thế nào là hồi tưởng kí ức
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
TK
Trình bày báo cáo trước Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh: Chúng ta đã nỗ lực hết sức mình trong điều kiện có thể, tập trung giải quyết khó khăn, tháo gỡ vướng mắc, vượt qua thách thức, nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trên các lĩnh vực. Chúng ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, rất đáng khích lệ trong toàn hệ thống và trên tất cả các lĩnh vực.
Thủ tướng Phạm Minh Chính: Điều nổi bật là, trong những thời điểm khó khăn, thử thách gay gắt nhất của dịch bệnh, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy mạnh mẽ, đã xuất hiện rất nhiều tấm gương, nghĩa cử cao đẹp, lay động lòng người. -Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Theo chương trình Kỳ họp, Chính phủ đã gửi đến Quốc hội 54 báo cáo và tờ trình về các lĩnh vực, trong đó có các báo cáo đánh giá đầy đủ, toàn diện về kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) năm 2021, dự kiến Kế hoạch phát triển KTXH năm 2022 và về công tác phòng, chống dịch COVID-19.
Tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XV diễn ra tại Hà Nội sáng 20/10, thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính báo cáo Quốc hội và đồng bào, cử tri cả nước những nội dung chủ yếu về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022.
Những nghĩa cử cao đẹp, tận tâm, tận lực hết mình của đồng bào, đồng chí, chiến sĩ và cộng đồng doanh nghiệp
Năm 2021 diễn ra nhiều sự kiện trọng đại của đất nước; là năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Chiến lược phát triển KTXH 10 năm 2021 – 2030 và các kế hoạch 5 năm 2021 – 2025 trong bối cảnh đất nước gặp những khó khăn, thách thức mới gay gắt hơn. Do tiếp tục xuất hiện các đợt dịch COVID-19 với những biến chủng mới, kinh tế thế giới còn nhiều bất định và tăng trưởng không vững chắc; các nước trong khu vực Đông Nam Á bị ảnh hưởng nặng nề.
Trong nước, dịch COVID-19 bùng phát lần thứ tư ở nhiều địa phương với sự xuất hiện của biến thể Delta có tốc độ lây lan rất nhanh, nguy hiểm hơn nhiều so với chủng gốc trước đây, lại xâm nhập sâu vào các trung tâm kinh tế, đô thị lớn... buộc chúng ta phải áp dụng nhiều biện pháp phòng, chống dịch chưa có tiền lệ, mạnh mẽ, quyết liệt hơn để thực hiện mục tiêu ưu tiên trước hết, trên hết là bảo vệ sức khỏe, tính mạng của Nhân dân; từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất kinh doanh, sinh kế và đời sống nhân dân.
Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương Đảng, trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự kịp thời ban hành những quyết sách đặc thù phục vụ phòng, chống dịch, phát triển KTXH, bảo đảm an sinh xã hội và giám sát hiệu quả của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương và sự đồng tình, ủng hộ, chia sẻ, tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, rất đáng khích lệ trong toàn hệ thống và trên tất cả các lĩnh vực.
Cụ thể, trong điều kiện dịch COVID-19 diễn biến phức tạp tại một số địa phương, chúng ta đã chuẩn bị chu đáo và tổ chức rất thành công Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và kiện toàn nhân sự các chức danh lãnh đạo các cơ quan nhà nước, góp phần ổn định chính trị - xã hội, khẳng định sự đồng bộ, tính thống nhất của cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ, tạo nền tảng vững chắc và điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước.
Về phòng, chống dịch COVID-19, Thủ tướng nhấn mạnh: Những tháng vừa qua công tác phòng, chống dịch COVID-19 là ưu tiên hàng đầu trong chỉ đạo, điều hành quyết liệt, mạnh mẽ của Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương; với tinh thần vừa có kế thừa và vừa có đổi mới vì chưa có tiền lệ nên phải bám sát yêu cầu thực tiễn; vừa làm vừa rút kinh nghiệm, bổ sung từng bước hoàn thiện các biện pháp phòng, chống dịch phù hợp với biến chủng mới lây lan nhanh, nguy hiểm hơn theo phương châm “5K + vaccine + điều trị + công nghệ + đề cao ý thức của Nhân dân”.
Khi dịch bệnh đã nhiễm sâu tại các đô thị, vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, chúng ta đã nhanh chóng điều chỉnh tổ chức thực hiện theo cách tiếp cận toàn dân, lấy cấp xã là “pháo đài”, người dân là “chiến sỹ” và là trung tâm phục vụ, là chủ thể tham gia phòng, chống dịch; đưa dịch vụ y tế, an sinh xã hội đến cấp cơ sở để người dân tiếp cận kịp thời, hiệu quả hơn và bảo vệ an ninh, an toàn cho Nhân dân.
Nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực, quyết tâm cao và phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, các địa phương, đặc biệt là các lực lượng tuyến đầu chống dịch như y tế, quân đội, công an, các lực lượng cơ sở và sự đoàn kết, đồng tình ủng hộ, tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, công tác phòng, chống dịch ngày càng chuyển biến tích cực, hiệu quả hơn, nhất là sau khi nâng cấp, kiện toàn Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19 và kịp thời điều động một lực lượng lớn chưa từng có, trong một thời gian rất ngắn với khoảng hơn 300 nghìn lượt cán bộ, chiến sỹ các lực lượng y tế, quân đội, công an từ Trung ương và các địa phương khác hỗ trợ cho các địa phương thực hiện giãn cách và tăng cường giãn cách xã hội.
Đồng thời, đẩy mạnh ngoại giao vaccine, thành lập Quỹ vaccine phòng chống COVID-19, tích cực đẩy mạnh nhập khẩu, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine trong nước và phát động chiến dịch tiêm chủng lớn nhất từ trước tới nay với tinh thần “vaccine tốt nhất là vaccine được tiêm sớm nhất”. Đến ngày 19/10/2021, đã tiếp nhận 97,5 triệu liều vaccine đã phân bổ 95,5 triệu liều và tiêm được trên 65,7 triệu liều (tỷ lệ tiêm ít nhất 1 mũi cho người từ 18 tuổi trở lên tính trung bình là 63,5%), tập trung cho các đối tượng và địa bàn ưu tiên.
Kịp thời động viên, khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phòng, chống dịch. Duy trì phù hợp hoạt động sản xuất kinh doanh ở những nơi đủ điều kiện, an toàn dịch bệnh; hạn chế tối đa đứt gãy chuỗi sản xuất, cung ứng, lao động.
“Có thể nói, chúng ta đã nỗ lực hết sức mình trong điều kiện có thể vì nguồn lực, năng lực hệ thống y tế còn nhiều hạn chế, bất cập, nhất là ở cấp cơ sở, hầu hết các vật tư, sinh phẩm, thiết bị y tế, đặc biệt là thuốc, vaccine trong nước chưa sản xuất được, phải nhập khẩu trong điều kiện nguồn cung khan hiếm trên toàn cầu”, Thủ tướng phát biểu. Như Trung ương đã đánh giá: “Các chủ trương, chính sách, biện pháp được triển khai trong thời gian qua là đúng đắn, kịp thời và chỉ đạo, tổ chức thực hiện khẩn trương, quyết liệt, đạt được những kết quả quan trọng. Đến nay dịch bệnh cơ bản được kiểm soát trên phạm vi toàn quốc và đang thực hiện lộ trình thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh tại nhiều địa phương”.
Đến nay, tỷ lệ nhiễm và tử vong giảm sâu tại các tâm dịch Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Long An. An sinh xã hội, đời sống nhân dân ở những nơi thực hiện giãn cách và tăng cường giãn cách xã hội cơ bản được bảo đảm; trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Đã có nhiều quyết định hỗ trợ cho người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn như lương thực, thực phẩm, tiền mặt, giảm thuế, phí, lệ phí, tiền điện, nước, cước viễn thông…
Người đứng đầu Chính phủ nhấn mạnh: Điều nổi bật là, trong những thời điểm khó khăn, thử thách gay gắt nhất của dịch bệnh, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy mạnh mẽ, đã xuất hiện rất nhiều tấm gương, nghĩa cử cao đẹp, lay động lòng người. “Đảng, Nhà nước ghi nhận, đánh giá cao và trân trọng cảm ơn những nỗ lực, hỗ trợ, đóng góp hiệu quả, những nghĩa cử cao đẹp, tận tâm, tận lực hết mình của đồng bào, đồng chí, chiến sỹ và cộng đồng doanh nghiệp, sự giúp đỡ quý báu của đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế trong phòng, chống dịch; đồng thời chia sẻ, cảm thông sâu sắc với những tổn thất, mất mát về người, vật chất và tinh thần mà Nhân dân ta phải gánh chịu do đại dịch COVID-19 gây ra”, Thủ tướng phát biểu.
Nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp
Về phát triển kinh tế - xã hội, nhằm khắc phục những khó khăn do tác động nghiêm trọng của dịch COVID-19, Chính phủ đã chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương vừa phải quyết liệt triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Quốc hội, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các Nghị quyết, chương trình, kế hoạch hành động của Chính phủ; phối hợp chặt chẽ, linh hoạt giữa chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách khác trong chỉ đạo, điều hành; tập trung giải quyết khó khăn, tháo gỡ vướng mắc, vượt qua thách thức; nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trên các lĩnh vực.
Ước thực hiện cả năm dự kiến đạt và vượt 8/12 chỉ tiêu chủ yếu đề ra. Kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định; lạm phát được kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 9 tháng chỉ tăng bình quân 1,82%, cả năm ước tăng dưới mức Quốc hội giao; các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm. Thu NSNN 9 tháng đạt trên 80%, cả năm ước vượt dự toán, cơ bản bảo đảm nguồn lực cho công tác phòng, chống dịch bệnh và các nhiệm vụ cấp bách khác; bội chi NSNN trong phạm vi dự toán (4%GDP). Huy động vốn đầu tư toàn xã hội ước cả năm đạt khoảng 35% GDP. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá 9 tháng đạt trên 240 tỷ USD, cả năm ước tăng khoảng 10,7%. Mặt bằng lãi suất giảm; tỷ giá, thị trường ngoại tệ ổn định, dự trữ ngoại hối nhà nước tiếp tục được củng cố. Nông nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; phấn đấu đến cuối năm có khoảng 68% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Tăng trưởng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt khá; an ninh năng lượng được bảo đảm. Tiếp tục triển khai nhiều dự án kết cấu hạ tầng quan trọng quốc gia, đang triển khai 20 dự án trọng điểm ngành giao thông.
Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, đột phá, góp phần tháo gỡ một số khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh. Chính phủ tập trung hơn cho công tác xây dựng thể chế; phối hợp ngày càng chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan của Quốc hội trong việc rà soát, sửa đổi, bổ sung kịp thời các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật đáp ứng yêu cầu thực tiễn phòng, chống dịch và phục hồi, phát triển KTXH.
