Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
a, Phương thức biểu đạt : tự sự và biểu cảm
b, Biện pháp tu từ : Điệp ngữ ( bn hok chưa z ?>)
giúp bài thơ trở nên sinh động và hay hơn trong mắt ng đọc , ngoài ra còn cho thấy được tình yêu cao cả của ng mẹ
dành cho con thật bao la , rộng lớn và tràn chề cảm xúc
c, viết mk đánh máy lâu lắm !
nên bn tự lm đc ko ??
p/s ..
Bài thơ "Chuyện cổ tích về loài người" được viết theo thể thơ ngũ ngôn (năm chữ). Đoạn thơ nói về cuộc sống trên trái đất khi mới có loài người, và sự thay đổi của trái đất từ khi có loài người ngày một tiến bộ, ngày một văn minh.
Mọi vật sinh ra trên trái đất là vì con người, vì trẻ em: hãy chăm sóc, thương yêu, dạy dỗ trẻ em và dành cho thế giới tuổi thơ mọi điều tốt đẹp nhất.
Qua khổ thơ đầu, ta hình dung cuộc sống trên trái đất khi mới có loài người "chỉ toàn là trẻ con", vạn vật còn phôi thai, còn rất trẻ, sự sống chỉ mới bắt đầu; trái đất còn hoang sơ "trụi trần", chưa có màu xanh, "không dáng cây ngọn cỏ":
" Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con
Trên trái đất trụi trần
Không dáng cây ngọn cỏ".
Qua các khổ thơ tiếp theo, ta thấy từ khi có loài người cuộc sống trên trái đất thay đổi ngày một tiến bộ, ngày một văn minh. Mặt trời chiếu rọi ánh sáng khắp trái đất, đem lại sự sống cho muôn loài.
Loài người ngày một "sinh ra" đông đúc dần lên, trẻ em được nuôi dưỡng, được chăm sóc, được bế bồng trong lời ru và tình thương của người mẹ:
“Cho nên mẹ sinh ra
Để bế bồng chăm sóc”.
Có mẹ và có bố, có gia đình. Trí tuệ, sự hiểu biết của loài người, của thế giới "trẻ em" ngày một phát triển. Nhờ "bố bảo", "bố dạy" mà trẻ em “biết ngoan”, "biết nghĩ". Con người mở rộng tầm hiểu biết, ngày một khám phá mọi sự vật, mọi hiện tượng xung quanh:
“Rộng lắm là mặt bể
Dài là con đường đi
Núi thì xanh và xa
Hình tròn là trái đất”.
Cuộc sống con người ngày một phát triển, ngày một đi lên. Có tiếng nói, rồi có chữ viết, có nền giáo dục. Con người được học hành và cuộc sống con người ngày một văn minh: biết mở trường dạy trẻ em học, biết đào tạo, biết "sinh ra thầy giáo" để dạy dỗ trẻ em.
Lớp, trường, bàn, ghế, cái bảng, cục phấn, chữ viết, ông thầy... là những biểu tượng thể hiện sự thay đổi kì diệu cuộc sống loài người trên trái đất ngày một văn minh. Dưới ánh sáng mặt trời, loài người được sống trong ánh sáng của khoa học, của giáo dục, ánh sáng của văn minh:
"Chữ bắt đầu có trước
Rồi có ghế có bàn
Rồi có lớp có trường
Và sinh ra thầy giáo".
Lòng yêu trẻ của tác giả được thể hiện trong bài thơ "Chuyện cổ tích về loài người" hết sức đằm thắm, nồng hậu. Trẻ em được mẹ sinh ra trong "tình yêu và lời ru", được "bế bồng chăm sóc".
Trẻ em được "bố bảo cho biết ngoan - bố dạy cho biết nghĩ". Trẻ em được đến trường học tập. Tình thương dành cho trẻ em, mọi cái tốt đẹp nhất đều dành cho trẻ em. Qua vần thơ, ta cảm nhận trái tim của Xuân Quỳnh rất nhân hậu:
"Mắt trẻ con sáng lắm
Nhưng chưa thấy gì đâu
Mặt trời mới nhô cao
Cho trẻ con nhìn rõ".
Câu 1 : Bài thơ trên sử dụng phương thức biểu đạt tự sự
Câu 2 : Điệp từ " từ " có tác dụng là nói lên tất cả những gì mà mẹ đã chưng cất thành lời ru, tiếng hát để dành cho người con bé nhỏ
Chúc bn học tốt
Chữ "Từ" trong đoạn thơ được lặp đi lặp lại nhiều lần gọi là điệp ngữ. Điệp ngữ trong đoạn văn trên mang tính chất toàn cầu, tạo nên một vẻ hoàn mỹ trong đoạn văn, làm cho đoạn văn luôn sinh động hơn. Chữ "từ" trong khổ thơ trên nói về nguồn gốc.
Biện pháp điệp cấu trúc "Bao giờ... bao giờ"
- Tác dụng:
+ Tăng sức biểu hình biểu đạt gây ấn tượng với người đọc
+ Gợi lại kí ức tuổi thơ êm đềm bên người mẹ của mình
+ Qua đó ta thấy tình yêu thương và nỗi nhớ dành cho người mẹ của mình
a, Từ ghép: mùa hè, nhà trường,khai trường,học trò, bà ngoại,ngôi trường,cổng trường,cánh cổng,thế giới,con người
b, Từ láy âm: nhẹ nhàng, rạo rực, xao xuyến, nôn nao, hồi hộp, hốt hoảng
Từ láy vần: bâng khuâng,chơi vơi,
Láy toàn bộ: mãi mãi
- Giọng thơ: vừa hồn nhiên, trong veo (như giọng kể của một đứa trẻ) vừa trầm ấm, dịu dàng (như giọng nói của một người mẹ).
- Ngôn ngữ: giản dị, tươi tắn - kết quả sự hoá thân của nhà thơ vào thế giới tâm hồn trẻ (rất thơm, rất trằng, rất đắng; cái (bống, bang, hoa), ...).
- Điệp từ "Từ" kết hợp với hệ thống hình ảnh: cái bống, cái bang; cái hoa rất thơm, cánh cò rất trắng, vị gừng rất đắng, vết lấm chưa khô, đầu nguồn cơn mưa, bãi sông cát vắng => những hình ảnh gần gũi thân thuộc trong thế giới tâm hồn của trẻ; gợi thương, gợi nhớ về những lời ru thủa bé; bâng khuâng mãi giọng ru ngọt ngào của mẹ.