tại sao đảng và nhà nước ta lại chọn khu di tích k9 là nơi để giữ gìn thi hai bác ?
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Khu di tích Đá Chông nằm trong hệ thống vùng đất đồi gò huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây có tọa độ địa lý 21 độ 8 vĩ độ Bắc và 105 độ 19 kinh độ Đông cách trung tâm Hà Nội khoảng gần 50 km theo đường chim bay; có gianh giới với ba xã Thuần Mỹ, Minh Quang, Ba Trại, phía Tây giáp sông Đà, bên kia sông là xã Đồng Luận, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ.
Có độ cao bình quân so với nước biển là 40 m, cá biệt có nơi cao tới 143,6m (đỉnh U Rồng), địa hình bị chia cắt thành nhiều mảnh nhỏ, cao ở phía Bắc và phía Đông, thấp dần về phía Tây và Tây Nam.
Nhiệt độ bình quân năm là 230C, nóng nhất vào tháng 6 và tháng 7, lạnh nhất vào tháng 12 tới tháng 2 năm sau; có lượng mưa trung bình hàng năm 1682-1798 mm. Mưa tập trung từ tháng 5 tới tháng 10; độ ẩm bình quân là 85%: max 96%, min 66%. Diện tích khoảng 250 ha, hồ ao 17,7 ha.
Là nơi từ năm 1957 Bác Hồ đã lựa chọn để xây dựng khu căn cứ trong kháng chiến chống Mỹ (tài liệu được tỉnh Hà Tây khẳng định).
Khu di tích Đá Chông còn gọi là K84, trước đây gọi là K9. Khi Bác của chúng ta đi vào cõi vĩnh hằng, nơi đầu tiên ướp bảo quản thi hài Bác là Viện quân y 108, cơ sở đó gọi là K75 A. Hội trường Ba Đình nơi tổ chức lễ viếng Bác từ ngày 6 tới 9/9/1969 gọi là K75 B. Tới khi đưa Bác lên yên nghỉ ở Khu di tích Đá Chông thì gọi là K84 (tức là K75 + K9 = K84), đây là địa điểm tốt, lí tưởng có phong cảnh đẹp, giao thông thuận tiện, có sông Đà chảy qua, khí hậu trong lµnh, yên tĩnh, đất đai rộng, là địa điểm kín, nhiều cây che phủ, dân xung quanh thưa thớt (trước đây), có điều kiện giữ gìn bí mật, thuận tiện cho tăng gia sản xuất để nuôi bộ đội.
Cơ sở đề giữ gìn thi hài Bác gồm có:
- Tầng trên: Là khu làm việc liên hoàn, thuận lợi, bảo đảm vệ sinh môi trường. Đã được Bộ Tư lệnh công binh cải tạo có bệ, trong bệ có cáng, trên bệ có lồng kính. Nơi để Bác nghỉ gần giống như quan tài kính ở tại Lăng, thuận tiện cho việc phục vụ khi có các đoàn tới thăm viếng Bác và nghiên cứu để phục vụ viếng ở Lăng sau này.
- Tầng ngầm có kết cấu hầm kiên cố, kiến trúc của hầm có khả năng triệt tiêu và cản các sóng chấn động do áp lực mạnh của vũ khí nổ gây ra, có hệ thống phòng chống chất độc hoá học, chính đó là yếu tố đảm bảo tuyệt đối an toàn thi hài Bác.
Tuy vậy hầm có một số nhược điểm không thuận lợi cho việc giữ gìn thi hài đó là đường xuống hầm dốc, hẹp. Trần nhà làm bằng loại bakelit có màu nâu sẫm nên khi quan sát thi hài bị phản màu, có nhiều tấm ghép nối không phẳng cho nên khó khăn cho công tác vệ sinh vô trùng.
Trong 6 năm chiến tranh chống Mỹ cứu nước, thi hài Bác được giữ gìn bảo quản tại đây ba lần với tổng thời gian là 4 năm 4 tháng 19 ngày. Đó là các thời gian sau:
Đợt 1: Từ ngày 23/12/1969 tới ngày 03/12/1970 vì lúc đó cả nước có chiến tranh, nên lưu giữ Bác ở căn cứ an toàn hơn ở Hà Nội.
Cuối năm 1970 do Mỹ - Ngụy tập kích bằng máy bay trực thăng xuống một vị trí ở gần thị xã Sơn Tây, cho nên thi hài Bác lại được chuyển về Viện quân y 108.
Đợt 2: Từ ngày 19/8/1971 tới ngày 11/7/1972, khi đó ë miền Bắc mưa to liên tiếp 10 ngày, nước sông Hồng dâng cao 12m80, có nguy cơ vỡ đê, nên thi hài Bác lại được đưa trở về bảo quản tại khu căn cứ K84 này.
Trong thời gian này chúng ta giữ gìn thi hài Bác ở hầm dưới tầng ngầm. Riêng việc chuyển thi hài Bác xuống tầng ngầm vào ngày 04/11/1971 kéo dài 5h55 (từ 9 giờ tới 14h55), với sự tham gia của các đồng chí chuyên gia Liên Xô: Zerebxov, Kazelxev, Xômkin, phía Việt Nam có các đồng chí Nguyễn Gia Quyền, Lê Điều, Nguyễn Văn Châu, Nguyễn Trung Hát, Nguyễn Hoài Nam (phiên dịch), cùng với hai lực lượng là Cảnh vệ và Công binh. Tại tầng ngầm này thi hài Bác được giữ gìn tới ngày 11/7/1972 (8 tháng 7 ngày).