Triển khai Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 86/NQ-CP về các giải pháp cấp bách phòng, chống dịch COVID-19; báo cáo cấp có thẩm quyền và Ủy ban thường vụ Quốc hội để kịp thời triển khai các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh; hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp; trình cấp có thẩm quyền sớm triển khai miễn, giảm một số loại thuế, phí, lệ phí để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; đồng thời chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tập trung rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách theo tinh thần vướng mắc ở cấp, ngành nào thì cấp, ngành đó chủ động sửa đổi, hoàn thiện để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn, sớm ổn định đời sống và khôi phục, phát triển sản xuất kinh doanh. Đã báo cáo cấp có thẩm quyền đồng ý về chủ trương cho miễn, giảm một số loại thuế, phí, lệ phí để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh với tổng số tiền khoảng 21,3 nghìn tỷ đồng và đang khẩn trương hoàn thiện để sớm được ban hành vào cuối tháng 10, đầu tháng 11/2021.
Các hoạt động văn hóa, xã hội được tổ chức theo hình thức phù hợp với tình hình dịch bệnh, nhất là tăng cường các hoạt động trực tuyến. Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, chăm lo đời sống người có công, đối tượng chính sách, bảo trợ xã hội, giảm nghèo được đẩy mạnh. Công tác an sinh xã hội, hỗ trợ người dân, người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh được triển khai tích cực, hiệu quả. Các chính sách dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, người cao tuổi, trẻ em, gia đình, bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ tiếp tục được quan tâm; thể thao thành tích cao đạt một số kết quả ấn tượng.
Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân tiếp tục được quan tâm; đẩy mạnh kết nối liên thông nền tảng hỗ trợ tư vấn khám, chữa bệnh trực tuyến. Khuyến khích nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và sản xuất vaccine, thuốc, sinh phẩm trong nước. Tổ chức tốt các kỳ thi tốt nghiệp, tuyển sinh cao đẳng, đại học; khai giảng năm học mới, dạy và học trực tiếp, trực tuyến linh hoạt, phù hợp với tình hình dịch bệnh; tích cực triển khai Chương trình “Sóng và máy tính cho em” (đã vận động quyên góp được số tiền tương đương hơn 1 triệu máy tính đang triển khai mua để hỗ trợ học sinh trên cả nước có điều kiện học tập trực tuyến). Các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số được thúc đẩy mạnh mẽ trên các lĩnh vực.
Công tác quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu được thường xuyên chỉ đạo. Tích cực tổng kết Nghị quyết của Trung ương về đất đai và Nghị quyết của Bộ Chính trị về khoáng sản; tháo gỡ một số bất cập trong quy định về quản lý đất đai, tài nguyên, môi trường. Đang trình các cấp có thẩm quyền kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2021 - 2025. Hoàn thành các chỉ tiêu bảo vệ môi trường theo kế hoạch đề ra.
Cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính tiếp tục được đẩy mạnh. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính; kiểm tra, thanh tra các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực và dư luận quan tâm. Công tác phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng được thực hiện nghiêm theo đúng tinh thần chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được chú trọng; tỷ lệ giải quyết các vụ việc tố cáo đạt 88,3%, vượt mục tiêu đề ra (85%).
Quốc phòng, an ninh được giữ vững; trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Xử lý linh hoạt, phù hợp, hiệu quả các tình huống phức tạp trên biển và tuyến biên giới. Tăng cường các biện pháp bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; tập trung trấn áp các loại tội phạm; bảo đảm an ninh, an toàn các sự kiện quan trọng của đất nước. Kịp thời đấu tranh, phản bác các quan điểm, tư tưởng sai trái, xuyên tạc, thù địch.
Công tác đối ngoại được triển khai đồng bộ, toàn diện, linh hoạt, hiệu quả, phù hợp với tình hình, nhất là ngoại giao vaccine, ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế; công tác thông tin đối ngoại, bảo hộ công dân được quan tâm chỉ đạo; qua đó góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển và tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã tiến hành gần 60 cuộc điện đàm/hội đàm trực tuyến với các đối tác quốc tế quan trọng. Các nội dung vận động vaccine, thuốc điều trị, trang thiết bị y tế, thúc đẩy hợp tác chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư được ưu tiên hàng đầu trong hoạt động đối ngoại của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các ban, bộ, ngành trung ương, địa phương.
Thông tin, truyền thông ngày càng đổi mới tích cực, kịp thời, góp phần tạo đồng thuận xã hội, nhất là trong phòng, chống dịch bệnh và phục hồi, phát triển KTXH. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, cơ quan Dân vận và các tổ chức chính trị - xã hội tăng cường tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và niềm tin trong Nhân dân; kịp thời ngăn chặn thông tin xấu, độc, xử lý nghiêm các vi phạm.
Khơi thông mọi nguồn lực cho phòng, chống dịch và phát triển KTXH, bảo đảm an sinh xã hội
Các báo cáo về KTXH và về công tác phòng, chống dịch COVID-19 gửi đến các vị đại biểu Quốc hội đã nêu cụ thể những tồn tại, hạn chế trên các lĩnh vực.
Công tác phòng, chống dịch có lúc, có nơi còn bị động, lúng túng trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, nhất là giai đoạn đầu khi dịch bùng phát mạnh ở Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam do biến chủng Delta lây lan nhanh, hết sức nguy hiểm, khó lường, khó kiểm soát; vẫn còn thiếu nhất quán trong triển khai các biện pháp phòng, chống dịch, nhất là trong thực hiện yêu cầu giãn cách xã hội tại cơ sở; việc thực hiện các quy định về đi lại của người dân, lưu thông hàng hóa thiếu thống nhất giữa các địa phương, gây ách tắc, phiền hà cục bộ cho Nhân dân. Tiếp cận nguồn vaccine so với một số nước còn chậm, gặp nhiều khó khăn do khan hiếm trên toàn cầu; việc mua vaccine chịu nhiều rủi ro, phải chấp nhận các điều kiện áp đặt của nhà cung cấp. Năng lực y tế, nhất là ở cấp cơ sở còn nhiều hạn chế, bất cập, dẫn đến quá tải ở một số địa phương và số ca tử vong cao trong giai đoạn đầu. Việc triển khai công tác cứu trợ, bảo đảm an sinh xã hội tại một số địa bàn, nhất là khu cách ly, phong tỏa còn khó khăn do số lượng người cần được hỗ trợ rất lớn. Theo thống kê bước đầu, khoảng hàng chục triệu người cần hỗ trợ trong cùng một thời điểm; riêng Thành phố Hồ Chí Minh hỗ trợ cả 3 đợt lên đến khoảng 7,5 triệu người.
Dự kiến có 4/12 chỉ tiêu KTXH chủ yếu chưa đạt mục tiêu đề ra. Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm đạt 5,64%, tuy nhiên quý III giảm 6,17% do ảnh hưởng nghiêm trọng của đợt dịch bùng phát lần thứ tư nên tính chung 9 tháng GDP chỉ tăng 1,42%. Kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn rủi ro; sức ép lạm phát tăng; xuất khẩu giảm tốc, tiếp tục xu hướng nhập siêu; xuất nhập khẩu phụ thuộc vào khu vực FDI và một số ít thị trường. Xuất hiện tình trạng đứt gãy một số chuỗi sản xuất, cung ứng, lao động. Thị trường tài chính, bất động sản, chứng khoán có thời điểm tăng nóng. Tiến độ giải ngân vốn đầu tư công chậm, nhất là vốn ODA và vay ưu đãi. Khu vực dịch vụ gặp khó khăn nghiêm trọng, đặc biệt là du lịch, lưu trú, ăn uống, vận tải hành khách. Lao động, việc làm bị ảnh hưởng nặng nề.
Tình hình sản xuất kinh doanh và đời sống một bộ phận người dân gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong các khu cách ly, phong tỏa, các địa bàn tâm dịch. Sức chống chịu của nền kinh tế suy giảm mạnh; số lượng người lao động tạm ngừng việc, thiếu, mất việc làm gia tăng. Đời sống tinh thần, tâm lý của người dân bị ảnh hưởng, nhất là tại các địa bàn thực hiện giãn cách xã hội và tăng cường giãn cách xã hội kéo dài. Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, tạm ngừng hoạt động hoặc chờ giải thể tăng và ở mức khá cao (mặc dù thấp hơn số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động). Tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng, tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro.
Cơ cấu giữa các ngành, lĩnh vực và nội ngành, lĩnh vực chuyển dịch chậm; khu vực công nghiệp, dịch vụ gặp rất nhiều khó khăn. Cơ cấu lại 3 lĩnh vực trọng tâm còn hạn chế. Cổ phần hóa DNNN chưa đạt tiến độ. Việc xử lý các ngân hàng yếu kém và các dự án, doanh nghiệp kém hiệu quả còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ; đang đề xuất cấp có thẩm quyền xin cơ chế xử lý 2 ngân hàng thương mại yếu kém và 5 dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả. Công tác lập quy hoạch theo Luật Quy hoạch còn chậm.
Chất lượng nguồn nhân lực chưa chuyển biến rõ nét. Dạy và học trực tuyến còn nhiều bất cập. Công tác bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng và đấu tranh, phòng, chống tội phạm còn nhiều thách thức cần phải vượt qua. Quốc phòng, an ninh còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp...
Những tồn tại, hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân khách quan cơ bản là do dịch COVID-19 diễn biến nhanh, phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng và gây hậu quả nặng nề, khiến 23 địa phương phải thực hiện giãn cách, tăng cường giãn cách xã hội trong thời gian dài, trong đó có các trung tâm kinh tế lớn, vùng động lực tăng trưởng. Đồng thời, còn có các yếu tố từ bên ngoài như: chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn, đứt gãy; giá nguyên, nhiên, vật liệu, cước, phí vận chuyển hàng hóa quốc tế tăng cao; việc huy động chuyên gia, nhà quản lý, nhà thầu nước ngoài, máy móc, thiết bị nhập khẩu bị gián đoạn. Dòng vốn đầu tư toàn cầu phục hồi chậm đã ảnh hưởng đến tình hình thu hút FDI.
Nguyên nhân chủ quan chủ yếu là do công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện có lúc, có nơi còn lơ là, mất cảnh giác, chủ quan, bị động, lúng túng hoặc cứng nhắc, chưa đồng bộ trong lãnh đạo, chỉ đạo xử lý các tình huống cụ thể, đột xuất; còn hạn chế, bất cập trong phân tích, dự báo tình hình để xây dựng và triển khai thực hiện các kế hoạch, phương án vừa phòng, chống dịch, vừa phát triển KTXH; năng lực một bộ phận cán bộ còn hạn chế; việc thực hiện các biện pháp, chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương về phòng, chống dịch, lưu thông hàng hóa, tổ chức sản xuất an toàn có lúc, có nơi chưa kịp thời, chưa nghiêm, áp dụng thiếu nhất quán, chưa linh hoạt. Công tác phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương chưa thật sự chặt chẽ, hiệu quả chưa cao; chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các cơ chế, chính sách đáp ứng yêu cầu thực tiễn diễn biến nhanh, khó lường; thủ tục hành chính cho doanh nghiệp, người dân vẫn còn phiền hà...
