Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
a, Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh:
+ Mở bài : Nêu thời gian, hoàn cảnh của sự việc được kể trong phần thân bài
+ Kết bài : Nêu kết quả của sự việc được kể trong phần thân bài
b, Mở bài
Nêu thời gian và hoàn cảnh của việc giặc Minh xâm lược, gây nhiều tội ác trên đất nước ta, từ đó, Long Quân quyết định cho mượn gươm thần đánh giặc
- Kết bài: Kết thúc chuyện, lý giải tên gọi của Hồ Gươm.
Mở bài chưa giới thiệu rõ câu chuyện sắp xảy ra và kết bài của câu chuyện nêu ý nghĩa và nguyên nhân của diễn biến ở phần thân bài.
Mở bài, kết bài dàn dựng theo tính lịch sử,nêu được nội dung chính- ý nghĩa của văn bản, cũng như là ứng dụng cuộc sống.
MB:Sơn Tinh,Thủy Tinh:nêu tình huống
MB:sự tích hồ gươm:nêu tình huống nhưng dẫn giải dài
KB:Sơn Tinh,Thủy Tinh:nêu sự tiếp diễn
KB:Sự tích Hồ Gươm:nêu sự việc kết thúc
- Hai mở bài đã giới thiệu được câu chuyện sắp xẩy ra:
- Truyện Sơn Tinh, Thuỷ Tinh: Vua Hùng muốn kén chọn cho con một người chồng.
- Truyện Sự tích Hồ Gươm: Đức Long Quân quyết định cho mượn thanh gươm thần.
- Hai kết bài đều đưa ra sự việc kết thúc câu chuyện.
- Truyện Sơn Tinh, Thuỷ Tinh nhằm giải thích về hiện tượng bão lụt theo nhận thức của người Việt cổ: "Từ đó, oán nặng, thù sâu, hằng năm Thuỷ Tinh làm mưa gió, bão lụt dâng nước đánh Sơn Tinh. Nhưng năm nào cũng vậy, Thần Nước đánh mỏi mệt, chán chê vẫn không thắng nổi Thần Núi để cướp Mị Nương, đành rút quân về."
- Truyện Sự tích Hồ Gươm giải thích nguồn gốc của Hồ Gươm - Hoàn Kiếm: "Vua nâng gươm hướng về phía Rùa Vàng. Nhanh như cắt, Rùa há miệng đớp lấy thanh gươm và lặn xuống nước. Gươm và rùa đã chìm đáy nước, người ta vẫn còn thấy vật gì sáng le lói dưới mặt hồ xanh. Từ đó, hồ Tả Vọng bắt đầu mang tên là Hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm
Mình lấy trên mạng, bạn tham khảo nhé:
* Sự tích Hồ Gươm
Đây là một truyền thuyết lịch sử, gắn với cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi, nằm trong chuỗi truyền thuyết về người anh hùng Lê Lợi. Nhưng đây cũng là truyền thuyết địa danh (loại truyền thuyết giải thích nguồn gốc trực tiếp của những tên núi, tên sông, tên hồ… nguồn gốc hình thành những vùng đất…). Vì thế, truyện không chỉ phản ánh, ca ngợi cuộc kháng chiến chính nghĩa, mang tính chất nhân dần do Lê Lợi lãnh đạo đánh đuổi giặc Minh xâm lược mà còn giải thích tên gọi hồ Hoàn Kiếm, đồng thời cũng thể hiện khát vọng, ước mơ về hoà bình của dân tộc ta. Truyện kể gồm hai sự kiện: Long Quân cho Lê Lợi, người đứng đầu cuộc khỏi nghĩa Lam Sơn, mượn gươm thần; Long Quân sai Rùa Vàng lên đòi lại gươm thần và việc ra đời tên gọi hồ Hoàn Kiếm.