Tới gần cuối năm 1972 ta nhận định có nguy cơ Mỹ dùng máy bay B52 ném bom Hà Nội, Hải Phòng mà K84 nằm trên đường bay của địch từ Thái Lan sang, cho nên thi hài Bác lại được chuyển sang bảo quản tại H21.
Đợt 3: từ ngày 08/02/1973 tới ngày 17/7/1975 sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết, thi hài Bác lại được đưa trở lại K84 để bảo quản vì nơi đây có điều kiện kỹ thuật tốt hơn ở H21.
Tại K84 không chỉ là nơi giữ gìn bảo quản thi hài Bác một cách đơn thuần, mà còn diễn ra nhiều sự kiện chuyên môn rất quan trọng như tiến hành chỉnh hình thi hài Bác ba lần do Viện sỹ Lopoukhin và GS Mikhailov chủ trì, đó là các thời điểm:
- Lần 1 : Tháng 4 năm 1970 (do viện sĩ Lopoukhin chủ trì)
- Lần 2: Tháng 9 năm 1970 (do viện sĩ Lopoukhin chủ trì)
- Lần 3: Tháng 4 năm 1975( do GS. Mikhailov chủ trì)
Hội đồng khoa học liên quốc gia Liên Xô- Việt Nam đánh giá trạng thái thi hài Bác, Chủ tịch về phía Liên Xô là Viện sỹ Kraevxki, các uỷ viên gồm có các Viện sỹ Mađrasov, Đêbov, Kuprianov, Lapoukhin; Chủ tịch phía Việt Nam là đồng chí Phùng Thế Tài, các uỷ viên gồm đồng chí Vũ Văn Cẩn- Bộ trưởng Bộ Y tế, Trần Kinh Chi, Nguyễn Gia Quyền và các Bác sỹ khác, lần đầu tiên làm việc tại K84 vào ngày 23/5/1970. Tại đây đã khẳng định sau tám tháng ướp bảo quản thi hài Bác được giữ gìn rất tốt.
Một điều rất thú vị nữa mà ít ai biết đến là điều kiện vô trùng của môi trường giữ gìn thi hài Bác lại tốt hơn ở cơ sở tại Viện quân y 108, nơi mà chúng ta chuẩn bị từ trước rất cẩn thận. Điều đó được khẳng định tại biên bản làm việc ngày 12/3/1971 giữa Ban phụ trách giữ gìn và bảo vệ thi hài Hồ Chủ tịch (chủ trì: đồng chí Phùng Thế Tài) với Đoàn chuyên gia y tế Liên xô và trong buổi gặp mặt của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Song Hào với Đoàn chuyên gia y tế Liên xô cùng ngày 12 tháng 3 năm 1971, đã được GS. TSKH. Đenhixov Nhikonski- Viện phó Viện nghiên cứu khoa học Lăng Lê-nin đã khẳng định.
Cũng tại nơi đây chúng ta không chỉ giữ gìn an toàn thi hài Bác mà còn tổ chức nhiều buổi viếng Bác rất trọng thể cho nhiều đoàn đại biểu khác nhau. Tiêu biểu nhất là đoàn Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương do đồng chí Lê Duẩn- Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng dẫn đầu viếng Bác vào ngày 23/8/1970; Đoàn cán bộ Trung ương Cục Miền Nam do đồng chí Nguyễn Văn Linh dẫn đầu viếng Bác (tháng 2/1974).
Cũng tại nơi đây chúng ta cùng với Bạn đã nghiên cứu một số vấn đề để chuẩn bị cho việc phục vụ lễ viếng thường xuyên sau này ở Lăng Bác tại Quảng trường Ba Đình lịch sử.
Ngoài ra còn nhiều cuộc trao đổi kinh nghiệm giữa các chuyên gia Bạn và cán bộ y tế của ta để học tập kinh nghiệm của Bạn, cũng là nơi để thử thách rèn luyện cả về ý chí lý tưởng cách mạng cho tất cả các lớp cán bộ, cũng là nơi tích luỹ kinh nghiệm thực tiễn trong chuyên môn nghiệp vụ về y tế, kỹ thuật, phương án bảo vệ an ninh trong điều kiện đất nước có chiến tranh.
Với các sự kiện đã diễn ra ở K84 về giữ gìn thi hài Bác thì rõ ràng đây là địa danh có ý nghĩa lịch sử đặc biệt gắn liền với sự nghiệp giữ gìn lâu dài thi hài Bác trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nơi đây đã được chính Bác chọn làm căn cứ để Bác cùng với Bộ Chính trị làm việc, quyết định một số vấn đề về kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng XHCN ở miền Bắc, điều đó càng làm ý nghĩa của công trình tăng lên. Vì thế chúng ta cần phải giữ gìn, phát huy ý nghĩa chính trị của khu di tích này để góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, tự hào dân tộc cho các thế hệ hôm nay và mai sau để chúng ta vững vàng, có niềm tin thực hiện thắng lợi mong muốn của Bác lúc sinh thời là xây dựng nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh.
Muốn giữ và phát huy ý nghĩa chính trị của khu di tích Đá Chông thì phải tôn tạo, sửa chữa, nâng cấp công trình. Tuy vậy tại khu vực này không thể sửa chữa, xây dựng tuỳ tiện được, không thể mượn danh nghĩa tôn tạo mà làm sai lệch kiến trúc nguyên thuỷ của công trình. Vì vậy tôi đề nghị tôn tạo và nâng cấp cần tuân theo các yêu cầu sau:
- Phải giữ được sự nguyên vẹn lịch sử của công trình tại khu vực mà Bác đã ở và khu vực đã sử dụng bảo quản thi hài Bác.
