(2.0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) nêu cảm nhận của anh/chị về lối sống thanh tao của Nguyễn Trãi trong văn bản sau:
Thuật hứng bài 24
Công danh đã được hợp về nhàn,
Lành dữ âu chi thế ngợi khen.
Ao cạn vớt bèo cấy muống,
Trì thanh1 phát cỏ ương sen.
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,
Thuyền chở yên hà nặng vạy then.
Bui2 có một lòng trung liễn hiếu,
Mài chăng3 khuyết, nhuộm chăng đen.
(Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học Xã hội, 1976, tr. 418-419)
1. Trì thanh: ao trong.
2. Bui: chỉ có.
3. Chăng: nghĩa là chẳng. Câu này rút ý từ câu “Ma nhi bất lận, miết nhi bất truy” (Mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen) trong Luận ngữ, ý nói lòng vững vàng, trong sạch theo bản lĩnh của mình, gắn với đạo trung hiếu.
Chắc chúng ta đã quá quen thuộc với cây bồ đề kì cựu văn học-Nguyễn Trãi. Thơ ông không chỉ lãng mạn mà còn thấm đẫm cái vị tâm. Đó là những dòng tâm trạng, những suy tư và nỗi lòng khó tả thành lời. Là một người sống trong xã hội phong kiến nhưng thơ ông lại chẳng hề cũ kĩ mà cũng rất phá cách. Điều này thể hiện rõ qua bài Chí ngôn 3. Bài thơ là cuộc sống thanh nhàn của ông khi đã cáo quan ở ẩn. Cái nhàn, cái tâm không màng danh lợi được ông khẳng định qua nét phá cách ở thể thơ thất ngôn bát cú quen thuộc với hai câu lục chêm xen giữa bài. Vừa thể hiện tâm nhà, lối sống giản dị hài hòa với thiên nhiên vừa giúp cho thể thơ Đường luật này trở nên Việt hóa. Tuy rằng phá cách nhưng niêm luật đối vẫn rất chỉnh đem lại cho người đọc những vần thơ có vẻ Việt nhưng lại rất Đường. Đôi câu lục này như một bản lề linh hoạt. Câu trên như sự khép lại về lời giới thiệu về cuộc sống thanh nhàn nơi thôn quê. Câu dưới lại là cánh cửa mở ra sự nhàn thân nhàn tâm và cuộc sống ngắm trăng ngâm, ngâm thơ đầy thi vị. Đây quả là một nét độc đáo, một nét riêng của cây bút anh hùng.