Sự kiện Long Quân cho mượn gươm thần đã chắp đôi cánh của trí tưởng tượng đầy thơ và mộng của dân gian cho tác phẩm nhằm thần kì hoá nguyên nhân dẫn đến thắng lợi vĩ đại của cuộc khỏi nghĩa’Lam Sơn. Cách cho mượn gươm của Long Quân cùng hệ thống chi tiết về các bước xuất hiện của gươm thần bao hàm nhiêu ý nghĩa sâu sắc. Lưỡi gươm tìm được từ dưới nước, chuôi gươm tìm thấy từ trên rừng, khi khớp lại thì thành thanh gươm thần hoàn chỉnh dùng đế đánh giặc. Điều đó nói lên một cốt lõi sự thực lịch sử là: khi có giặc ngoại xâm đến, nhân dân ta từ vùng rừng núi đến miền biển khơi đều nhất tề đứng lên đánh giặc, khi các phong trào lẻ tẻ ấy ở nhiều nơi liên kết lại, thống nhất vói nhau thì sẽ tạo thành sức mạnh to lớn để đánh thắng giặc ngoại xâm. Chi tiết này gợi cho chúng ta .nhớ đến bài học về tinh thần đoàn kết mà Long Quân (tức tổ tiên) đã dạy con cháu khi từ biệt về cõi thiêng: “Kẻ miền núi, người miền biển, khi có việc gì thì giúp đỡ lẫn nhau, đừng quên lời hẹn” (Con Rồng cháu Tiên). Lời nói của Lê Thận khi dâng gươm cho Lê Lợi là lời của toàn dân, trên dưới một lòng, khẳng định vai trò lãnh đạo cuộc khỏi nghĩa của Lê Lợi. Câu nói đó cùng vói tên thanh gươm thần “Thuận Thiên” đã nhấn mạnh tính chất chính nghĩa của cuộc khỏi nghĩa Lam Sơn: mục tiêu của cuộc khỏi nghĩa hoàn toàn phù họp với ý Trời, lòng Dân.
Sự kiện Long Quân đòi lại gươm thần trên hồ Tả Vọng, lúc đất nước đã sạch bóng quân thù mang nhiều hàm ý. Đất nước đã sạch bóng quân thù, giờ đây nhân dân ta bắt tay vào giai đoạn lao động, xây dựng cuộc sống hoà bình, phồn vinh. Nghĩa là giai đoạn “dụng võ” đã qua, giờ là lúc bắt đầu giai đoạn “dụng văn” (dùng trí tuệ để xây dựng đất nước). Gươm thần trao lại cho Long Quân giữ. Thanh gươm vẫn còn đó, khi nào đất nước bị ngoại xâm, Long Quân sẽ lại cho con cháu mượn gươm thần. Việc Lê Lợi cho đổi tên hồ từ hồ Tả Vọng thành hồ Hoàn Kiếm bao hàm lòng biết ơn tổ tiên và ý thức đề cao cảnh giác, răn đe những kẻ rắp tâm dọm ngó nước ta. Gươm thần từ Long Quân chuyển đến vị chủ tướng của cuộc khởi nghĩa để cùng ông và nghĩa quân làm nên chiến thắng, rồi gươm thần lại từ Lê Lợi chuyển về cho Long Quân. Vòng khép kín này tạo nên tính nhất quán của câu chuyện, vẻ đẹp hoàn mĩ của cấu tạo tác phẩm và hình ảnh lưỡi gươm thần. Tất cả nhằm thần thánh hoá một trong những chiến công chống ngoại xâm hiển hách của dân tộc, ca ngợi hết lời triều đại nhà Hậu Lê mở đầu bằng Lê Lợi – Lê Thái Tổ. Bên cạnh đó chi tiết trả gươm còn thể hiện khát vọng hoà bình của dân tộc Việt Nam, Khi đã đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi, chiến tranh đã kết thúc thì tạm cất vũ khí đi để xây dựng đất nước thanh bình, vũ khí chỉ sử dụng vào mục đích tự vệ để bảo vệ Tổ quốc. Riêng hình tượng nhân vật Rùa Vàng nhắc ta nhớ tói hình tượng nhân vật Thần Kim Quy trong truyền thuyết về An Dương Vương xây thành cổ Loa và đánh thắng cuộc xâm lăng lần thứ nhất của Triệu Đà nhờ chiếc nồ thần. Sự xuất hiện nhiều lần của Rùa Vàng trong các sự kiện trọng đại của lịch sử được truyền thuyết kể lại nhằm nói lên truyền thống yêu nước của dân’tộc và cũng góp phần tô đẹp thêm cho vẻ đẹp nghệ thuật của thể loại truyền thuyết dân gian.