- Tôn tạo lịch sử phải kết hợp với xây dựng nâng cấp các khu phụ cận nhằm mục đích tạo sự hoành tráng của khu di tích, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân tới đây học tập tư tưởng đạo đức của Bác và thưởng ngoạn cảnh đẹp của Khu di tích. Vì vậy cần có kiến trúc hài hoà, khoa học, tránh những công trình phô trương hình thức không phù hợp với tư tưởng của Bác.
- Sự tôn tạo và xây dựng mới phải phù hợp với điều kiện thực tiễn của Khu di tích, xây dựng đơn vị chính quy và đáp ứng nhu cầu văn hoá của nhân dân tới đây tưởng niệm và học tập đạo đức của Bác.
- Ngoài ra còn phải chú ý hiệu quả kinh tế để phục vụ đời sống bộ đội, đây cũng là truyền thống của bộ đội ta và cũng là lời dạy của Bác với quân đội.
Muốn đạt được các yêu cầu trên, chúng ta cần phải kết hợp với các lực lượng. Vấn đề là kết hợp như thế nào, theo tôi có ba loại phối kết hợp như sau:
1. Phối hợp với các cơ quan khoa học chuyên ngành để quy hoạch tổng thể toàn khu vực cũng như thiết kế từng công trình. Những năm qua ta đã phối hợp khá tốt. Các đơn vị điển hình là Viện Lâm nghiệp (của Bộ Lâm nghiệp trước đây) đã có quy hoạch tổng thể khu vực tháng 2 năm 1985; trường Đại học Lâm nghiệp, Nông nghiệp 1; Viện Thiết kế; Trung tâm thiết kế Bộ Quốc phòng....
2. Phối hợp với chính quyền địa phương, các đơn vị đóng quân trong khu vực và động viên nhân dân địa phương chủ động tham gia bảo vệ khu di tích: cụ thể là Huyện uỷ, UBND, MTTQ và các lực lượng vũ trang của huyện Ba Vì, Đảng uỷ và chính quyền tại các xã Thuần Mỹ, Minh Quang, Ba Trại.
3. Phối hợp với các cơ quan Trung ương, chính quyền của các địa phương tổ chức cho nhân dân tới đây tham quan, tưởng niệm và học tập đạo đức của Bác, không ngừng bổ sung các cây xanh không chỉ để làm đẹp khu vực mà quan trọng hơn là để các địa phương có điều kiện được tôn vinh. Nguồn gốc của các cây xanh có thể là:
- Các cây xanh do các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước trồng: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng v.v....
- Các cây xanh do lãnh đạo của các tỉnh, các đơn vị quân đội trồng: như Bộ Tư lệnh Hải quân đưa cây bàng vuông từ đảo Trường Sa về, tỉnh Quảng Bình đưa cây trầm hương, Học viện Quốc phòng đưa cây cơ nia từ Tây Nguyên ra, Trung ương Đoàn tặng hàng trăm cây ăn quả (xoài, khế, ngân hạnh) trồng quanh hồ khu B.
Với trách nhiệm cao của cán bộ chiến sỹ của BTL bảo vệ Lăng Bác mà trực tiếp là Đoàn 285, với tình cảm sâu nặng của nhân dân cả nước, với tiềm năng to lớn của các nhà khoa học thuộc nhiều ngành khác nhau, tôi tin tưởng nhất định chúng ta giữ được và phát huy ý nghĩa chính trị của Khu di tích Đá Chông.
Những từ ngữ in đậm trong các đoạn trích sau đây có nghĩa là gì? Tại sao người viết lại dùng cách diễn đạt đó?
+ "đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê- nin và các vị cách mạng đàn anh khác", " đi", "chẳng còn" : đều mang ý nghĩa chỉ cái chết, mất.
+ Người viết, người nói muốn giảm nhẹ mức độ đau thương, nặng nề, ghê sợ của cái chết, sự mất mát.
Tham khảo:
Câu 1:
-Để khuyến khích học tập và tuyển chọn nhân tài, nhà Lê có biện pháp:
+Dựng lại Quốc Tử Giám
+mở Trường học
+mở khoa thi
+Tất cả người dân có học đều được đi thi
+nội dung học tập, thi cử là các sách của đạo nho
+đã đặt ra lễ xướng danh(lễ đọc tên người đỗ), lễ vinh quy (lễ đón rước người đỗ cao về làng) và khắc tên tuổi những người đỗ cao (tiến sĩ) vào bia đá dựng ở Văn Miếu để tôn vinh.
Câu 2:
Giáo dục thi cử dưới thời Lê Sơ:
- Dưới thời Lê sơ nền giáo dục của Đại Việt rất phát triển. Trong vòng một thế kỉ, nhà Lê sơ đã tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ, lấy đỗ 989 tiến sĩ, 20 trạng nguyên.
- Cho dựng lại Quốc tử giám ở Thăng Long, mở trường học ở các lộ. Ở các đạo, phủ đều có trường công.
- Nội dung thi cử là các sách của đạo Nho.
Giáo dục và thi cử phát triển là cơ sở đào tạo nhân tài cho đất nước. Qua đó, trình độ dân trí được nâng cao. Số trường học ngày càng tăng lên. Giáo dục mở rộng cho nhiều đối tượng.
