Chỉ ra phép tu từ và nêu tác dụng :
Đầu trời ngất đỉnh Hà Giang
Cà Mau đất mũi mỡ màng phù sa
Trường Sơn chí lớn ông cha
Cửu Long lòng mẹ bao la sóng trào.
(Ta đi tới )
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
COn người Việt Nam có những phẩm chất tốt đẹp, tuyệt vời như sự hùng vĩ của sông, núi. Ngoài ra, chúng ta cũng tự hào về quê hường Việt Nam của mình vì có rất nhiều danh lam thắng cảnh đồ sộ, tuyệt vời, hùng vĩ
Trường Sơn: chí lớn ông cha
Cửu Long: lòng mẹ bao la sóng trào
Hai câu thơ này nằm trong tác phẩm Nguyễn Văn Trỗi của nhà thơ Lê Anh Xuân, sáng tác năm 1968 thuộc thể loại trường ca.
Toàn văn bài thơ:
Khi Anh gọi Bác ba lần
Lòng anh như thấy được gần Bác thêm
Anh chưa được tận mắt nhìn
Nhưng hình ảnh Bác trong tim vẫn ngời
“Cháu yêu Bác lắm, Bác ơi!
Những năm kháng chiến từ hồi còn thơ
Trung thu gặp Bác trong mơ
Kính yêu cháu hát: “Bác Hồ Chí Minh”…
Giờ đây trước phút tử hình
Cháu như thấy Bác đang nhìn cháu đây
Bác hôn cháu, Bác cầm tay
Cháu hôn lại Bác sáng nay ba lần”
Muôn năm! Muôn năm! Muôn năm!
Triệu người đáp lại ầm ầm bốn phương
Tiếng hô gặp núi, núi vang
Gặp sông, sông hát, gặp rừng, rừng ca
Bác Hồ khi hiện vào ta
Như tên bật ná, thác sa khỏi ghềnh
Ôi ba tiếng Hồ Chí Minh!
Đã thành vũ khí, đã thành niềm tin
Đã thành lời hứa thiêng liêng
Lửa thiêu chẳng cháy, đá nghiền chẳng tan
Cổ gông cổ vẫn thét vang
Tay còng tay vẫy vẫn ngàn cánh tay
Bác là non nước, trời mây
Việt Nam có Bác mỗi ngày đẹp hơn
Còn cao hơn đỉnh Thái Sơn
Nghìn năm chung đúc tâm hồn ông cha
Điệu lục bát, khúc dân ca
Việt Nam là Bác, Bác là Việt Nam
“Việt Nam muôn năm!”
Việt Nam, Tổ quốc muôn năm
Nơi ta yêu quý muôn vàn của ta
Dù đây trường bắn Chí Hòa
Đất chân ta đứng vẫn là của ta
Sau lưng ta cả quê nhà
Nơi lưng ta tựa ấy là Trường Sơn
Là bờ ruộng, lối cỏ mòn
Đỏ tươi bông gạo, biếc rờn ngàn dâu
Là Thu Bồn mặt nước xao
Dòng sông tuổi nhỏ rì rào hát ca
Là hàng ớt đã ra hoa
Đám dưa trổ nụ, đám cà trổ bông
Là trưa tiếng mẹ ru nồng
Tiếng thoi lách cách bên nong dâu tằm
Là Việt Nam! Là Việt Nam!
Biển Đông một dải xanh lam cõi bờ
Việt Nam đất nhạc, đất thơ
Chân mây điểm trắng cánh cò quê hương
Đầm sen nở trắng, nở hường
Đêm trăng thơm dịu những đường sầu riêng
Việt Nam xứ sở thần tiên
Bốn mùa một sắc trời riêng đất này
Xóm làng, đồng ruộng, rừng cây
Non cao gió dựng, sông đầy nắng chan
Sum sê xoài biếc, cam vàng
Dừa nghiêng cau thẳng hàng hàng nắng soi
Có nơi đâu đẹp tuyệt vời
Như sông, như núi, như người Việt Nam
Đầu trời ngất đỉnh Hà Giang
Cà Mau cuối đất mỡ màng phù sa
Trường Sơn: chí lớn ông cha
Cửu Long: lòng mẹ bao la sóng trào
Mặt trời ánh sáng tự hào
Dáng đi cũng lấp lánh màu tự do
Bốn ngàn năm dựng cơ đồ
Vạn năm từ thuở ấu thơ loài người
Ôi Việt Nam! Việt Nam ơi!
Việt Nam, ta gọi tên Người thiết tha.
--
Phân tích:
Sự vật được so sánh: Trường Sơn; Cửu Long
Sự vật dùng để so sánh: chí lớng ông cha; lòng mẹ bao la
(Lý thuyết: So sánh là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự việc khác có nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt)
- Cấu tạo của phép so sánh ở hai câu thơ trên có điểm đặc biệt là dùng dấu 2 chấm ":" thay cho từ so sánh.
Đáp án:
- Nếu căn cứ theo SGK Ngữ Văn lớp 6 thì phép so sánh trong hai câu thơ trên thuộc loại so sánh ngang bằng.
- Nếu đi sâu vào chi tiết thì phép so sánh trong hai câu thơ trên thuộc loại so sánh cái cụ thể với cái trừu tượng (so sánh chí lớn ông cha và lòng mẹ bao la với cái trừu tượng (không xác định) là Trường Sơn và Cửu Long để nêu bật và ca ngợi).