* Sơn Tinh - Thuỷ Tinh
Thông qua cuộc thi tài – cầu hôn và quyết chiến để tranh giành nàng Mị Nương của thần Sơn Tinh, Thuỷ-Tinh, truyện nhằm giải thích hiện tượng lũ lụt hằng năm ở đồng bằng châu thổ sông Hồng. Được hình thành bằng con đường gia tăng yếu tố lịch sử cho thần thoại (lịch sử hoá thần thoại), cho nên truyền thuyết Son Tinh, Thuỷ Tinh không chỉ dừng lại ở mục đích giải thích các hiện tượng tự nhiên nói chung (nguồn gốc ngọn núi, dòng sông; nguồn gốc nạn lụt hàng năm), cũng không chỉ phản ánh ước mơ chinh phục các hiện tượng tự nhiên ấy, truyện còn hướng đến một mục đích có ý nghĩa phản ánh lịch sử: ca ngợi công cuộc chinh phục thiên nhiên. Cụ thể ở đây là chinh phục nạn lũ lụt hằng năm trên vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng – một phương diện chủ yếu trong công cuộc dựng nước của tổ tiên chúng ta ở vào một thời đại lịch sử huy hoàng – thời đại dựng nước của. các vua Hùng. Cuộc’xung đột được kể trong truyện là cuộc xung đột nói chung và muôn đời giữa nước với núi. Đó là cuộc xung đột giữa thần núi Tản Viên với thần nước sông Đà, cuộc xung đột vừa liên quan đến chuyện hôn nhân của nàng công chúa con vua Hùng thứ mười tám (con số ước lệ), vừa ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của người Việt cổ trên địa bàn Phong Châu nói riêng, nước Văn Lang nói chung.
Các chi tiết nghệ thuật có. giá trị đựợc truyện dùng để xây dựng hình tượng nhân vật chính, đó là những chi tiết về cuộc thi tài và cầu hôn, những chi tiết về cuộc giao tranh cùng chi tiết về cách kết thúc cuộc giao tranh ấy. Những chi tiết này vừa là sản phẩm của trí tưởng tượng mang đậm tính chất thần kì vừa không thoát li thực tế (là thần Núi, Sơn Tinh chỉ có thể điều khiển được đồi núi, cồn bãi; còn Thuỷ Tinh là thần Nước nên chỉ có thể gọi được gió bão, hô được mưa lũ). Hai thần đều tài giỏi ngang nhau nhưng không thể đổi được tài nghệ cho nhau. Những lễ vật mà Hùng Vương thách cưới tất cả đều kì lạ và khó kiếm nhưng đó cũng lại là những thứ hoặc là sản phẩm của nghề trồng lúa nước (com nếp, bánh chưng – vốn là món ăn truyền thống của người Việt ngay từ thời Văn Lang), hoặc là dựa trên cơ sở thành tựu thuần hoá những động vật hoang dã thành vật nuôi trong nhà. Sở dĩ chỉ riêng Sơn Tinh kiếm đủ lễ vật là vì những lễ vật đó đều ở trên cạn. Thế là dân gian đã mượn lời thách cưới của Hùng Vương để bộc lộ tình cảm, sự thiên vị đối với Sơn Tinh. Rõ ràng, ở đây có sự kết họp của trí tưởng tượng kì diệu với hoàn cảnh thực tế. Thần thoại trở thành truyền thuyết gắn bó với cuộc đời là như thế.