Câu 3:
*Giáo dục khoa cử thời Lê đã để lại cho dân tộc ta truyền thống tốt đẹp là:
-Thông qua việc dạy con người học trong sách vở, học qua sự trao truyền giữa các thế hệ, học ở đời kết hợp với việc học qua thầy, qua bạn mà nền giáo dục khoa cử thời Lê sơ đã hướng con người đến chữ nhân, đưa con người về chữ hiếu, dẫn con người đến chữ trung, khuyên con người về chữ nghĩa, đó là những giá trị hằng xuyên và bất biến của bất kỳ xã hội nào.
-Chẳng những thế, nền giáo dục đó đã dạy và rèn luyện con người sống một cách hướng thiện, chính trực, thẳng thắn, công minh, thanh cao, trong sạch dù ở bất cứ hoàn cảnh nào. Vượt qua chiều rộng của không gian, chiều sâu của thời gian, tinh thần nhân văn và nhân đạo trong nền giáo dục đã trở thành sức mạnh vô song để củng cố lòng tin, điều chỉnh hành vi của con người, cung cấp cho họ những chuẩn mực để rèn luyện ý chí, nghị lực hình thành thái độ trước cuộc đời, thể hiện sự yêu - ghét và khí phách, cốt cách của những con người có tri thức, có khả năng nhận thức được chân lý.
*Em phải :
-Để phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc ta, những học sinh như em - những người còn ngồi trên ghế nhà trường, ngày càng phấn đấu hơn nữa học tập, đạt kết quả cao,không phụ lòng mong mỏi của thầy cô giáo, bố mẹ. Hơn nữa, còn phải phát triển toàn diện, tham gia các hoạt động tập thể tích cực, nâng cao kỹ năng mềm, hoàn thiện bản thân.
Câu 4:
- Nguyên nhân thắng lợi:
+ Nhờ ý chí đấu tranh chống áp bức bóc lột, tinh thần yêu nước, đoàn kết và hi sinh cao cả của nhân dân ta.
+ Sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của vua Quang Trung và bộ chỉ huy nghĩa quân.
- Ý nghĩa lịch sử:
+ Đã lật đổ thành công chính quyền phong kiến thối nát Nguyễn - Trịnh - Lê
+ Đã xoá bỏ ranh giới chia cắt đất nước, đặt nền tảng cho việc thống nhất quốc gia.
+ Giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, đập tan tham vọng xâm lược nước ta của nhà Thanh và quân Xiêm.
Câu 5
Phong trào Tây Sơn có cống hiến to lớn đối với lịch sử dân tộc
- Lật đổ chính quyền Nguyễn, Trịnh, Lê, xóa bỏ ranh giới chia cắt đất nước, đặt nền tảng thống nhất quốc gia.
- Đánh tan quân xâm lược Xiêm, Thanh, bảo vệ nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
-Mở ra thời kì vàng son trong lịch sử nước ta, cuộc sống của người dân ấm no sung sướng, có nhiều quyền lợi và đất
Theo mình đóng góp nào cũng quan trọng bởi sau tất cả những khốn khổ mà nhân dân phải chịu thì việc lật đổ chính quyền trong nước, bảo vệ đất nước trước kẻ thù xâm lăng mở ra thời kì tươi sáng mới cho dân tộc chính là mục đích mà phong trào Tây Sơn nói đến, là đóng góp quan trọng có ý nghĩa trọng đại đối với vận mệnh cả một dân tộc
Câu 5:
* Chính trị nước ta dưới thời Nguyễn là :
- Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, lập ra triều Nguyễn.
- Năm 1815, ban hành bộ luật Hoàng triều luật lệ (luật Gia Long).
- Chia cả nước làm 30 tỉnh và 1 phủ trực thuộc (Thừa Thiên).
- Xây dựng quân đội gồm nhiều binh chủng, ở kinh đô và các trấn, tỉnh đều xây dựng thành trì vững chắc.
* Kinh tế nước ta dưới thời Nguyễn là:
a) Nông nghiệp:
- Công cuộc khai hoang: Được đẩy mạnh nhưng ruộng đất hoang hóa vẫn còn nhiều.
- Chính sách quân điền: Được đặt lại nhưng tổng diện tích ruộng đất công còn quá ít. Nông dân vẫn không có (hoặc thiếu) ruộng đất để cày cấy.
- Đê điều: Tuy được sửa đắp nhưng vỡ đê, lụt lội vẫn thường xuyên xảy ra khiến làng xóm tiêu điều, mùa màng bị tàn phá.
b) Thủ công nghiệp: phát triển.
+ Nhà Nguyễn lập nhiều xưởng đúc tiền, đúc súng, đóng tàu, khai mỏ...
+ Thủ công nghiệp nhà nước phát triến mạnh và có nhiều thành tựu lớn.
Đặc biệt là việc đóng thành công chiếc tàu thủy chạy bằng máy bơm nước theo kiểu phương Tây.
+ Thủ công nghiệp nhân dân tiếp tục phát triến nhưng bị đánh thuế nặng.
c) Thương nghiệp:
+ Đất nước thống nhất thuận lợi cho việc trao đổi buôn bán. Các đô thị, thị tứ phồn thịnh.
+ Thuyền buôn nước ngoài thường xuyên đến buôn bán và nhà nước cũng trao đổi hàng hóa với họ như là Xiêm, Mã Lai, Trung Quốc,...
+ Đặc biệt là có cả các thuyền buôn phương Tây được đến buôn bán ở một số hải cảng nhất định theo quy định của triều Nguyễn.