Thủ tướng nêu rõ, qua thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thời gian qua, có thể rút ra một số kinh nghiệm bước đầu:
Trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, cần phải nhất quán, xuyên suốt, quyết liệt, kịp thời từ Trung ương đến cơ sở; bám sát yêu cầu thực tiễn, kịp thời có kế hoạch, phương án, biện pháp phù hợp để vừa phòng, chống dịch bệnh hiệu quả, vừa phục hồi và phát triển KTXH; tuyệt đối không chủ quan, lơ là, mất cảnh giác và cũng không hoang mang, mất bình tĩnh, nóng vội trong phòng, chống dịch.
Đẩy mạnh rà soát, hoàn thiện thể chế, pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi có ý nghĩa quan trọng, không chỉ tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, mà còn tạo động lực thúc đẩy phát triển; coi trọng sơ kết, đánh giá thực tiễn, kịp thời rút kinh nghiệm và nâng cao năng lực phân tích, dự báo, cảnh báo, nắm chắc tình hình, kịp thời ứng phó, xử lý hiệu quả những vấn đề phát sinh.
Để nắm bắt và giải quyết kịp thời, có hiệu quả các vướng mắc, yêu cầu cấp bách của thực tiễn, đặc biệt là các tình huống diễn biến nhanh trong phòng, chống dịch và phát triển KTXH đòi hỏi phải nâng cao năng lực của hệ thống chính trị và năng lực quản lý xã hội của Nhà nước, nhất là ở cấp cơ sở.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và tinh thần tự lực, tự cường; huy động hiệu quả mọi nguồn lực, tận dụng cơ hội, tăng cường hợp tác và tranh thủ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế là rất quan trọng, tạo sức mạnh tổng hợp trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.
Phải tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao tính chủ động, tự chủ, ý thức, tinh thần trách nhiệm và trang bị kiến thức, kỹ năng của Nhân dân trong phòng, chống dịch bệnh và phát triển KTXH, đồng thời góp phần củng cố niềm tin trong Nhân dân, tạo sức mạnh đồng thuận xã hội.
Về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu những tháng cuối năm 2021, Thủ tướng nêu rõ: Tập trung nỗ lực cao nhất cho phòng, chống dịch COVID-19; khẩn trương xây dựng và tổ chức thực hiện các phương án, kịch bản cụ thể, sát hợp với tình hình thực tế; quyết liệt hành động, triển khai thực hiện hiệu quả, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đề ra theo phương châm nhạy bén, linh hoạt, sáng tạo, bình tĩnh, kịp thời với mục tiêu xuyên suốt là bảo vệ sức khỏe, tính mạng của Nhân dân là trên hết, trước hết; thúc đẩy viện trợ, nhập khẩu vaccine, nghiên cứu chuyển giao công nghệ và sản xuất trong nước, đẩy nhanh tiến độ bao phủ tiêm vaccine, chuẩn bị thuốc điều trị cần thiết, nâng cao năng lực y tế, nhất là công tác điều trị và ở cơ sở; có lộ trình thích ứng an toàn, linh hoạt, phấn đấu kiểm soát hiệu quả dịch bệnh trên phạm vi toàn quốc để tập trung khắc phục hậu quả của dịch bệnh và khôi phục, phát triển KTXH.
Cùng với đó, khẩn trương hoàn thiện, báo cáo cấp có thẩm quyền Chiến lược tổng thể về phòng, chống dịch và Chương trình phục hồi và phát triển KTXH. Rà soát, tháo gỡ ngay khó khăn, vướng mắc về thể chế; giảm thiểu các thủ tục và chi phí sản xuất kinh doanh. Điều chỉnh linh hoạt chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách khác để giữ vững ổn định vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; thúc đẩy mạnh mẽ xuất khẩu; kiểm soát chặt chẽ giá cả, thị trường. Tập trung ưu tiên triển khai các cơ chế, chính sách hỗ trợ thiết thực, hiệu quả cho người dân, doanh nghiệp; nhanh chóng khôi phục thị trường lao động do bị tác động trực tiếp bởi dịch COVID-19; thúc đẩy phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh; bảo đảm cung ứng, lưu thông hàng hoá thông suốt. Khơi thông mọi nguồn lực cho phòng, chống dịch và phát triển KTXH, bảo đảm an sinh xã hội. Sớm đưa học sinh trở lại trường học an toàn. Củng cố, giữ vững quốc phòng, an ninh; tiếp tục triển khai mạnh mẽ ngoại giao vaccine, ngoại giao kinh tế, ngoại giao chính trị; đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin truyền thông.
Từ đầu năm đến ngày 15/10/2021, Chính phủ đã ban hành 154 nghị quyết, 83 nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành 31 quyết định mang tính quy phạm pháp luật, 26 chỉ thị và các bộ, ngành đã ban hành 253 thông tư để tháo gỡ các “rào cản”, khơi thông mọi nguồn lực cho đầu tư, sản xuất kinh doanh và phòng, chống dịch. Về các chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, từ đầu năm đến nay tiếp tục gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2021; cho phép lùi thời điểm đóng kinh phí công đoàn đến ngày 31/12/2021. Tính đến ngày 15/10/2021: - Đã miễn, giảm, giãn khoảng 95,1 nghìn tỷ đồng tiền thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất (trong đó gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất là khoảng 78,8 nghìn tỷ đồng); - Đã hỗ trợ gần 21,89 nghìn tỷ đồng cho 24,26 triệu lượt đối tượng; đã cho vay 566 tỷ đồng để trả lương cho trên 161 nghìn lượt người lao động (theo Nghị quyết 68/NQ-CP); - Đã giải quyết hưởng hỗ trợ cho gần 430 nghìn lao động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp và trên 111 nghìn người đã dừng tham gia với tổng số tiền hỗ trợ là 1.251 tỷ đồng; trong đó tổng số tiền đã chi trả là 999,5 tỷ đồng cho trên 425 nghìn người lao động (theo Nghị quyết 116/NQ-CP - Xuất cấp tổng cộng trên 137 nghìn tấn gạo hỗ trợ cho trên 2,4 triệu hộ với trên 9,1 triệu nhân khẩu ở 31 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bị thiếu đói do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19; - Tiếp tục hỗ trợ giảm giá điện (khoảng 4.500 tỷ đồng), tiền nước, dịch vụ viễn thông, internet (khoảng 10.000 tỷ đồng); - Đẩy mạnh việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng; lũy kế từ ngày 23/01/2020 đến ngày 15/10/2021, tổng số tiền lãi các tổ chức tín dụng miễn, giảm cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi COVID-19 là gần 27 nghìn tỷ đồng; triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho Tổng Công ty Hàng không Việt Nam (VNA) theo Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ… |
Kí ức tuổi thơ là những trải nghiệm những ấn tượng đầu tiên đẹp đẽ về quê hương. Nó giúp ta gắn liền với những hình ảnh đẹp, những cảm xúc ngọt ngào và ấm áp, và làm cho tình yêu quê hương trong ta trở nên mãnh liệt hơn. Nhờ đó, chúng ta hiểu được giá trị của quê hướng và không bao giờ quên được cội nguồn của mình.
Câu 1: Chiến tranh hóa học là gì? Chiến tranh hóa học là sự sử dụng độc tính của các chất hóa học có chọn lọc vào mục đích chiến tranh nhằm: - Tiêu diệt hoặc làm mất sức chiến đấu của đối phương; - Phá hoại cơ sở đảm bảo và phát triển nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm của đối phương; - Gây nhiễm độc cho môi trường sống của đối phương. Câu 2: Mỹ đã tiến hành chiến tranh hóa học ở Việt Nam như thế nào? Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh hóa học kéo dài từ năm 1961 đến 1971, quân đội Mỹ đã sử dụng: - Chất độc CS dưới các dạng vũ khí khác nhau (lựu đạn, pháo, khói, thùng CS tự nổ khi chạm đất) nhằm làm mất sức chiến đấu lực lượng vũ trang của ta. - Các phương tiện khác nhau (máy bay, xe phun, bình phun) phun rải các chất diệt cỏ, đặc biệt là chất da cam chứa dioxin, một loại chất siêu độc đối với sức khỏe con người, lên 3,06 triệu hécta lãnh thổ Nam Việt Nam (chiếm 15% tổng diện tích toàn miền) với mật độ phun rải ~ 37 kg/ha gấp 17 lần liều sử dụng trong nông nghiệp (theo hướng dẫn của Bộ Tư lệnh Lục quân Mỹ năm 1969 là 2,2 kg/ha). Với mật độ này, các chất diệt cỏ trở thành những chất phát quang, phá hoại mùa màng có tính hủy diệt. Câu 3; Chiến dịch Ranch Hand là gì? Chương trình sử dụng các chất diệt cỏ của quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam bắt đầu từ tháng 8 năm 1961 và kết thúc vào tháng 10 năm 1971 dưới mật danh chung là “OPERATION TRAIL DUST” (chiến dịch bụi đường mòn). Trong chương trình này có các chiến dịch và kế hoạch dưới các mật danh khác nhau. Trong đó trụ cột là chiến dịch phun rải các chất diệt cỏ từ trên không bằng máy bay vận tải C-123 được đặt dưới mật danh là OPERATION RANCH HAND (chiến dịch Ranch Hand). Câu 4: Mục đích của chiến dịch Ranch Hand là gì? Thực hiện chương trình phun rải các chất diệt cỏ mà trụ cột là chiến dịch Ranch Hand, quân đội Mỹ nhằm 3 mụcđích như sau: + Phát quang để tấn công Với mục đích này, việc khai quang (công tác 