Những chi tiết về cuộc giao tranh, đánh ghen của Thuỷ Tinh và cuộc chống trả của Sơn Tinh cũng có tính chất hai mặt như những chi tiết về cuộc thi tài và cầu hôn. Thuỷ Tinh hô mưa, gọi gió thì tạo nên bão dông, lũ lụt “rung chuyển cả đất trời… nước ngập ruộng đồng, nước ngập nhà cửa, thành Phong Châu như nổi lềnh bềnh trên một biển nước”. Nhưng những hình ảnh tưởng tượng dữ dội, kì vĩ ấy vẫn dựa trên những kinh nghiệm, quan sát thực tế về những trận lũ lụt khủng khiếp trên dọc hai bờ sông Hồng, sông Đà trong mùa mưa bão hằng năm. Sơn Tinh dùng phép lạ bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành luỹ đất, ngăn chặn dòng nước lũ. Tài năng đắp đất cao để ngăn nước đó một phần có cơ sở ở quá trình trị thuỷ của tổ tiên người Việt, nhưng một phần (và là phần chủ yếu nằm ở một tác phẩm văn học) bắt nguồn từ ước mơ của nhân dân muốn có sức mạnh phi thường, khả năng to lớn để chiến thắng nạn lụt. Ước mơ ấy, suy cho cùng cũng nảy sinh từ thực tế lao động sản xuất và đấu tranh với thiên nhiên. Những điều này nói lên giá trị phản ánh hiện thực của những chi tiết nghệ thuật tưởng như hoang đường và cũng thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa sáng tác văn học dân gian với đời sống của nhân dân.
Những chi tiết về cách kết thúc cuộc giao tranh là chiến thắng của Sơn Tinh đối vói Thuỷ Tinh – không thể không như vậy vì thực tế là nước lũ dâng cao đến đâu rồi cũng đến lúc phải rút. Nhưng Sơn Tinh đã thắng mà chưa thắng hẳn, Thuỷ Tinh dẫu thua mà chưa chịu thua hẳn, hằng năm vẫn “làm mưa gió, bão lụt, dâng nước đánh Sơn Tinh”. Và rồi lần nào cũng vậy, Thuỷ Tinh “đánh mỏi mệt, chán chê… đành rút quân về”. Tuy nhiên, cách kết thúc ấy còn tổng kết một bài học kinh nghiệm lớn: con người không bao giờ chịu ngồi yên khoanh tay nhìn và đợi chờ bị động trước thiên nhiên; sức người hoàn toàn có thể chiến thắng được thiên tai lũ lụt.
Với cách kết thúc như vậy, truyện còn là lời thế hệ trước nhắn nhủ, gửi gắm cho thế hệ sau nhiệm vụ tiếp tục vươn lên chinh phục tự nhiên, làm chủ đất nước. Công trình thuỷ điện sông Đà với nhà máy thuỷ điện Hoà Bình và sắp tới đây là nhà máy thuỷ điện Tà Bú, Sơn La (cùng các công trình thuỷ điện, đê điều khác), sự nghiệp trồng rừng và giữ gìn, bảo vệ rừng chính là việc làm thực tế của các thế hệ ngày nay để tiếp tục sự nghiệp trị thuỷ, xây dụng đời sống ấm no, phồn vinh của cha ông ta.
con Rồng cháu Tiên: giải thích cội nguồn
Bánh chưng bánh giầy: giải thích truyền thống nấu bánh chưng,bánh giầy vào ngày Tết
Thánh Gióng: Ca ngợi người anh hùng đánh giặc ngoại xâm
Sơn Tinh Thủy Tinh: giải thích hiện tượng lũ lụt hàng năm ở đồng bằng sông Hồng.