Xã hội ngày càng văn minh, càng phát triển thì người ta càng có xu hướng quan tâm đến di sản văn hoá đến di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh. Đó là một nhu cầu của cuộc sống. Thế hệ mai sau có quyền biết được những giá trị văn hoá nói chung và di sản văn hoá vật thể nói riêng. Với trách nhiệm là một công dân tương lai, chúng ta phải biết bảo vệ, giữ gìn, và phát huy những giá trị văn hoá đó. để làm giàu đất nước để góp phần cho văn hoá nhân loại ngày càng phong phú hơn.
Một điều đáng mừng là trong những năm gần đây, cùng với sự chuyển mình mạnh mẽ về kinh tế, đã diễn ra sự "phục hưng" trong lĩnh vực văn hoá. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống như quan hệ trong gia đình, làng xóm, lễ hội, phong tục tập quán có lúc bị xem thường đang dần dần được khôi phục. Mặc dù vậy, kinh tế thị trường với khuynh hướng "thương mại hoá", với sự xáo trộn hơn về bậc thang giá trị, sự phục hồi những hủ tục ... cũng đang tác động ráo riết. Hơn lúc nào hết, việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống đang trở nên ngày càng bức thiết và đây không phải là trách nhiệm của riêng ai mà là trách nhiệm của toàn xã hội. Nói như tác giả Trần Ngọc Thêm, "một môn học về văn hoá dân tộc với mấy chục tiết trong nhà trường chỉ là những hạt mưa, trong khi thông tin ngoài xã hội hàng ngày là những cơn lũ: thử điểm xem trên các phương tiện thông tin đại chứng hàng ngày có bao nhiêu fim, bài có nội dung giáo dục về văn hoá dân tộc và có bao nhiêu vụ án đầy tình tiết giật gân và bạo lực ?"
Việc giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống phải dựa trên nguyên tắc lựa chọn và duy trì nguyên vẹn những cái gì? Cái gì cần dẹp bỏ? Cái gì cần bổ sung, làm mới?
Về thể chế
Thứ nhất: Xây dựng và vận dụng bảng giá trị văn hoá:
Chúng ta biết rằng, không có một nền văn hoá nào lại không có những giá trị chuẩn của xã hội đó. Nói cách khác, chuẩn giá trị xã hội là cái không thể thiếu. Vấn đề là ở chỗ, chuẩn giá trị đó phải như thế nào? Lấy cái gi làm cơ sở, làm nền tảng ?
Theo kinh nghiệm của các nước Đông Nam Á thì phải diễn đạt những chuẩn mực này một cách ngắn gọn mà dễ hiểu, phải vừa chặt chẽ lại vừa sinh động để cho mọi tầng lớp trong xã hội đều có thể thấm nhuần, có thể thực hiện được. Bên cạnh đó, về mặt nội dung, chuẩn giá trị xã hội phải làm thế nào để vừa thể hiện được sự kết hợp hài hoà giữa các giá trị truyền thống và các giá trị tiên tiến mà trong đó các giá trị truyền thống luôn luôn làm nền tảng, làm cơ sở cho các giá trị mới.
Ví dụ, nếu như trước đây, tinh thần yêu nước truyền thống lấy độc lập dân tộc làm mục tiêu cao nhất với phương châm "tất cả cho tiền tuyến" thì ngày nay, yêu nước phải là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc là nấc thang để tiến tới mục tiêu cao hơn là mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Để bảo vệ nền độc lập dân tộc, chúng ta cần đẩy mạnh phát triển kinh tế, củng cố tiềm lực quốc phòng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Có xây dựng được một nền kinh tế vững mạnh mới tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật ngang tầm với trình độ văn minh thế giới. Trong xây dựng kinh tế, yêu nước chính là cố gắng phấn đấu học tập, tu dưỡng, rèn luyện, lao động để làm ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội. Mỗi cá nhân dù ở cương vị nào, cũng phải hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Lợi ích không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm biết hưởng các quyền lợi nhưng phải cố gắng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Yêu nước trong bối cảnh hiện nay phải gắn liền với độc lập, tự chủ về kinh tế, tạo ra cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả; mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả sẽ tạo điều kiện cần thiết để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, tránh được sự lệ thuộc vào đối tác trong quá trình hội nhập. Yêu nước ngày nay phải kết hợp chặt chẽ với việc chống tham nhũng, bởi vì nó chính là kẻ thù vô cùng nguy hiểm.
Như vậy, yêu nước ngày nay là đem hết tinh thần và nghị lực, sức mạnh và tài năng của từng người, từng tập thể và cả cộng đồng dân tộc để bảo vệ độc lập dân tộc, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển đất nước; vươn lên mạnh mẽ trong sản xuất, kinh doanh theo phương châm "ích nước lợi nhà"; tăng cường đoàn kết dân tộc cùng nhau xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, văn minh.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, phải chăng một bảng giá trị sẽ gồm những giá trị xã hội sau để có thể đáp ứng được những yêu cầu trên:
Một là: Độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội
Hai là: Tự lập, tự cường, lập thân, lập nghiệp
Ba là: Hoà đồng dân tộc, khoan dung văn hoá
Bốn là: Nếp sống văn minh, môi trường trong sạch
Năm là: Cần cù, năng động, sáng tạo trong lao động
Sáu là: Suốt đời học tập, thích ứng với cái mới
Bảy là: Giữ gìn gia đình, Bảo vệ Tổ quốc
Đây chính là sự bổ sung, làm mới những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Bất cứ một bảng giá trị văn hoá nào cũng phải được sự đồng tình, ủng hộ và sự thực hiện của nhân dân.
Thứ hai: Xây dựng các khuôn mẫu ứng xử và thể chế xã hội - văn hoá mới.