20T) được tiến hành tập trung vào các vùng căn cứ địa của Cách mạng (như chiến khu c, chiến khu Đ ở miền Đông Nam bộ, chiến khu Dương Minh Châu ở Bắc và Đông Bắc Tây Ninh, đặc khu rừng Sác, Cần Giờ thành phố Hồ Chí Minh...), đường mòn Hồ Chí Minh, các khu vực biên giới với việc phát hiện từ trên không và tổ chức tấn công từ trên không bằng máy bay ném bom, đặc biệt là ném bom rải thảm bằng B-52, hay tấn công trên bộ để tiêu diệt lực lượng, phá hủy phương tiện chiến tranh, cơ sở hậu cần, các tuyến đường vận chuyền và thông tin liên lạc của ta. Để tạo thành những vùng trắng, sau khi dùng các chất diệt cỏ để khai quang, quân đội Mỹ thả tiếp bom napal để đốt trụi những khu rừng mà họ thấy cần thiết. Đây là phương thức tác chiến rất dã man, hủy hoại môi trường sống, làm cho nhiều khu rừng nhiệt đới rậm rạp của Việt Nam bị tàn phá nặng nề. Phải mất nhiều thập niên, thậm chí hàng thế kỷ mới phục hồi lại được. Không những thế, nhiệt độ cao của bom napal còn tạo nên các dioxin thứ cấp với số lượng đáng kể ở những nơi đã phun rải các chất diệt cỏ chứa 2,4-D và 2,4,5-T. + Phát quang để phòng vệ Để thực hiện mục tiêu này, việc khai quang (công tác 20P) được thực hiện ở những vành đai rậm rạp xung quanh các khu vực đóng quân, khu vực trọng yếu, cơ sở hậu cần quan trọng, trục lộ chuyển quân, bãi đổ quân của Mỹ - Ngụy nhằm phát hiện, ngăn chặn và chống phá sự xâm nhập, tấn công của quân ta. + Phá hoại mùa màng Phá hoại mùa màng (công tác 2R) tập trung ở những nơi, những khu vực mà lực lượng cách mạng kiểm soát, tổ chức sản xuất cung cấp lương thực, thực phẩm nhằm phá hoại nền kinh tế tự cung, tự cấp tại chỗ của Cách mạng miền Nam Việt Nam. Câu 5: Có bao nhiêu loại chất độc hóa học quân đội Mỹ đã sử dụng ở Nam Việt Nam? Số lượng như thế nào? Trong thời gian từ tháng 8 năm 1961 đến tháng 10 năm 1971, quân đội Mỹ đã thử nghiệm và sử dụng vài chục loại chất độc hóa học khác nhau với khối lượng trên 100.000 tấn, nhưng chủ yếu là các chất: CS, da cam (Agent Orange-AO), chất trắng (Agent White), chất xanh (Agent Blue) và một lượng đáng kể các chất: tím (Agent Purple), hồng (Agent Pink) và xanh mạ (Agent Green). Các chất da cam, tím, hồng và xanh mạ là những chất chứa tạp chất dioxin. Số lượng các chất chủ yếu được đánh giá như sau: - Chất CS: 9.000 tấn - Các chất diệt cỏ: 77 triệu lít (95.000 tấn) Trong đó: TT TÊN KHỐI LƯỢNG Chất da cam 49,3 triệu lít (63.100 tấn) Chất trắng 20,6 triệu lít (23.100 tấn) Chất xanh 4,7 triệu lít (6.200 tấn) Chất tím, chất hồng, xanh mạ 2,4 triệu lít (2.600 tấn) Câu 6: Quân đội Mỹ đã tàng trữ các chất diệt cỏ ở đâu? Hiện nay ở những nơi đó có còn các chất này không? Các chất diệt cỏ thường được tàng trữ ở các kho trung chuyển tại các cảng các kho và tổng kho của quân đội Mỹ-Ngụy theo phân cấp. Các bãi tàng trữ chính là ở các sân bay quân sự: Biên Hòa, Đà Nẵng, Phù Cát, Nha Trang. Các sân bay lớn vừa là nơi tàng trữ, nạp các chất diệt cỏ lên máy bay đi phun rải, vừa là nơi rửa máy bay sau phun rải như sân bay Biên Hòa, Đà Nẵng, Phù Cát. Hiện nay, không thấy có thông tin về sự hiện diện của các chất diệt cỏ ở những nơi trước đây đã tàng trữ các chất này, song dấu tích của chúng còn tồn lại ở một số khu vực ở các sân bay Biên Hòa, Đà Nẵng, Phù Cát và có thề ở một sổ địa điểm khác nữa. Câu 7: Quân đội Mỹ đã sử dụng những phương tiện gì để phun rải chất độc da cam/dioxin trong chiến tranh Việt Nam? Để sử dụng chất độc CS, quân đội Mỹ đã sử dụng các phương tiện, vũ khí khác nhau: các loại lựu đạn CS, ống phóng và quấn chất nổ vào thùng phi chứa CS. Đối với các chất diệt cỏ, quân đội Mỹ sử dụng các phương tiện: máy bay (vận tải, trực thăng), xe phun, bình phun, nhưng chủ yếu là máy bay vận tài C-123, vì phun rải bằng máy bay tạo được khu vực nhiễm độc rộng lớn. Mỗi phi xuất C-123 tạo được một vệt các chất diệt cỏ rộng 80 - 100 m, dài 15 - 18 km chỉ trong vòng 5-7 phút. Câu 8: Những công ty nào đã sản xuất và cung cấp chất diệt cỏ cho quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam? Để đáp ứng yêu cầu của Chính phủ Mỹ, theo thống kê chưa đầy đủ, có tất cả 37 công ty hóa chất Mỹ đã sản xuất và cung ứng hóa chất diệt cỏ cho quân đội Mỹ và các đồng minh sử dụng trong chiến tranh Việt Nam như: Công ty hóa chất Dow, Công ty hóa chất Monsanto, Tập đoàn Hercules, Công ty hóa chất Occidental, Công ty hóa chất Thompson Hayward, Công ty hóa chất Uniroyal, Tập đoàn hóa chất Diamond Shamrock, Tập đoàn Ansul, Công ty Pharmacia, Công ty Maxus Energy, Tập đoàn Harcros, Tập đoàn Uniroyal, Công ty Diamond Alkali, Công ty hóa chất Thompson, Công ty hóa chất ABC 1-100 ... Câu 9: Những khu vực nào bị phun rải nặng nhất ở Nam Việt Nam? Trong thời gian chiến tranh, Mỹ - Ngụy chia Nam Việt Nam ra các vùng chiến thuật: I, II, III, IV. Trong đó vùng chiến thuật III bị phun rải nặng nhất, đây là khu vực xung quanh Sài Gòn, đầu não của Mỹ - Ngụy. Các tỉnh và khu vực trọng điểm là: Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Thừa Thiên-Huế, Quảng Trị, chiến khu D, chiến khu Dương Minh Châu, đặc khu rừng Sác, mật khu Bời Lời. Câu 10: Chất da cam là gì? Chất da cam là một chất lỏng màu nâu đỏ hay màu nâu, không tan trong nước, tan trong dầu diezen và các dung môi hữu cơ, có tỷ trong riêng ở 25°C là 1,28 kg/lít. Thành phần gồm 50% chất diệt cỏ 2,4 - D và 50% chất diệt cỏ 2,4,5 - T. Để dễ nhận biết và phân biệt các loại chất độc, quân đội Mỹ dùng sơn với màu sắc khác nhau sơn thành những vạch sơn trên các phương tiện chứa các chất độc này. Thùng phi chứa hỗn hợp 2,4 – D và 2,4,5 – T được sơn vạch màu da cam, từ đây có tên gọi là chất da cam. Tương tự như vậy là tên gọi các chất xanh, chất trắng. Câu 11: Tại sao gọi là chất độc da cam/dioxin? Cụm từ này được Văn phòng Ban Chỉ đạo 33 đề xuất và sử dụng lần đầu tiên vào năm 1999 khi xây dựng chương trình cấp Quốc gia về nghiên cứu khắc phục hậu quả chiến tranh hóa học do Mỹ gây ra ở Việt Nam. Cụm từ này được dùng để chỉ đích danh nguồn gốc dioxin ở Nam Việt Nam là chất độc da cam mà quân đội Mỹ đã phun rải trên lãnh thổ Nam Việt Nam trong thời gian chiến tranh. Chất da cam mà quân đội Mỹ sử dụng ở Nam Việt Nam chứa một lượng tạp chất dioxin rất cao, trung bình là 10 miligram (mg) trong 1 kg chất da cam (được gọi tắt là 10ppm). Thùng phi chừa chất da cam Câu 12: Nên sử dụng cụm từ chất độc da cam/dioxin hay chất độc hóa học/dioxin? Chất độc hóa học/dioxin là cụm từ chỉ các chất độc hóa học có chứa dioxin như policlophenol và các chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam như da cam, đỏ tía (tím), hồng, xanh lá mạ... - Chất độc da cam/dioxin là cụm từ nhấn mạnh chất da cam có hàm lượng dioxin lớn mà quân đội Mỹ sử dụng chủ yếu trong chiến tranh ở Việt Nam. Trên thế giới cũng sử dụng cụm từ Agent Orange. - Nên dùng cụm từ chất độc da cam/dioxin như đã giải đáp. Câu 13: Chất da cam và dioxin khác nhau ở chỗ nào? Sự khác nhau giữa chất da cam và dioxin: Chất da cam được sản xuất công nghiệp để sử dụng, còn dioxin không được sản xuất để sử dụng, song nó lại được sinh ra trong quá trình sản xuất chất 2,4,5-T như là một loại tạp chất. Chất da cam ở nồng độ cao là một loại độc tố đối với thực vật, còn dioxin thì không ảnh hưởng tới thực vật, nhưng lại là một tác nhân siêu độc đối với động vật và con người, về mặt các tính chất vật lí và hóa học, chất da cam và dioxin là hai loại chất hoàn toàn khác nhau. Câu 14: Ngoài chất da cam còn các chất nào chứa dioxin? Ngoài chất da cam, những chất khác mà quân đội Mỹ đã sử dụng ở Nam Việt Nam có chất 2,4,5-T đều có tạp chất dioxin, như các chất hồng, chất đỏ tía (còn gọi là chất tím), chất xanh lá cây... Câu 15: Tại sao thế giới lại cấm sử dụng chất 2,4,5-T? ở Việt Nam có cấm sử dụng không? Năm 1957, các nhà khoa học thế giới đã tìm thấy dioxin (TCDD) trong chất 2,4,5-T là thủ phạm của các vụ nhiễm độc hóa học mà trước đó chưa rõ nguyên nhân. Chất 2,4,5-T được sản xuất trong những năm 50 - 60 của thế kỉ 20 chứa trên 30 - 40 ppm, thậm chí đến 70-100 ppm chất TCDD, chất độc nhất trong các chất dioxin. Vì vậy, trong những năm 70 của thế kỷ 20, nhiều nước trên thế giới đã ngừng sản xuất và cấm sử dụng chất 2,4,5-T. Việt Nam cũng đã cấm sừ dụng chất này vào năm 1994 (theo QĐ số 711/NN-BVTV/CV ngày 11 tháng 5 năm 1994 của Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm). Câu 16: Dioxin từ đâu mà ra? Dioxin