+ Ví dụ một số câu ca dao so sánh giống như trên:
- Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
- Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
- Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần
- Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Vế A | Phương diện so sánh | Từ so sánh | Vế B |
Bà | từng trải, ngọt ngào | như | quả đã chín rồi |
Trường Sơn Cửu Long | cao rộng lớn, mênh mông | dấu hai chấm dấu hai chấm | chí lớn ông cha lòng mẹ bao la sóng trào |
cây gạo | cao, to, sừng sững | như | một tháp đèn khổng lồ |
trường sơn :chí lớn từ ông cha
cửu long: lòng mẹ bao la sóng trào
Các phép so sánh có điểm đặc biệt sau:
Vắng mặt từ ngữ chỉ phương diện so sánh, từ so sánh.
Từ so sánh và vế so sánh được đảo lên trước vế A.
Biện pháp nghệ thuật so sánh : So sánh Trường Sơn với chí lớn của ông cha ta.
TD: Thể hiện vẻ đẹp ,chí khí lớn lao của dãy Trường Sơn qua vật trừu tường : Chí lớn của ông cha .Đồng thời nó còn thể hiện được chí khí to lớn của cha ông ta qua vật cụ thể : Dãy Trường Sơn.
So sánh dòng sông Cửu Long với lòng mẹ bao la sóng trào.
TD : Thể hiện được sức sống mãnh liệt chảy trong dòng sông Cửu Long đồng thời cũng thể hiện sự vĩ đại , to lớn của lòng mẹ.
1. so sánh
2. bình tĩnh - nóng nảy
3. Đây là chiếc áo lenmaf mẹ mua tặng tớ đấy
4. như
5. Tài hèn đức mọn
6. Đất khách quê người
7. ta
8. Tuy Lan có đủ bộ màu vẽ nhwngbanj sẽ tái hiện bức tranh quê hương tươi đẹp
9. đồng âm
10. như
11. đồng chí, cánh đồng, đồng tiền
12. đường phèn
13. Thiên biến vạn hóa
14. Hk bik
15. Là những từ đồng âm
-Trường Sơn :chí lớn công cha
Biện pháp : Nhân hóa / so sánh . Tác dụng : Thể hiện sức mạnh, vẻ đẹp của Trường Sơn hùng vĩ giống như chí lớn của ông cha
-Cửu Long:lòng mẹ bao la sóng trào
Biện pháp: so sánh, lòng mẹ bao la nhử sông Cửu Long
Rút tỉa từ gợi ý tinh tế của nhà văn Anh Đức, Trường ca Nguyễn Văn Trỗi đã được Lê Anh Xuân chỉnh sửa lại gọn gàng hơn, để hôm nay độc giả vẫn còn nghe vang vọng những lời tha thiết trầm bổng: “Có nơi đâu đẹp tuyệt vời/ Như sông, như núi, như người Việt Nam/ Đầu trời ngất đỉnh Hà Giang/ Cà Mau cuối đất mỡ màng phù sa/ Trường Sơn chí lớn ông cha/ Cửu Long lòng mẹ bao la sóng trào/ Mặt trời ánh sáng tự hào/ Dáng đi cũng lấp lánh màu tự do/ Bốn ngàn năm dựng cơ đồ/ Vạn năm từ thuở ấu thơ loài người/ Ôi Việt Nam! Việt Nam ơi!/ Việt Nam, ta gọi tên Người thiết tha”.
Cảm hứng sử thi trong thơ Lê Anh Xuân, không chỉ lan tỏa trong Trường ca Nguyễn Văn Trỗi, mà thể hiện ngay trong những bài thơ đơn lẻ, như viết về những hàng dừa ở quê hương Bến Tre: “Dừa ơi dừa! Người bao nhiêu tuổi/ Mà lá tươi xanh mãi đến giờ/ Tôi nghe gió ngàn xưa đang gọi/ Xào xạc lá dừa hay tiếng gươm khua/ Ôi có phải nhà thơ Đồ Chiểu/ Từng ngâm thơ dưới rặng dừa này/ Tôi tưởng thấy nghĩa quân đuổi giặc/ Vừa qua đây còn lầy lội đường dây” hoặc viết về trận Ấp Bắc oanh liệt: “Và đâu đây mùi bùn đất Việt Nam/ Tất cả đã trở thành bất tử/ Từng ngọn gió đã thổi vào lịch sử/ Tôi tưởng nơi đây tan nát còn đâu/ Lạ lùng thay lúa vẫn tươi màu/ Lúa trùng điệp vây quanh đồn giặc/ Lúa bất khuất như người bất khuất/ Phù sa đã lấp những hố bom/ Và cả những vết thương của tâm hồn”.
Kết tụ rõ nét cảm hứng sử thi trong thơ Lê Anh Xuân phải nhắc đến bài thơ Dáng đứng Việt Nam. Ban đầu bài thơ được đặt tên là Anh giải phóng quân, lấy nguyên mẫu từ một chiến sĩ tấn công phi trường Tân Sơn Nhất trong đợt 1 chiến dịch Mậu Thân.
Đây là bài thơ cuối cùng Lê Anh Xuân gửi lại cho Ban Văn nghệ Trung ương Cục miền Nam, trước khi tiến vào vùng phụ cận Sài Gòn và hy sinh. Nhà văn Anh Đức đã đổi tên bài thơ thành Dáng đứng Việt Nam và lúc bài thơ được in báo thì Lê Anh Xuân không còn nữa, chỉ còn một huyền thoại cho thế hệ sau nâng niu: “Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ/ Anh chẳng để lại gì cho anh trước lúc lên đường/ Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ/ Anh là chiến sĩ giải phóng quân/ Tên anh đã thành tên đất nước/ Ôi anh giải phóng quân! Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất/ Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.