Từ những chuẩn giá trị vừa nêu trong bảng giá trị trên cần phải được cụ thể hoá thành những nội dung phù hợp cho từng lớp đối tượng như học sinh, thanh niên, công nhân, nông dân, trí thức, cán bộ, doanh nhân, v..v... để xây dựng các tập thể văn hoá cho từng đơn vị (từng cộng đồng) văn hoá. Với các làng, xã thì nên đưa nó vào trong nội dung của hương ước mới.
Bên cạnh đó, phải xây dựng quy chế văn hoá nơi cộng đồng, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của từng địa phương. Dần dần, các chuẩn giá trị đó sẽ tạo thành các khuôn mẫu ứng xử và thói quen trong cuộc sống. Khi đã trở thành khuôn mẫu ứng xử và thể chế xã hội - văn hoá thì nó sẽ có thể hình thành và định vị khung của lối sống đạo đức của từng người, từng gia đình, nhà trường, doanh nghiệp, công sở ... đồng thời nó sẽ góp phần duy trì sự ổn định của các chuẩn mực của lối sống đạo đức đó trong điều kiện xã hội đầy sự biến động.
Thứ ba: Chủ động phòng chống lối sống thực dụng, sự băng hoại đạo đức, sự đảo lộn các bậc thang giá trị xã hội và sự phá hoại phong tục tập quán truyền thống và cách mạng.
Song song với giải pháp xây dựng là các giải pháp về phòng chống văn hoá độc hại, các tệ nạn xã hội, sự phá hoại truyền thống dân tọc. Trong cơ chế thị trường thì đây là một việc làm rất khó, khó ở chỗ là khó tách bạch giữa cái tiêu cực và tích cực. Do vậy, cần nhìn nhận thấy những hạn chế trong nhận thức, luật pháp, chính sách và biện pháp hành chính để có những biện pháp thích hợp phòng chống lại những tiêu cực nảy sinh trong xã hội.
Cách chống tham nhũng của người Trung Quốc chỉ xoay quanh có tám chữ: không thể, không dám, không muốn, không cần, nghĩa là:
Không thể: Làm thế nào để thể chế, cơ chế - chính sách phải không tạo điều kiện cho nạn tham nhũng xuất hiện.
Không dám: Pháp luật phải thật nghiêm khắc cho những người vi phạm phải thân bại danh liệt để kẻ khác phải thấy sợ và không dám vi phạm.
Không muốn: Phải giáo dục về vấn đề này để giúp họ có một lập trường tốt, không vì ham muốn đồng tiền mà bị sa sút nhân cách.
Không cần: Nhà nước phải tạo điều kiện về vật chất cho cán bộ để họ có đủ điều kiện sống mà không cần tham nhũng...
Có lẽ, chúng ta nên tham khảo quan điểm đó, coi nó như một giải pháp trong việc chống tham nhũng nói riêng, mở rộng trong việc chống những thói hư, tật xấu và tiêu cực trong xã hội nói chung.
Để đạt được những yêu cầu "xây" và "chống" cần phải kiện toàn Ban chỉ đạo nếp sống văn minh từ Trung ương đến cơ sở, xây dựng hội đồng giám định và định hướng việc chấn hưng phong tục tập quán cổ truyền trong việc xây dựng nền văn hoá mới.
Thành lập uỷ ban chuyên trách chống những hiện tượng tiêu cực trong văn hoá đồi truỵ, lai căng, hủ tục ...bằng các hình thức thanh tra văn hoá. Uỷ ban đó phải có sự phối hợp và tham gia của ngành văn hoá, công an và các tổ chức đoàn thể khác.
Về xã hội
Thứ nhất: Xây dựng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, gia đình văn hoá, làng văn hoá. Chúng ta đều biết, gia đình là nơi duy trì nòi giống và giáo dưỡng tình cảm của con người. Đặc biệt, gia đình là nơi duy trì gia phong cũng như nuôi dưỡng các giá trị văn hoá truyền thống khác của dân tộc.Vì vậy, việc xây dựng gia đình văn hoá là hết sức cần thiết. Nội dung của các tiêu chí xây dựng các gia đình văn hoá phải phản ánh đạo lý dân tộc. Ngoài việc dựa trên cơ sở tiêu chí mà Nghị quyết TW5 đưa ra thì cần cụ thể bằng những điểm sau:
- Gia đình hoà thuận, trên kính dưới nhường, giữ gìn gia phong, quan hệ tốt với xóm giềng, phát huy truyền thống "lá lành đùm lá rách"; "tối lửa tắt đèn có nhau".
- Nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là phổ cập giáo dục (THCS)
- Đảm bảo môi trường vệ sinh sạch sẽ; nhà cửa, nước sạch, nhà tắm, nhà vệ sinh.
- Ổn định và phát triển kinh tế gia đình bằng những việc làm lương thiện, khôi phục những ngành nghề truyền thống.
- Thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình (mỗi gia đình chỉ có 1 đến 2 con), tạo điều kiện cho các thành viên lao động, học tập rèn luyện tốt, chống lại những thói hư tật xấu, hủ tục, ...
- Chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như quy ước của làng, địa phương...
Bên cạnh việc xây dựng gia đình văn hoá, cần xây dựng phong trào làng văn hoá để giáo dục, bồi dưỡng tính cộng đồng, tính tích cực chính trị - xã hội, tinh thần văn hoá và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, chủ nghĩa cá nhân có đất để phát triển. Vì vậy, việc xây dựng các phong trào văn hoá quần chúng, bảo tồn các di tích lịch sử văn hoá, xây dựng hương ước và làng văn hoá mới và các phong trào xã hội, đền ơn đáp nghĩa, từ thiện, xoá đói giảm nghèo,vv... có tác dụng bồi dưỡng tính cộng đồng cho con người và phát huy truyền thống đoàn kết cũng như tính nhân văn, lòng khoan dung cho họ, hướng họ đến với cái Thiện, cái Mỹ.