sinh ra từ các nguồn sau đây: a. Sản xuất các hợp chất hữu cơ chứa Clo, mà tiêu biểu là chất diệt cỏ 2,4,5-T, chất bảo quản gỗ Pentaclophenol. b. Các quá trình cháy: Đốt các loại rác thải thành phố, rác thải y tế, rác thải công nghiệp, tái chế kim loại nhất là nhôm, đốt than, cháy rừng, lò hỏa thiêu, tai nạn hóa học... Trong đó, đốt rác thành phố chiếm tới 60 - 70%, kế tiếp là đốt rác thải y tế khoảng 12% phát thải dioxin ra môi trường. Có thể nói chung: dioxin là sản phẩm của lửa, nó được sinh ra trong quá trình đốt cháy các chất, các vật liệu hữu cơ chứa Clo ở nhiệt độ cao. c. Các quá trình tẩy trắng bột giấy bằng các chất oxy hóa chứa Clo. Riêng ở Việt Nam vì nền công nghiệp chưa phát triển nên lượng dioxin có trong môi trường chủ yếu do Mỹ sử dụng trong chiến tranh. Câu 17: Dioxin là gì? Dioxin là tên gọi chung của hỗn hợp 75 đồng phân và đồng loại policlodibenzo - para - dioxin (PCDD) có bộ khung phân tử gồm 2 vòng benzen liên kết với nhau qua hai cầu nối oxy ở vị trí đối nhau (công thức PCDD) và 135 đồng phân và đồng loại policlodibenzofuran (C) có bộ khung phân từ là là 2 vòng benzen nói với nhau qua một cầu oxy và một liên kết đơn trực tiếp C-C, tạo ra một vòng furan giữa hai vòng benzen (công thức PCDF). Trong các đồng phân và đồng loại của dioxin thì 2,3,7,8-tetrachlorodibenzo-p-dioxin (gọi tắt là TCDD) được coi là chất độc nhất. Câu 18: Độ độc TEQ là gì? Để tính độ độc chung cho các chất độc trong các nhóm dioxin, furan và PCB, độ độc của chất độc nhất TCDD được quy ước bằng 1, các chất ít độc hơn được so sánh với TCDD, có độ độc bằng phần/mười; phần/trăm; phần/nghìn so với TCDD. Những con số này được gọi là hệ số độc. Khi lấy nồng độ của các chất độc nhân với các hệ số độc ta nhận được nồng độ độc tương đương (NĐTĐ), hay độ độc tương đương của từng chất độc (ĐĐTĐ), viết tắt theo tiếng Anh là TEQ (Toxic EQuivalency). Tổng nồng độ TEQ của tất cả các chất độc là độ độc toàn phần của dioxin/furan/PCB. Độ độc của dioxin > Độ độc của furan > PCB Câu19: Chất độc CS là gì? CS là một chất độc kích thích đường hô hấp trên niêm mạc mắt và da rất mạnh do hai nhà khoa học Mỹ Corson B.B và Stoughton R.W sáng chế ra. CS tinh khiết là chất bột mịn, màu trắng ngà, không tan trong nước, tan trong các dung môi hữu cơ. Chất độc CS thuộc nhóm chất làm mất sức chiến đấu, nồng độ ngưỡng kích thích đối với người là 0,5 mg/m3. Ở nồng độ cao 25.000-M 50.000 mg/m3/phút, trong hầm, trong địa đạo có thể gây tử vong đối với người. Quân đội Mỹ đã sử dụng một lượng lớn chất CS ở Nam Việt Nam trong thời gian chiến tranh (9.000 tấn). Sau chiến tranh, ở một số địa phương vẫn còn tìm thấy một số bao, thùng CS và đã được các cơ quan chuyên môn xử lý. Tùy thuộc vào dạng sử dụng mà cs có các kí hiệu khác nhau như: CS, CS1 và CS2. Câu 20: Dioxin có phải là thành phần của chất da cam không? Dioxin không phải là thành phần của chất da cam. Chất da cam có chứa một lượng nhỏ dioxin là do trong quá trình sản xuất chất 2,4,5-T (chiếm 50% thành phần chất da cam) sinh ra tạp chất dioxin. Những năm 50 - 60 của thế kỉ 20, do công nghệ cũ nên trong một kg chất da cam sản xuất ra trung bình chứa 10 miligram (mg) dioxin. Vào những năm 70 và về sau, do cải tiến công nghệ sản xuất nên lượng tạp chất dioxin giảm đi đáng kể, xuống còn 0,1 mg trong một kg. Câu 21: Có thể nhận biết được dioxin trong chất da cam không? Có thể nhận biết được dioxin trong chất da cam, nhưng không phải bằng mắt thường, mà phải bằng phương pháp phân tích hiện đại trong các phòng thí nghiệm có thiết bị phân tích hiện đại và đội ngũ cán bộ khoa học chuyên môn cao. Phân tích dioxin là một công việc khó khăn, phức tạp với chi phí lớn. Việc phân tích dioxin trước năm 1995, chúng ta đều phải gửi ra nước ngoài với chi phí 1.000+1.500 USD cho một mẫu. Từ năm 1995 lại đây, trong nước đã có các phòng thí nghiệm phân tích dioxin với chi phí thấp hơn đáng kể so với gửi ra nước ngoài, chỉ khoảng từ 7+10 triệu đồng. Khác với chất da cam được sản xuất trong công nghiệp để sử dụng, dioxin không được sản xuất trong công nghiệp để sử dụng nên không có chuyện “hàng phi dioxin” như một số người lầm tưởng. Dioxin chỉ được điều chế một lượng rất nhỏ trong phòng thí nghiệm để nghiên cứu và làm chất chuẩn phân tích. Câu 22: Dioxin có ở đâu trên thế giới? Trên thế giới, ở đâu có sản xuất và sử dụng các chất diệt cỏ chứa Clo trong nông nghiệp, có tại nạn hóa học ở những nhà máy sản xuất các chất này, có lò đốt rác thải thành phố, rác thải công nghiệp, rác thải y tế,... là ở đó có dioxin. Song lượng dioxin thải ra môi trường ở những nơi đó thấp hơn rất nhiều lần so với lượng dioxin ở Nam Việt Nam do Mỹ phun rải. Gần 95.000 tấn chất diệt cỏ, trong đó có tới 63.000 tấn chất da cam và một số chất khác chứa 366 - 650 kg dioxin. Câu 23: Ở Nam Việt Nam, dioxin có trong chất da cam khác gì với dioxin ở các nơi trên thế giới? Chất da cam được quân đội Mỹ sử dụng vào mục đích chiến tranh, nên mật độ phun rải ở Nam Việt Nam trung bình là ~37 kg/ha, gấp 17 lần liều sử dụng trong nông nghiệp. Hơn nữa, chất da cam do quân đội Mỹ phun rải ở Nam Việt Nam có chứa một lượng không nhỏ đồng phân độc nhất của dioxin (TCDD). Qua nghiên cứu và phân tích cho thấy TCDD chiếm tỷ lệ rất cao: - Trong đất và trầm tích: 96-98% - Trong máu và sữa mẹ người bị nhiễm dioxin: 66% - Trong mô mỡ: 80 %. Tỷ lệ này ở các nước công nghiệp phát triển rất thấp: Trong đất: khoảng 11%, trong máu: 16%, trong sữa mẹ: 30%. Đây là một trong các chỉ số quan trọng để phân biệt dioxin từ nguồn chất da cam với dioxin từ nguồn khác. Câu 24: Dioxin có những tính chất gì? Dioxin là một chất rắn có các tính chất sau: - Có nhiệt độ nóng chảy và nhiệt độ sôi cao; - Có áp suất hơi rất thấp; - Hầu như không tan trong nước (kị nước), tan tốt trong mỡ (ái mỡ) và các dung môi hữu cơ khác; - Có độ bền nhiệt rất cao, chỉ bị phân hủy hoàn toàn ở nhiệt độ trên 1.200 °C; - Không bị axit đặc cũng như kiềm đặc phân hủy; - Có khả năng bám dính tốt trên bề mặt các vật thể. Câu 25: Dioxin tồn tại trong môi trường dưới dạng nào? Trong không khí: nồng độ dioxin rất thấp, nó bám vào các hạt bụi lơ lửng và di chuyển theo chiều gió, phát tán đi các nơi, nồng độ bị loãng dần. Trong nước: vì hầu như không tan trong nước, nên nồng độ dioxin trong nước rất thấp, trong nước dioxin bám vào các hạt đất, bùn lơ lửng hay bám trên bề mặt các bộ phận thực vật như rễ bèo, rễ rau muống nước, củ sen... Trong đất và trầm tích: dioxin bám rất chắc vào mùn hữu cơ có trong đất và trầm tích (thường gọi là bùn sông, ao, hồ, biển). Một đặc điểm rất quan trọng của dioxin là tích tụ nhiều vào các loài động vật sống dưới nước, nhất là cá. Nồng độ dioxin trong cá có thể gấp hàng trăm nghìn lần hoặc cao hơn nữa so với nồng độ dioxin trong môi trường sống của chúng. Câu 26: Dioxin có phải là một chất cực độc hay không? Đúng vậy, dioxin là một loại chất cực độc, với liều lượng rất thấp cỡ 14 - 37 phần tỷ miligam trên 1 kg thể trọng trong 1 ngày (24 giờ) đã gây tác hại đối với con người. Vì vậy, năm 1998, Tổ chức Y tế thế giới (WHO), với hệ số an toàn bằng 10, quy định liều phơi nhiễm cho phép là 1 - 4 phần tỷ miligam trên 1 kg thể trọng trong thời gian ngày (24 giờ). Ảnh hưởng của dioxin đối với con người phụ thuộc vào các yếu tố quan trọng sau: liều phơi nhiễm, thời gian phơi nhiễm, độ tuổi (trẻ con, bào thai là những đối tượng nhạy cảm nhất đối với dioxin), cơ địa của người bị phơi nhiễm, chế độ và khẩu phần ăn (chủ yếu là thực phẩm động vật). Liều gây ung thư gan đối với chuột là 210 phần tỷ miligam trên 1 kg thể trọng trong 1 ngày (24 giờ). Liều gây chết một nửa số động vật thí nghiệm (kí hiệu là LD50) đối với khỉ là 70 phần nghìn mg trên 1 kg thể trọng. Câu 27: Dioxin tồn tại trong môi trường, con người, động vật có lâu không? Dioxin tồn tại trong môi trường, con người và động vật rất lâu với thời gian rất khác nhau. Thời gian để suy giảm một nửa lượng dioxin bị nhiễm ban đầu (gọi là thời gian bán phân hủy, được ký hiệu là T1/2) trong các đối tượng như sau: Câu 28: Hiện nay ở các vùng bị phun rải các chất diệt cỏ trong chiến tranh có còn dioxin không? Có đáng lo ngại không? Mặc dù dioxin khá bền vững, nhưng do tác động của điều kiện khí hậu nhiệt đới ở nước ta (ánh sáng mặt trời, độ ẩm...), dioxin vẫn bị phân hủy dần theo thời gian. Song chủ yếu là do mưa lũ nhiều năm đã cuốn trôi dioxin có trong các chất diệt cỏ ra sông rồi ra biển, nên hiện nay hàm lượng dioxin ở những vùng bị phun rải các chất diệt cỏ còn rất thấp, dưới nồng độ nguy hiểm đối với môi trường. Do đó không còn đáng lo ngại về dioxin trong môi trường ở những vùng đó. Câu 29: Tại sao gọi là các “điểm nóng” về dioxin? Hiện tại có bao nhiêu “điểm nóng” ở Việt Nam ? Điểm nóng dioxin là các khu vực hoặc vùng địa lý mà đất bị nhiễm dioxin có hàm lượng vượt quá nhiều lần nồng độ cho phép trong đất hay trầm tích. Các nghiên cứu của Bộ Quốc phòng từ năm 1993 đến 2003 cho thấy: đã phát hiện được 3 điểm nóng dioxin là các vùng đất nằm trong các sân bay: sân bay Đà Nẵng thuộc thành phố Đà Nẵng, sân bay Biên Hòa thuộc tỉnh Đồng Nai và sân bay Phù Cát thuộc tỉnh Bình Định. Đây là các khu vực trước đây quân đội Mỹ sử dụng làm nơi tàng trữ các chất diệt cỏ, nạp chất diệt cỏ lên máy bay để đi phun rải, rửa máy bay sau khi đi phun rải về và chứa vỏ thùng các chất diệt cỏ. Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu những năm gần đây đã bổ sung thêm số liệu cho các điểm nóng này. Điểm nóng ở sân bay Đà Nẵng có diện tích đất khoảng 6 ha và diện tích hồ sen khoảng 7 ha. Điểm nóng ở sân bay Biên Hòa có diện tích đất khoảng 4 ha và diện tích các hồ khu vực sân bay khoảng 2 ha. Điểm nóng ở sân bay Phù Cát có diện tích đất khoảng 3.000m2. Câu 30: Các “điểm nóng”ở Việt Nam được xử lý như thế nào? Khi nào xong và có phải tiếp tục theo dõi, kiểm soát hay không? Từ năm 1993 đến nay, chúng ta đã tiến hành điều tra, xác định độ tồn lưu dioxin, mức độ và quy mô ô nhiễm dioxin, nghiên cứu ảnh hưởng của dioxin đến con người khu vực quanh điểm nóng, tiến hành một số biện pháp ngăn chặn sự lan tỏa của dioxin ra môi trường như: bê tông hóa khoảng 8.000 m2 bề mặt khu nhiễm gần đường băng của sân bay Đà Nắng, xây dựng các hệ thống cống lọc chất độc ở cả 3 điểm nóng, nghiên cứu lựa chọn công nghệ khả thi để xử lý đất nhiễm dioxin trong điều kiện Việt Nam. Từ năm 2007, Bộ Quốc phòng đã bắt đầu tiến hành xử lý đất nhiễm dioxin tại điểm nóng ở sân bay Biên Hòa bằng phương pháp chôn lấp triệt để. Đến năm 2009, việc xử lý sẽ kết thúc. Dự kiến đến năm 2010 sẽ cơ bản xử lý xong các điểm nóng trên. Sau khi xử lý xong vẫn phải tiếp tục theo dõi, kiểm soát để bảo đảm an toàn cho môi trường và con người sống quanh khu vực đó. Câu 31: Xử lý các "điểm nóng" có tốn kém không? Tuỳ theo công nghệ xử lý được áp dụng mà chi phí cho việc xử lý các điểm nóng cao hay thấp. Song, nói chung chi phí xử lý đất nhiễm dioxin là khá cao. Ước tính để xử lý xong các điểm nóng theo phương pháp chôn lấp triệt để, chúng ta cần khoảng 53 triệu USD, tức là khoảng 850 tỷ đồng Việt Nam. Câu 32: Ta có hợp tác quốc tế trong việc xử lý này không? Những năm qua ta đã kêu gọi hợp tác và sẵn sàng hợp tác với các nước, các tổ chức phi chính phủ tham gia vào việc nghiên cứu lựa chọn công nghệ khả thi để xử lý các điểm nóng về dioxin. Đã có một số nước và tổ chức tham gia hợp tác trong lĩnh vực này như: Cục Bảo vệ môi trường Mỹ, Chương trình Phát triển Liên hợp quốc UNDP, qũy Ford, công ty Hatfield (Canada), Cộng hòa Séc, Nhật Bản... Bước đầu, các tổ chức này tham gia vào công tác điều tra, khảo sát bổ sung đánh giá độ tồn lưu dioxin ở một số khu vực, hỗ trợ kinh phí để ta tiến hành một số biện pháp trước mắt nhằm hạn chế sự lan tỏa của dioxin ra môi trường ở sân bay Đà Nắng. Câu 33: Dioxin từ các "điểm nóng" có thể lan truyền ra các khu vực lân cận hay không? Lan truyền bằng đường nào? Có thể giảm thiểu sự lan truyền này không? Bằng cách nào? Dioxin từ các điểm nóng có thể lan truyền ra các khu vực lân cận. Sự lan truyền chủ yếu theo đường nước mưa bào mòn và cuốn trôi đất nhiễm dioxin ra ao hồ, sông suối và xa hơn nữa là ra biển. Ngoài ra dioxin còn có thể lan truyền trong không khí do gió cuốn bụi nhiễm dioxin từ vùng ô nhiễm. Có thể giảm thiểu sự lan truyền dioxin ra các khu vực lân cận bằng một số biện pháp như: che đậy bề mặt khu nhiễm bằng các vật liệu như bê tông, cát, đất sét, bentonit; xây dựng hệ thống cống lọc chứa than hoạt tính để hấp phụ chất độc và dioxin ngăn nước mưa từ khu nhiễm chảy ra môi trường. Câu 34: Khi được cảnh báo về những điểm nhiễm dioxin cao, những người sống quanh đó phải làm gì để hạn chế sự phơi nhiễm dioxin ? Để hạn chế sự phơi nhiễm dioxin khi được cảnh báo về những điểm có dioxin cao, những người sống quanh đó phải: - Tránh tiếp xúc trực tiếp với khu vực nhiễm; - Không nuôi, trồng trên đất và ao hồ tại khu nhiễm và vùng lân cận như: không nuôi cá, thả vịt tại các ao hồ ở khu nhiễm, không chăn thả trâu bò ăn cỏ trên khu đất nhiễm...; - Không ăn các con vật đánh bắt được tại khu nhiễm và vùng lân cận; - Nếu sử dụng nước sinh hoạt khai thác từ giếng đào hoặc giếng khoan thì phải lọc qua cát và than hoạt tính; - Định kỳ kiểm tra sức khỏe. II. ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT ĐỘC DA CAM/DIOXIN LÊN MÔI TRƯỜNG Câu 35: Chất độc da cam/dioxin ảnh hưởng tới đất nông nghiệp như thế nào? Chất độc da cam/dioxin ảnh hưởng trực tiếp đến đất nông nghiệp, làm cây chết ngay hay không thể phát triển được. Với hàm lượng cao vi sinh vật bị chết, số lượng các vi sinh vật đất giảm làm đất kém màu mỡ. Sự trao đổi chất của các cơ thể sinh vật sống trong đất giảm, năng suất cây trồng nông nghiệp kém hiệu quả. Câu 36: Có nên trồng cây nông nghiệp trận đất nhiễm dioxin không? Tại các vùng đất có độ tồn lưu dioxin trên ngưỡng 250 ppt thì không nên trồng cây nông nghiệp. Nếu trồng, cây có thể vẫn mọc và cho quả, nhưng khi canh tác, thu hoạch và chế biến, do sơ suất có thể dẫn đến tiếp tục phát tán dioxin gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Một số nước phát triển qui định ngưỡng dioxin cho đất sản xuất nông nghiệp là 250 ppt và phi nông nghiệp là 1.000 ppt. Nếu đất có độ tồn lưu dioxin dưới ngưỡng 250 ppt thì có thể sử dụng để sản xuất nông nghiệp. Câu 37: Dioxin tích tụ ở tầng nào của đất? Dioxin thường tích tụ ở tầng mặt của đất (từ 0 - 40 cm). Tuy nhiên, trên thực tế ở những “điểm nóng”, dioxin có thể di chuyển xuống tầng đất sâu hơn. ở vùng trũng và ao hồ, dioxin tích tụ ở tầng đáy và bám vào những rễ, mặt dưới lá cây thủy sinh. Câu 38: Dioxin có tồn lưu cao trong môi trường nước không? Hiện nay dioxin còn tồn tại trong môi trường nước ở các vùng bị rải chất độc da cam/dioxin không? Vì dioxin rất khó hòa tan trong nước nên không có tồn lưu dioxin cao trong môi trường nước. Nước suối trong rừng hiện nay ở các vùng bị rải trước kia có thể sử dụng được nếu xét theo khía cạnh nhiễm dioxin, tuy nhiên các chất khác và các yếu tố khác có thể làm nước không uống được. Câu 40: Khi phun rải xuống các vực nước, chất độc da cam/dioxin sẽ vận chuyển như thế nào? Khi phun rải vào các vực nước, chất độc da cam/dioxin sẽ vận chuyển theo quy luật chung sau đây: + Nếu là vực nước đứng, không chảy: chất độc sẽ lắng đọng xuống đáy tích tụ ở lớp bùn và các chất lơ lửng bám ở thực vật, lâu dài có thể sẽ theo dòng nước ngầm chảy ra sông suối rồi ra biển. + Nếu là nước chảy, chúng sẽ được vận chuyển cùng dòng nước, nhanh hay chậm tùy theo địa hình Câu 41: Vì sao Mỹ sử dụng chất độc da cam/dioxin để phá rừng trong chiến tranh ở Việt Nam? Vì rừng là căn cứ địa của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Trong cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam, quân đội Mỹ đã dùng chất độc da cam/dioxin nhằm phá rừng, tìm và diệt căn cứ cách mạng, ngăn chặn các cuộc hành quân của bộ đội và hủy hoại hoa màu. Từ năm 1961 đến 1971 rừng nội địa và rừng ngập mặn là đối tượng chính bị tác động nặng nề nhất. Trên 80% tổng số phi vụ rải chất độc da cam/dioxin của các chiến dịch được tiến hành trên lãnh thổ có rừng với tổng diện tích bị rải chất độc là 3,06 triệu ha trong đó: - Diện tích rừng nội địa là: 2,9 triệu ha; -Diện tích rừng ngập mặn là: 0,16 triệu ha. Câu 42: Chất độc da cam/dioxin đã ảnh hưởng tới rừng như thế nào? Chất độc da cam/dioxin đã để lại hậu quả tức thời và lâu dài đối với các hệ sinh thái rừng: Hậu quả tức thời: trên 3,060 triệu ha rừng bị tàn phá ở các mức độ khác nhau, làm mất đi 112 triệu m3 gỗ. Ngoài ra nhiều nguồn tài nguyên lâm sản khác như: cây thuốc, song mây, dầu nhựa, thú rừng bị tiêu diệt. Hậu quả lâu dài: Hệ sinh thái rừng bị thay đổi, đất rừng bị xói mòn. Cỏ tranh, tre nứa, cây bụi xâm lấn và thay thế