Sự tích Hồ Gươm: giải thích tên gọi của địa danh, địa điểm
Em bé thông minh: ca ngọi trí thông minh của nhân dân ta.
a kể lại một đoạn trong truyện
b nhân vật : Sơn Tinh Thủy Tinh
sự việc : Thủy Tinh đến sau không lấy được vợ đến đành rút quân về
c
mở bài : giới thiệu
thân bài : kể diễn biến
kết bài : nêu kết thúc câu chuyện
mik đang hok lớp 6 nên có sai sót gì mong bn thông cảm
a) kể lại 1 đoạn trong truyện Sơn Tinh , Thủy Tinh từ chỗ Thủy Tinh đến sau ko lấy được vợ đến đành rút quân về
B) Nhân vật : Sơn Tinh ,Thủy Tinh , Mị Nương
Sự việc : sư việc 1 : Thủy Tinh đến sau không lấy được Mị Nương nổi giận đem quân đánh Sơn Tinh
sự việc 2: cuộc giao tranh diễn ra giữa 2 thần
sự việc 3 : cuối cùng Thủy Tinh Thua
Sáng hôm sau, khi tia nắng đầu tiên của ngày mới chưa xuất hiện, khi bầu trời còn đang đắm chìm trong màn sương đêm thì Sơn Tinh cùng đoàn tuỳ tùng đã đến rước Mị Nương về núi Tản. Thuỷ Tinh đến sau, không lấy được vợ liền đùng đùng nổi giận, sai đoàn thuỷ quái đánh đuổi Sơn Tinh. Sơn Tinh gọi một đoàn quân hùng dũng gồm hùm beo gấu rắn.., lên đánh lại Thuỷ Tinh. Trời đất tối sầm, những tia sét ngang dọc lượn trên bầu trời như những con rắn khổng lồ đang uốn lượn như muốn xé tan bầu trời. Sơn Tinh cùng quân lính liên tục ném đá vào lũ thuỷ quái. Sau một hồi giao chiến, Thuỷ Tinh bèn dâng nước lên cao, nhấn chìm mọi nhà cửa ruộng đồng cây cối,… chẳng bao lâu, cả thành Phong Châu ngập chìm trong biển nước. Nhân dân cùng muông thú vội chạy lên núi cao trú ẩn. Sơn Tinh hoá phép cho đồi núi luôn cao hơn nước của Thuỷ Tinh. Thuý Tinh dâng nước cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại dâng núi cao bấy nhiêu. Trận chiến diễn ra hết ngày này sang ngày khác. Thuỷ Tinh dần kiệt sức, đành phải rút quân về. Mọi người xuống núi dựng lại nhà cửa, vỡ ruộng khai hoang.
Hok tốt
# MissyGirl #
Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương, người đẹpnhư hoa, tính nết hiền dịu. Vua Hùng muốn kén cho nàng một người chồng xứngđáng. Đến cầu hôn có hai vị thần tài giỏi ngang nhau, đều xứng làm rể Vua Hùng
Một người là Sơn Tinh - chúa vùng non cao. Một người làThuỷ Tinh - chúa vùngnước thẳm. Để lựa chọn được chàng rể xứng đáng, Vua Hùng bèn đặt ra điều kiện:"Ngày mai ai mang lễ vật gồm: Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng,voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi đến trước thi ta sẽ gả con gái cho”. Hôm sau, Sơn Tinh mang lễ vật đến truớc, cưới được Mị Nương.Thuỷ Tinh đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng nồi giận, đem quân đuổi theo đòi cướp Mị Nương. Thần hô mưa gọi gió, dâng nước sông lên cuồn cuộn làm cho thành Phong Châu ngập chìm trong nuớc. Sơn Tinh không hề nao núng. Thần dùng phép bốc từng quả đồi, dời tùng dãy núi, đắp thành dựng luỹ, ngăn chặn dòng lũ. Hai bên đánh nhau kịch liệt. Cuối cùng Thuỷ Tinh đuối sức phải chịu thua. Từ đó, oán nặng thù sâu, hàng năm Thủy Tinh vẫn làm mưa gió, bão lụt,dâng nước đánh Sơn Tinh nhưng năm nào cũng mang thất bại trở về.
---------------CHÚC BẠN HỌC TỐT---------------
____________________________________