Cần nhân rộng kiểu thiết chế văn hoá có hiệu quả do phát huy được sức mạnh tổng hợp từ cơ sở như các hình thức câu lạc bộ "cụm văn hoá - thể thao" theo cụm dân cư. Nó sẽ là điều kiện thuận lợi cho sự chuyển biến mạnh mẽ trong lối sống cộng đồng ở một số đông các khu dân cư, cán bộ , công nhân...
Còn ở nông thôn, việc xây dựng hương ước cũng có ý nghĩa tương tự, song phải thực sự đề cao, chú trọng các phong tục tập quán địa phương để xây dựng đạo đức và lối sống mới; Cần tổ chức tốt các lễ hội mang tính truyền thống của từng địa phương
Thứ hai: Giữ gìn thuần phong mỹ tục và xây dựng nền phong hoá mới.
Thuần phong mỹ tục một khi được xây dựng tốt sẽ nuôi dưỡng tính thiện với tính chất là cái gốc của con người trong thời kinh tế thị trường và đồng thời nuôi dưỡng bản sắc văn hoá dân tộc với tính chất là cái gốc của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh nghiệm của Hàn Quốc và Nhật Bản là những nuớc có nhiều nét tương đồng với văn hoá nước ta có thể giúp giữ gìn được gia phong và những nét đẹp của văn hoá truyền thống như cách cư xử, xưng hô của các thành viên trong gia đình hoặc với người trên, người cao tuổi.
Cũng cần phải nghiên cứu, phân tích so sánh những phong tục cổ truyền trong giao tiếp xã hội, trong hội hè, trong kiến trúc với quan điểm thẩm mỹ hiện nay để kế thừa và phát huy nhằm duy trì và phát huy những gì là tốt đẹp.
Đồng thời, cần thẩm định lại những nét văn hoá từ bên ngoài thâm nhập nhằm tiếp thu những gì phù hợp với văn hoá, với quan điểm thẩm mỹ của người Việt nam. Ví dụ, hiện nay trong lễ phục của người Việt Nam chỉ phổ biến áo dài đối với nữ còn đối với nam thì hầu như chưa có. Có lẽ đây cũng là một điểm mà các nhà văn hoá cần nghiên cứu để thay đổi.
Bên cạnh, việc giữ gìn thuần phong mỹ tục cũng cần phải đánh giá đúng những nét mới phát sinh trong các tập tục để khẳng định cái đẹp chân chính, phù hợp và loại trừ những gì không phù hợp với văn hoá truyền thống, qua đó bổ sung thêm những giá trị mới cho văn hoá truyền thống.
Cần phải đưa ra những giải pháp cụ thể có tính chất khả thi như hình thành các văn bản quy ước có tính pháp lý về từng mặt, từng lĩnh vực của sinh hoạt văn hoá (hôn, tang, tế, hội). Có thể bằng biện pháp hành chính, pháp luật khắc phục, loại bỏ những yếu tố tiêu cực; điều chỉnh, sửa chữa những bất cập; khuyến khích phát huy những cái tốt, cái tích cực mới mẻ có tính sáng tạo.
Về giáo dục
- Giáo dục lẽ sống và lối sống: Đặt trọng tâm vào việc phát huy tinh thần yêu nước, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, hoài bão lập thân, lập nghiệp nhằm đưa đất nước sớm tình trạng kém phát triển như Đại hội X của Đảng yêu cầu. Cụ thể, nên thành lập các câu lạc bộ theo địa phương, theo đoàn thể quần chúng, theo địa vị nghiệp vụ, vv...
Tổ chức các buổi thảo luận, học tập gương điển hình về lẽ sống tiến bộ, nhất là của các anh hùng liệt sĩ, của những nhân vật tiêu biểu. Tổ chức thành lập thư viện, tủ sách, hoạt động báo chí, biểu diễn để giáo dục lẽ sống và lối sống.
Cải tiến nội dung và lề lối sinh hoạt các đoàn thể các tổ chức trong khối mặt trận Tổ quốc nhằm dùng nhân tố tiến bộ tích cực chế ngự nhân tố lạc hậu, tiêu cực.Điều đặc biệt quan trọng là các cá nhân là cán bộ các cấp, các đảng viên, các nhân sĩ phải tự giác thực hành biểu hiện lẽ sống theo tiêu chí, tiêu chuẩn cán bộ, đảng viên. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm khắc với tất cả các đối tượng (bất kể cấp nào, chức nào) làm trái với lẽ sống tiến bộ, chà đạp lên đạo đức truyền thống.
Tất cả đều phải quán triệt 3 khâu: Tư tưởng, tổ chức và hành động trong mọi mặt của các tổ chức, các ngành nghề, đoàn thể...