cây rừng. Môi trường rừng xấu đi, gây trở ngại khó khăn cho rừng tái sinh phục hồi. Đặc biệt rừng phòng hộ đầu nguồn của 28 hệ sông bị tàn phá đã gây ra nhiều lũ lụt cho vùng hạ lưu. Câu 43: Những địa phương nào có rừng bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi chất độc da cam/dioxin? Trong chiến tranh chống Mỹ, hầu hết các tỉnh thành từ Quảng Trị tới Cà Mau bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam/dioxin với các mức độ khác nhau: +An Giang, Bà Rịa-Vũng Tàu, Kiên Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang bị rải dưới 10% diện tích. + Đắc Lắc, Lâm Đồng, Hậu Giang, Long An, Gia Lai, Quảng Nam, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Thuận Hải, Minh Hải, Cửu Long bị rải từ 10% - 20% diện tích. + Quảng Ngãi, Bến Tre, Phú Yên, Quảng Trị, Bình Định bị rải từ 20% - 30% diện tích. + Thừa Thiên-Huế, Tây Ninh bị rải từ 40% - 50% diện tích. + Bình Dương, Bình Phước, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai bị rải trên 50% diện tích. Rừng bị hủy hoại nhiều nhất thuộc các vùng sau: + Vĩ tuyến 17 tỉnh QuảngTrị. + Dọc biên giới Việt-Lào có đường mòn Hồ chí Minh từ Quảng Trị tới Kon Tum (Hương Hóa, A Lưới, Sa Thầy, DakLây,...). + Vùng Đông Nam bộ (Chiến khu C, chiến khu D, Bời Lời, Tam giác Sắt...). + Năm Căn - tỉnh Cà Mau. + Cần Giờ -thành phố Hồ Chí Minh. Câu 44. Nguyên tắc chọn loại cây trồng rừng trên vùng đất bị hủy hoại? Phù hợp với điều kiện khí hậu (để cây sống) và thích nghi với điều kiện lập địa đất đai (quyết định sức sinh trưởng hay năng suất cây trồng). Nguyên tắc này là cơ sở quan trọng nhất hình thành nên các kiểu rừng tự nhiên và cơ sở chọn cây trồng rừng. Ngoài ra chú ý tới loại cây rừng sinh trưởng nhanh, có khả năng cải tạo đất, sản phẩm đem lại lợi ích kinh tế cho người lao động, có nguồn giống và kỹ thuật không phức tạp. Đối tượng lựa chọn: là các loài cây gỗ để sau khi trồng sẽ tạo thành rừng. Mục tiêu lựa chọn: - Phục hồi sinh thái rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc tại các vùng do chiến tranh tàn phá trước đây. -Trồng rừng lấy gỗ, lâm sản ngoài gỗ. Với hai mục tiêu trên, chỉ tập trung vào những cây thân gỗ trồng thành quần thể rừng (có chiều cao >5m, có khả năng hình thành tầng tán...) nhằm từng bước phục hồi tiểu khí hậu, đất đai và các quần thể sinh vật (thực vật, động vật, vi sinh vật...). Câu 45. Chi phí cho công tác trồng rừng trên vùng bị rải chất độc? Chi phí trồng rừng cho 1 ha (trồng năm 2002). Nếu trồng rừng thâm canh có bón phân trên 10 triệu đồng/ha. Mô hình: Keo lá tràm. Mật độ trồng: 2000 cây/ha 5-7 triệu đồng/ha. Trồng cây bản địa khoảng 13-15 triệu đồng/ha. Chi phí cho công tác trồng rừng trên vùng bị rải chất độc hóa học phụ thuộc vào mục đích trồng rừng, điều kiện tự nhiên, loài cây trồng và kỹ thuật trồng và thời giá. Câu 46. Trồng rừng trên vùng bị rải CĐHH gặp khó khăn gì? Hiện trường rộng, còn nhiều tàn dư của chiến tranh như bom, đạn chưa nổ, các hóa chất độc... do đó xử lý thực bì khó khăn ảnh hưởng tới sức khỏe của người lao động. Ngoài ra việc lựa chọn loài cây trồng phù hợp cũng gặp khá nhiều khó khăn. Câu 47. Phục hồi rừng sau chiến tranh hóa học bằng cách nào? Rừng có tự phục hồi được không? Có 2 con đường phục hồi rừng sau chiến tranh hóa học: - Phục hồi rừng tự nhiên: nhằm lợi dụng cây tái sinh tự nhiên có sẵn trong rừng, chăm sóc nuôi dưỡng dần dần lớn lên góp phần phục hồi rừng. Phương thức này chỉ áp dụng ở nơi bị ảnh hưởng nhẹ của chất độc hóa học, còn có tán rừng, có cây mẹ. Tuy nhiên đòi hỏi thời gian dài nhưng ít tốn kém. - Phục hồi rừng nhân tạo: Trồng lại rừng là cách phục hồi nhanh nhất áp dụng chủ yếu những nơi bị rải nặng nề, hiện trạng có ưu thế là cỏ Mỹ, cỏ tranh, lau chít, chè vè, không có cây gỗ tái sinh, khả năng tự phục hồi rất khó khăn. Đòi hỏi đầu tư kinh phí và công sức lớn. Câu 48: Chất độc nào đã làm cây chết trong chiến tranh hóa học? Chất độc da cam/dioxin sử dụng trong trong chiến dịch Ranch Hand và trong suốt cuộc chiến tranh tại miền Nam bản chất là 2,4,5-T và 2,4-D có tác dụng làm rụng lá được sử dụng với nồng độ cao gấp hàng chục lần liều sử dụng để diệt cỏ trong nông nghiệp. Hơn thế nữa, các chất này được rải đi rải lại nhiều lần theo các chu kỳ đã được nghiên cứu rất kỹ đã làm cho đa số cây trong rừng ở các tầng khác nhau bị rụng lá hoàn toàn. Kết quả là cây không còn khả năng trao đổi chất và chết. Các loại bom, đạn, bom napan cùng với chất độc hóa học tiếp tục tàn phá rừng, tạo nên cháy rừng và môi trường rừng hoàn toàn bị thay đổi. Câu 49: Những loài cây nào sống sót được sau chiến tranh hóa học? Hàng trăm loài cây rừng bị chết sau chiến tranh hóa học bao gồm các đại diện chính sau: cây Đước (Rhizophora apiculata), Vẹt đen (Bruguiera sexangula), Bần chua (Sonneratia caseolaris)... của rừng ngập mặn. Một số loài trong rừng nội địa như sến mủ (Shorea cochinchinensis), Chai (Shorea thorelii), Kiền kiền (Hopea pierrei), Thông nàng (Podocarpus imbricatus). Chỉ có một số ít loài cây có khả năng chống chịu được với chất độc điển hình như: cây Kơnia (Irvingia malayana), cây Cám (Parinari annamensis)... Câu 50: Bao nhiêu diện tích rừng ngập mặn đã bị rải chất độc da cam/dioxin ? Diện tích rừng ngập mặn ở Nam bộ bị rải là 160.000 ha, trong đó có 36.000 ha ở khu Rừng Sát (Đông Nam bộ), 50.000 ha ở Đồng bằng sông Cửu Long và Cà Mau là 74.000 ha. Câu 51: Ở những địa phương nào, rừng ngập mặn bị ành hưởng nặng nề nhất? Hai vùng bị rải chất độc da cam/dioxin bị ảnh hưởng nặng nề nhất là: khu Rừng Sát và mũi Cà Mau. Quân đội Mỹ đã tiến hành 299 lần rải với 927.116 ga lông (1 ga lông = 3,78 lít) chất độc da cam/dioxin lên khu Rừng Sát. Từ năm 1966 đến 1970, rừng ngập mặn ở Cà Mau đã bị rải 669.548 ga lông chất độc dacam/dioxin. Câu 52: Bao nhiêu gỗ của rừng ngập mặn bị thiệt hại tức thời do chất độc da cam/dioxin gây ra? Rừng ngập mặn có nhiều loài cây cho gỗ tốt như: đước, vẹt, cóc. Số lượng gỗ bị thiệt hại tức thời là 21.958.506 m3 gỗ tốt, trong đó khu vực Rừng Sát bị mất 1.979.639 m3, rừng ngập mặn Cà Mau mất 19.978.867m3. Số gỗ kém giá trị hơn tập trung ở khu Rừng Sát thuộc Cần Giờ bị mất là 88.935 m3 và Đồng bằng sông Cửu Long là 2.420.040 m3. Câu 53: Những loài cây nào trong rừng ngập mặn sống sót sau chiến tranh hóa học? Vùng rừng ngập mặn sau khi bị rải 2 lần trở lên thì tất cả các loài cây đều bị rụng lá. Sau một thời gian thì loài giá tái sinh, đặc biệt cây chà là tái sinh mạnh bằng chồi gốc, cây mắm trắng cũng có thể tái sinh tự nhiên, còn các loài cây khác đều bị chết. Câu 54: Chất độc da cam/dioxin tác động đến rừng ngập mặn như thế nào? Rừng ngập mặn là một trong những rừng bị thiệt hại nặng nề nhất do tác động của chất độc da cam/dioxin. Khi mất rừng, đất bị biến thành đất chua mặn không có loại cây trồng nào có thể sống được; các động vật ở nước, đặc biệt là các loài hải sản giảm mạnh vì mất nơi sinh sống, nơi nuôi dưỡng Câu 55: Những loài cây ngập mặn nào nhạy cảm với chất độc da cam/dioxin? Trong số cây ngập mặn có các loài bần như bần chua, bần trắng, bần ổi là những loài cây nhạy cảm nhất đối với chất độc da cam/dioxin. Cây bần héo lá rồi rụng. Các loài cây ngập mặn đều chết sau từ 2 đến 4 lần bị rải chất độc da cam/dioxin. Câu 56: Có nên sử dụng các sản phẩm của rừng bị nhiễm độc không? Sử dụng các sản phẩm từ rừng bị rải chất độc cần được chú ý làm sạch và bóc vỏ. Vì thành phần của chất độc hóa học chủ yếu là 2,4,5-T và 2,4-D chứa 2,3,7,8-TCCD và 1,2,3,7,8-PeCDD và một số chất chứa vòng thơm khác tồn tại trong môi trường, thời gian bán hủy rất khác nhau từ vài tháng đến hàng trăm năm. Tuy nhiên hầu như cây cối không hấp thụ các chất trên. Chỉ có rất ít cây thuộc họ bầu bí có khả năng hấp thụ dioxin và các chất tương tự dioxin, tích tụ tại ngọn của cây. Dioxin có thể cùng với đất mùn đeo bám vào rễ, vỏ ngoài của của các loại củ. Câu 57: Những loài cây gỗ nào có khả năng trồng lại ở những vùng bị rải chất độc da cam/dioxin ? Các loài cây để trồng lại rừng rất đa dạng. Hiện tại, tùy điều kiện tự nhiên của từng vùng bị rải chất độc da cam/dioxin nhân dân đã chọn lựa trồng lại các loài như sau: Thông 3 lá (Pinus khasya),Thông 2 lá (Pinus merkusiana), Keo lai (Acacia hybrid), Keo tai tượng (Acacia mangium), Bạch đàn trắng (Eucaluptus camaldulensis), Dầu rái (Dipterocarpus alatus), Dầu song nàng (D.dyeri), cây Quế (Cinnamomum