnh
=> Tấm lòng tương thân tương ái
Nhóm 2:- Có công mài sắt có ngày nên kim
- Đổ mồ hôi , sôi nước mắt
=> Nước chảy đá mòn
Nhóm 3 :- Đồng sức đồng lòng
- Kề vai sát cánh
=> Tấm lòng đoàn kết
Nhóm 4 : - Chết vinh còn hơn sống nhục
- Chết đứng còn hơn sống quỳ.
=> Lòng tự trọng
Nhóm 1 : Truyền thống yêu nước,đoàn kết.
- Đồng sức đồng lòng
- Kề vai sát cánh
Nhóm 2 : Truyền thống kiên cường,bất khuất
- Chết vinh còn hơn sống nhục
- Chết đứng còn hơn sống quỳ
Nhóm 3 : Truyền thống lao động,cần cù
- Có công mài sắt có ngày nên kim
Nhóm 4 : Truyền thống nhân ái
- Thương người như thể thương thân
Em tham khảo nhé của chị nhé
a.
Ăn vóc học hay được hiểu là ăn khoẻ, học hành giỏi giang.
Học một biết mười có nghĩa là học chỉ một điều gì đó mà biết suy rộng ra những thứ liên quan với nhau và được xem là thông minh.
b.
-Câu tục ngữ "Ăn vóc học hay"khuyên chúng ta phải ăn uống, chú tâm đến sức khỏe thì mới học tập thật tốt.
-Câu thành ngữ" Học một biết mười "khuyên chúng ta chỉ học một ít những kiến thức cơ bản thôi nhưng phải biết liên kết để làm những bài mở rộng,nâng cao tương tự.
Nhóm 1 , đồng sức đồng lòng , kề vai sát cánh
Nhóm 2 , chết vinh còn hơn sống nhục , chết đứng còn hơn sống quỳ
Nhóm 3 , có công mài sắt có ngày nên kim
Nhóm 4 , thương người như thể thương thân , máu chảy ruột mềm , môi hở răng lạnh , chị gã em nâng
Nhóm 1 : đồng sức đồng lòng; kề vai sát cánh ; chị ngã em nâng ; môi hở răng lạnh ; máu chảy ruột mềm
Nhóm 2 : chết vinh còn hơn sống nhục ; chết đứng còn hơn sống quỳ
Nhóm 3 : có công mài sắt có ngày nên kim
Nhóm 4 : thương người như thể thương thân ;
- Nghì trong câu “Trai mà chi, gái mà chi/ Con nào có nghĩa có nghì là hơn” được bachkhoatrithuc.vn giải thích: “Có con trai hay con gái không quan trọng, miễn là đứa con ấy biết ăn ở có hiếu, có nghĩa với cha mẹ”.
Cũng trong từ điển trực tuyến này, ở mục từ Bộ râu có đoạn: “Đàn ông không râu vô nghì/ Đàn bà không vú lấy gì nuôi con (bất nghì: tức là bất nghĩa, không sống theo đạo lý, lẽ phải)”.
Từ điển tiếng Việt (tra trực tuyến tại informa.uni-leipzig.de) giải thích cụ thể hơn: (1) Nghì: chữ “nghĩa” được đọc chệch ra; (2) Nghì: (danh từ) Tình nghĩa thủy chung: Ăn ở có nhân có nghì; (3) Nghì trời mây: Ơn nghĩa cao cả như trời mây.
Như thế, “nghì” ban đầu là do chữ “nghĩa” đọc chệch ra, về sau thành danh từ có nghĩa là “tình nghĩa thủy chung”. Với trường nghĩa này sẽ dễ dàng hiểu hai câu ca dao đang xét, nhất là câu Con nào có nghĩa có nghì là hơn (nếu nghì = nghĩa thì câu ca trùng lắp ý).
Về chữ “nghì” trong câu ca “Đàn ông không râu bất nghì/ Đàn bà không nhũ lấy gì nuôi con”, có người cho rằng “nghì” có nghĩa là nghị lực, suy diễn từ việc đàn ông ít hoặc không có râu là do thiếu nội tiết tố nam và thiếu nội tiết tố nam nên... không có nghị lực (!).
Cũng nói về đề tài này, tác giả bài “Phiếm luận về râu” đăng trên Khoa học & Đời sống - Sống vui sống khỏe số Xuân Mậu Tý (2008) có đoạn diễn giải như sau:
“Người phương Đông cũng cực kỳ coi trọng bộ râu. Bộ râu đàn ông đối sánh với bộ nhũ của đàn bà: Đàn ông không râu bất nghì/ Đàn bà không vú lấy gì nuôi con.
Nghì là gì? Theo từ điển, nghì tức là nghĩa, tình nghĩa. Bất nghì tức là bất nghĩa, sống bội bạc. Nghì cũng là dũng, là oai phong. Như vậy, không có râu tức là không còn ra cái thể thống đàn ông cả về hình dung lẫn tính cách. Như Mã Giám Sinh “mày râu nhẵn nhụi”khác với Từ Hải “râu hùm hàm én, mày ngài”.