- Giáo dục lòng nhân ái, tính cộng đồng:
Việc giáo dục lòng nhân ái, tính cộng đồng sẽ thu được kết quả tốt nếu như tiến hành những biện pháp như:
Khẳng định, nêu cao gương tốt về lòng nhân ái, tính cộng đồng qua các hình thức sinh hoạt câu lạc bộ, phương tiện truyền thông đại chúng, qua họ tộc…Có hình thức động viên, khen thưởng kịp thời những người vật, những hành động tiêu biểu một cách thoả đáng. Hành pháp thật nghiêm minh và phải cương quyết không khoan nhượng, không hữu khuynh, mù quáng đối với những ai xúc phạm đến quyền của công dân, của cộng đồng; Lồng ghép nội dung này vào chương trình các môn học phổ thông (các môn khoa học xã hội), các hoạt động ngoại khoá trong nhà trường, đặc biệt, cần quan tâm hơn đến các môn lịch sử và giáo dục công dân trong nhà trường phổ thông
- Giáo dục truyền thống:
Chúng ta biết rằng, truyền thống bao giờ cũng tồn tại với hai mặt của nó cho nên phải tạo dư luận, dùng dư luận để phân tích, khẳng định, vận dụng, kế thừa, phát huy cái tốt, cái phù hợp và ngược lại để loại trừ cái xấu, cái ác.
Ngoài dư luận còn phải dùng đến các phương tiện thông tin đại chúng: Báo chí, phim ảnh, biểu diễn, truyền hình ... Ví dụ, tăng cường nghiên cứu viết sách lịch sử, sáng tác những kịch bản hay về lịch sử để dựng phim, bởi vì, đó là con đường trực tiếp nhất về giáo dục truyền thống. Đồng thời, tại các công sở, đường phố, hàng quán, nơi cộng cộng cần quy định cụ thể việc sử dụng ngôn ngữ, một nét quan trọng thể hiện sự tự tôn dân tộc (vì điều đầu tiên làm nên bản sắc của một dân tộc chính là ngôn ngữ). Vì vậy, cần phải dùng chữ Việt, sau đó mới dùng thêm ngôn ngữ khác vì hiện nay chúng ta thấy hàng trăm bảng, biển mà nếu người Việt Nam không biết tiếng Anh, tiếng Pháp thì không biết được đó là gì. Ở Trung Quốc, người ta sẵn sàng phiên âm ra tiếng Trung Quốc cả những mặt hàng nhập ngoại để mọi người dân dễ hiểu, đồng thời là thể hiện sự tự tôn cũng như tính giáo dục cao. Ví dụ: Cocacola được viết là “Khả khẩu khả lạc” (Vừa ngon vừa thích thú) chữ Cocacola viết nhỏ hơn ở phía dưới. Hoặc Pepsicola được viết là "Bách khẩu khả lạc" ....Đây cũng là một điều chúng ta cần học hỏi và tham khảo, dù là chuyện nhỏ nhưng nó lại mang ý nghĩa lớn.
Bên cạnh đó, để giáo dục truyền thống một cách có hiệu quả cần cải tiến một cách có định hướng các hương ước, tộc ước ... cần giữ cái gì, loại bỏ cái gì, cải thiện, bổ sung cái gì ? ...(bởi vì văn hoá Việt Nam là văn hoá cộng đồng làng xã, cộng đồng huyết thống, họ tộc).
Cần đưa việc giáo dục truyền thống vào nội dung giảng dạy của nhà trường. Việc giáo dục truyền thống phải được tiến hành thường xuyên nhằm giúp con người có sức đề kháng với những "căn bệnh" về vật chất và tinh thần mà mặt trái của cơ chế thị trường và toàn cầu hoá tạo ra. Đồng thời, cần khắc phục những mặt tiêu cực của di sản như thái độ độc đoán, gia trưởng ....
Về đầu tư
Việc xã hội hoá về đầu tư là phương châm cơ bản, lâu dài song trước mắt Nhà nước cần đầu tư hỗ trợ tập trung vào việc đầu tư xây dựng những giá trị vật thể và phi vật thể đóng vai trò định hướng được lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội như phim ảnh, công trình văn hoá - lịch sử quan trọng của Quốc gia, phong trào xây dựng "nếp sống văn minh, gia đình văn hoá" ...
Ví dụ như việc trùng tu, bảo tồn các di tích lịch sử; làm phim về lịch sử, in sách hoặc thi viết, thi tìm hiểu về lịch sử hay tìm hiểu văn hoá truyền thống trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, truyền hình ..)
Như vậy, phải qua giáo dục về văn hoá truyền thống để làm cho lớp trẻ "hiểu" và từ "hiểu" đến chỗ "cần" rồi phải "tự thân vận động". Nói cách khác, trang bị cho thế hệ trẻ những kiến thức về văn hoá truyền thống, giúp họ có ý thức để rồi họ tự ý thức về những điều cần làm với những giá trị quý báu của văn hoá truyền thống dân tộc../.
Nhà ở sạch sẽ ngăn nắp là nhà sạch và gọn :)
Không giữ mamy ***** ak` :3
Tự mamy làm =)))
a)Nhà ở sạch sẽ ngăn nắp là nhà ở có môi trường sống sạch, đẹp; thể hiện có sự chăm sóc, giữ gìn của con người
b)Phải giữ gìn nhà ở sạch sẽ, ngăn nắp vì:
- Đảm bảo sức khoẻ cho các thành viên trong gia đình
- tiết kiệm thời gian khi tìm một vật dụng cần thiết hoặc khi dọn dẹp
- Làm tăng vẻ đẹp cho nhà ở
c)Các công việc cần làm là:
- Thường xuyên lau chùi, dọn dẹp nhà ở
- Tiêu diệt lăng quăng
- Sắp xếp đồ đạc gọn gàng, ngăn nắp
- Bỏ rác đúng nơi quy định
Chúc bạn học tốt!
Đảng thik thì đảng chọn thôi, nhiều chuyện quá
mình chịu thôi