cassia), cây Đước (Rhizophora apiculata), cây Cao su, cây Điều. Câu 58: Dioxin có gây hại đối với thực vật không? Vì sao? Dioxin không phải là một độc tố đối với thực vật nên không thấy tài liệu khoa học nào nói về tác hại của dioxin đối với thực vật. Đại bộ phận thực vật không hút dioxin trong đất để chuyển lên cây, lá và quả vì thực tể dioxin không tan trong nước lại bám rất chắc vào mùn hữu cơ trong đất. Ngoại trừ các cây họ bầu bí có thể hút được dioxin trong đất và chỉ tích tụ ở ngọn. Cây chết do lá bị rụng bởi 2,4,5-T và 2,4-D Câu 59: Chất độc da cam/dioxin có ảnh hường tới động vật hoang dã không? Có. Vì chất độc này đã làm hủy hoại hầu như hoàn toàn thảm thực vật rừng, cấu trúc rừng bị phá vỡ, môi trường rừng hoàn toàn thay đổi. Môi trường sống của các loài động vật hoang dã không còn, chúng không thể sống, tồn tại và phát triển. Nguồn nước bị nhiễm chất độc da cam/dioxin khiến các loài cá, tôm cua, ếch nhái, thú rừng uống nước nhiễm độc cũng bị chết. Chất độc da cam/dioxin đã phá vỡ từng mắt xích thức ăn trong chuỗi dinh dưỡng của động vật ở những nơi nồng độ thấp, phá hủy hoàn toàn chuỗi thức ăn ở những nơi có nồng độ cao. Chính sự phá vỡ ấy làm ảnh hưởng gián tiếp đến cấu trúc thành phần loài và số lượng cá thể cùa các loài động vật. Câu 60: Tại sao cũng không thấy các loài thú lớn, thú linh trưởng xuất hiện khi chất độc da cam/dioxin không còn tồn lưu trong rừng? Các chất độc da cam/dioxin hiện nay không còn ở mức nguy hiểm. Tuy nhiên, ở những vùng bị ảnh hưởng nặng nề của chất độc da cam/dioxin, các loài động vật cỡ lớn như bò tót, nai, hổ, báo, vượn, khỉ... rất ít gặp. Hiện nay tại các vùng này chỉ gặp các loài thú nhỏ có tuổi thọ thấp như các loài chuột, chồn... Một số động vật hoang dã không thể tồn tại và phát triển trong khu vực bị rải chất độc da cam/dioxin vì các vùng này trở nên hoang tàn, hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới đã hoàn toàn biến mất, nơi sống thích hợp cho các loài này không còn nữa. Vẫn nói trước kia là rừng rậm thì nay biến thành hệ sinh thái cây bụi như chít (Thysanolaena), chè vè (Miscantus gaponica), lau sậy (Shaccarum), sim, mua (Melastoma), cỏ tranh (Imperata Cylindrica), cỏ Mỹ (Pennisetum polystachyon). Sự hồi phục lại thảm rừng như trước đây đòi hỏi thời gian khá dài vì lớp đất bề mặt đã bị xói mòn rửa trôi, đất đai khô cằn, nguồn giống cũng không còn. Vì vậy sự xuất hiện trở lại của các loài thú lớn, chim thuộc diện quý hiếm là rất ít. Câu 61: Tại khu rừng vùng Mã Đà - thuộc tỉnh Đồng Nai cho đến nay vẫn không thấy xuất hiện các loài động vật thuộc diện quý hiếm có giá trị kinh tế cao, có phải do ảnh hưởng của chất độc da cam/dioxin không? Đúng vậy, tại các khu vực này đã từng có sự hiện hữu các loài động vật thuộc diện quý hiếm, có giá trị kinh tế cao như: Bò tót (Bos gaurus), Bò rừng (Bos banteng), Trâu rừng (Bubalus bubalis), Nai (Cervus unicolor), Hổ (Panthera tigrís), Báo hoa mai (Pauthera pardus), Gấu ngựa (Ursus thibetanus), Vượn (Nomasus gabrielae), Vọc, Khỉ, Công (Pavomuticus), Gà tiền mặt đỏ (Polylectron germani), Trĩ sao (Rheinartia ocellata). Các loài Trăn, Rắn, Rùa, Tắc kè... Sau 36 năm rừng bị rải chất độc da cam/dioxin không thấy xuất hiện ở các khu vực đã bị ảnh hưởng chất độc da cam/dioxin nặng nề như rừng Mã Đà - Đồng Nai... không thấy xuất hiện các loài thú, chim nói trên. Trước kia tại đây đã có 55 loài thú, thuộc 22 họ, 40 giống, nằm trong 8 bộ và đến nay chỉ còn lại 31 loài thú, thuộc 22 giống, 20 họ. Như vậy, do chất độc da cam/dioxin, rừng Mã Đà mất đi 18 giống tức là đã giảm 50% số giống thú, mất đi 24 loài giảm 56,3% loài, và giảm 2 họ (9%). Những giống loài thường gặp hiện nay đều thuộc nhóm động vật phổ biến. Câu 62: Có phải do ảnh hưởng của chất độc da cam/dioxin mà tại thung lũng Asor, A Lưới tỉnh Thừa Thiên-Huế cho đến nay vẫn vắng bóng loài thú lớn? Thừa Thiên-Huế liền kề biên giới Việt-Lào, là nơi được đánh giá có sự đa dạng sinh học cao. Đặc biệt đối với các loài chim và thú rừng có giá trị kinh tế thuộc diện qúy hiếm, có tới 50 loài thú chưa kể bộ Dơi (Chiroptera). Hơn 40 mươi năm sau khi chất độc da cam/dioxin được rải xuống vùng này nhân dân không còn gặp bất cứ loài thú lớn nào. Câu 63: Khi trong rừng không còn các loài thú linh trưởng (khỉ, voọc, vượn, các loài sóc), các loài chim thì việc tái sinh rừng tự nhiên cũng bị ảnh hưởng? Tại sao? Các cây rừng và các loài động vật sinh sống trong rừng có mối quan hệ qua lại hết sức chặt chẽ và phức tạp, tạo nên sự cân bằng của hệ sinh thái rừng. Cây rừng là nguồn thức ăn, là nơi trú ẩn của các loài động vật, ngược lại các loài cây rừng để phát triển một cách thuận lợi cần có các loài động vật. Các loài côn trùng, nhiều loài chim giúp cây rừng thụ phấn hoa; nhiều loài chim, sóc, chồn, khỉ phát tán hạt cây rừng. Động vật đào bới làm xốp đất, cung cấp nguồn phân bón quan trọng cho cây... Chất độc da cam/dioxin đã giết chết cây rừng, các động vật rừng bị mất nơi cư trú và nguồn thức ăn đã chết hoặc di chuyển đi đến nơi khác. Như đã nói ở trên, động vật có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của các loài thực vật. Muốn phục hồi rừng đã bị chất độc da cam/dioxin phá hủy thì phải bảo vệ các động vật còn lại trong rừng. Câu 64: Tại sao trong các khu rừng bị rải chất độc da cam/dioxin, các loài thú như nai, bò rừng, hoẵng, lợn rừng bị biến mất thì các loài thú ăn thịt lớn như hổ, báo cũng vắng bóng? Các loài thú như nai, hoẵng, lợn rừng là thức ăn chính của các loài thú ăn thịt lớn như hổ, báo. Chất độc da cam/dioxin đã làm suy giảm số lượng các loài thú ăn thịt lớn nguyên nhân là do các động vật là con mồi đã bị tuyệt chủng hoặc tồn tại với số lượng rất thấp không đủ cung cấp thức ăn cho chúng sinh sôi và phát triển. Điều này đã từng xảy ra ở những vùng bị ảnh hưởng nặng nề của chất độc da cam/dioxin như: vùng Mã Đà (Đồng Nai), đồi Sặc Ly (Kon Turn), A Lưới (Thừa Thiên-Huế). Điều đó thể hiện mối quan hệ giữa các chuỗi dinh dưỡng tự nhiên trong các hệ sinh thái. Câu 65: Theo Chính quyền Mỹ thì chất độc da cam/dioxin chỉ là chất diệt cỏ, tại sao các quần thể động vật hoang dã lại bị chết? Rừng là nơi sinh sống và cung cấp thức ăn cho tất cả các loài động vật trong rừng. Rừng càng phong phú thì các loài động vật càng nhiều, khi rừng bị suy thoái bởi chất độc da cam/dioxin thì động vật càng nghèo đi. Mức độ suy thoái càng cao thì số loài động vật càng ít. Thực chất chất độc da cam/dioxin không chỉ đơn thuần là chất diệt cỏ mà là chất độc hóa học hủy diệt hệ thực vật của rừng, mà thực vật lại là thức ăn cho nhiều loài động vật. Câu 66: Dioxin có tồn lưu trong động vật ờ những nơi bị nhiễm chất độc da cam/dioxin không? Như đã đề cập ở trên, động vật ăn các thức ăn có nhiễm dioxin sẽ không chết do hàm lượng nhỏ, nhưng nếu cứ ăn liên tục và nguồn nhiễm vẫn còn thì dioxin sẽ được tích tụ ngày càng nhiều ở mô mỡ của động vật. Hiện nay các nhà khoa học đã phát hiện dioxin tồn tại trên mức cho phép trong mỡ của cá, rùa, lươn... ở những nơi bị nhiễm ô nhiễm nặng chất độc da cam/dioxin (đặc biệt ở các các điểm nóng như ở ĐàNẳng, Biên Hòa, ASo). Câu 67: Vi sinh vật và nấm có bị ảnh hưởng bởi chật độc da cam/dioxin không? Vi sinh vật, trong đó có nấm bị ảnh hưởng do tiếp xúc trực tiếp với chất độc da cam/dioxin. Các cơ thể vi sinh vật và nấm tuy dễ thích nghi với sự thay đổi của điều kiện sống hơn các cơ thể bậc cao, nhưng khi lượng chất độc da cam/dioxin trong đất lớn thì đa số vi sinh vật và nấm đều bị chết, số còn lại thích nghi dần và có loài đã bị đột biến, nếu chúng sử dụng được nguồn đường hay các nguồn cacbon khác có trong môi trường để sinh trưởng và phát triển thì chúng lại có khả năng phân hủy các chất độc. Tuy nhiên chất độc da cam/dioxin đã làm giảm số lượng vi sinh vật đất, giảm sự đa dạng về chủng loài. Nấm bị ảnh hưởng nhiều hơn so với vi khuẩn vì chúng là cơ thể đa bào. Câu 68: Vi sinh vật đóng vai trò như thế nào đối vời hệ sinh thái bị rải chất độc da cam/dioxin ? Vi sinh vật đóng vai trò rất quan trọng trong hệ sinh thái, số lượng và thành phần loài của chúng là chỉ thị cho sự màu mỡ và độ phì nhiêu của đất. Khi chất độc da cam/dioxin tiếp xúc với vi sinh vật đất và bùn đã làm số lượng vi sinh vật giảm rất lớn, thay đổi thành phần loài kéo theo sự thay đổi sinh thái rừng. Câu 69: Trong c&aa...
Là nhớ về những kỉ niệm đã trải qua