Cùng suy nghĩ cho rằng “nghì” (trong “không râu bất nghì”) là dũng, là oai phong nên có tác giả cho rằng chữ “nghì” này là chữ “nghi” (儀) đọc chệch thành “nghì” cho xuôi “vận” của câu văn vần (thể lục bát). Chữ “nghi” đọc chệch âm là “nghì” này cũng có nhiều nghĩa. Nhưng dựa vào ý câu ca dao trên, thì chữ “nghi” ở đây là danh từ, chỉ dáng vẻ, dung mạo (như: uy nghi là dáng vẻ nghiêm trang oai vệ). Tác giả này kết luận: “Do vậy, nghĩa câu ca dao trên là: (Theo quan niệm người xưa) Người đàn ông không có râu, thì tướng mạo trông không uy nghi. Người đàn bà không có vú thì trông nhan sắc không được đẹp”.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, nếu nghì chính gốc là nghi (dáng vẻ, dung mạo) thì trong câu ca dao trên cứ để nguyên là nghi chứ hà cớ gì phải “đọc chệch” thành nghì, bởi nghi vẫn “xuôi vận của câu văn vần (thể lục bát)”.
Tóm lại, “nghì” trong hai câu ca dao nói trên đều là do chữ “nghĩa” đọc chệch ra, về sau đứng riêng thành một danh từ có nghĩa là “tình nghĩa thủy chung”.
Nói thêm, một số tác giả đã “lạm dụng” từ “nghì” trong một thành ngữ Hán Việt là “bất khả tư nghị”, có nghĩa là không thể nào suy nghĩ bàn luận ra được, vượt ngoài lý luận; câu này dùng để tả cái tuyệt đối, chỉ có ai đạt giác ngộ mới biết. Rất tiếc là đã có không ít người đã đọc nhầm câu triết lý uyên thâm Phật giáo này thành “bất khả tư nghì”.
Nguyễn Thị Thục Quyên
-Trai mà chi, gái mà chi; sinh ra có ngãi có nghì thì hơn:
+ Phản đối quan niệm trọng nam khinh nữ.
+Sinh con trai hay con gái không quan trọng, miễn là con cái hiếu nghĩa với cha mẹ.
Học tốt
- ăn vóc học hay
ăn uống đầy đủ thì người mới được khoẻ mạnh (có sức vóc), học những điều hay thì trí tuệ mới được mở mang, mới hiểu biết nhiều.
- Học một biết mười
là học chỉ 1 điều gì đó mà biết suy rộng ra những thứ liên quan với nhau và được xem là thông minh.
p/s : cop mạng
- Ăn vóc học hay: ăn nhiều, học hành giỏi giang: Khuyên chúng ta phải ăn khỏe, khổ luyện, chịu khó học hành để thành công trong sự nghiệp mai sau.
- Học một biết mười: Học chỉ một thứ mà suy rộng ra những thứ có liên quan với nhau:Khuyên chúng ta, trong học tập, ngoài việc học trên lớp, chúng ta cũng phải tìm hiểu ở nhà, ở trong sách, biết suy luận ra nhiều thứ có liên quan đến bài học đó, để việc học tập được tốt hơn.
Tình huống :
Khi bố mẹ hay cả hai đều trọng nam khinh nữ , không muốn sinh con gái
Chúc học tốt !!!
a: Khuyên ta nên rèn luyện đức tính kiên nhân, không được nản chí ắt sẽ thành công
b: Khích lệ, đọng vên của người xưa cho tất cả chúng ta về những vấn đề trong cuộc sống. Miễn còn có nước là chúng ta phải tát cho bằng hết mới thôi. Hàm ý là dù có chút hy vọng cũng phải cố gắng thực hiện cho tới cùng vì biết đâu bất ngờ…
c: "Chân cứng" là cách nói ẩn dụ, ý muốn nhắn gửi rằng hãy giữ gìn sức khỏe, bền lòng vững chí để quyết tâm đạt được ý nguyện. "Đá mềm" cũng là cách nói ẩn dụ, với ý rằng hãy kiên quyết vượt mọi khó khăn, đạp bằng mọi cản trở, không chịu khuất phục trước bất cứ trở ngại nào để đạt được mục đích đã chọn.
d: Chúng ta hãy cùng tìm hiểu về ý nghĩa của câu thông qua việc phân tích nghĩa đen cũng như nghĩa bóng của câu tục ngữ đó: “Cây ngay”: ý chỉ những con người luôn làm ăn lương thiện, làm việc đúng đắn vì lợi ích chung của xã hội, không dối trá lừa đảo. “Chết đứng”: Trong bất cứ hoàn cảnh nào, nếu ta không làm sai việc gì đó thì ta không phải sợ sệt, lo lắng vì điều gì cả. Ý nghĩa cả câu là: chỉ những người luôn nói đúng sự thật, công bằng, không dối trá, không làm sai điều gì cả vì thế họ không sợ bất cứ thứ gì.