K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

31 tháng 10 2023

+ đời sống kinh tế:Biết mài đá để tạo ra công cụ sắc bén hơn, biết chế tạo công cung tên, làm đồ gốm, dệt vải và trồng trọt, chăn nuôi; biết dựng lều bằng cành cây hoặc xương thú để ở

+đời sống tinh thần:Làm đồ trang sức như vòng cổ, vòng tay, hoa tay bằng đá, làm tượng bằng đá bằng đất nung, vẽ tranh trên vách đá,…

Đã có tục chon người chết và đời sống tâm linh

+ Tổ chức xã hội: Sống quần tụ trong các thị tộc gồm 2, 3 thế hệ có cùng dòng máu, làm chung, hưởng chung. Nhiều thị tộc họ hàng sống cạnh tranh tạo thành bộ lạc


 

 

 

 

31 tháng 10 2023

 

Người tinh khôn, hay còn được gọi là người Neanderthal, là một loài người tiền sử đã tồn tại từ khoảng 400.000 đến 40.000 năm trước đây. Đời sống vật chất, tinh thần và tổ chức xã hội của người tinh khôn có thể được mô tả như sau:

1. Đời sống vật chất: Người tinh khôn sống trong môi trường tự nhiên và phụ thuộc vào việc săn bắt và thu thập thực phẩm. Họ là những thợ săn và thu thập, chủ yếu săn bắt động vật hoang dã như hươu, bò rừng và cá sông. Họ cũng thu thập các loại cây cỏ, quả và hạt để làm thức ăn. Người tinh khôn sử dụng công cụ đá để chế tạo các dụng cụ săn bắt và công cụ khác như dao, rìu và đục.

2. Đời sống tinh thần: Người tinh khôn có khả năng sáng tạo và sử dụng ngôn ngữ. Họ đã sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và truyền đạt kiến thức và kỹ năng cho thế hệ sau. Họ cũng đã phát triển nghệ thuật và tạo ra các tác phẩm nghệ thuật như điêu khắc và vẽ tranh trên các bức tường hang động. Điều này cho thấy họ có khả năng tưởng tượng và có ý thức về thế giới xung quanh.

3. Tổ chức xã hội: Người tinh khôn sống thành các nhóm nhỏ, thường là gia đình mở rộng hoặc bộ tộc. Họ sống trong các hang động hoặc các căn nhà làm bằng cây cỏ và da thú. Trong gia đình, vai trò phụ nữ là quan trọng trong việc chăm sóc con cái và thu thập thực phẩm, trong khi nam giới tham gia vào săn bắt và bảo vệ gia đình. Họ có thể đã có một hệ thống xã hội phân cấp dựa trên sự chia sẻ kiến thức và kỹ năng.

31 tháng 12 2022

D

19 tháng 12 2023

+Đời sống vật chất: 

- Biết ghè đẽo đá để làm công cụ.

- Biết giữ lửa và tạo ra lửa.

- Lấy săn bắt và hái lượm làm nguồn sống chính.

- Sống trong các hang động, mái đá.

+ Đời sống tinh thần

- Làm đồ trang sức.

- Vẽ tranh trên vách đá.

+ Tổ chức xã hội

- Sống thành từng bầy.

- Trong mỗi bầy đã có người đứng đầu, có sự phân công lao động.

19 tháng 12 2023

+Đời sống vật chất: 

- Biết ghè đẽo đá để làm công cụ.

- Biết giữ lửa và tạo ra lửa.

- Lấy săn bắt và hái lượm làm nguồn sống chính.

- Sống trong các hang động, mái đá.

+ Đời sống tinh thần

- Làm đồ trang sức.

31 tháng 10 2023

+Đời sống vật chất: 

- Biết ghè đẽo đá để làm công cụ.

- Biết giữ lửa và tạo ra lửa.

- Lấy săn bắt và hái lượm làm nguồn sống chính.

- Sống trong các hang động, mái đá.

+ Đời sống tinh thần

- Làm đồ trang sức.

- Vẽ tranh trên vách đá.

+ Tổ chức xã hội

- Sống thành từng bầy.

- Trong mỗi bầy đã có người đứng đầu, có sự phân công lao động.

31 tháng 10 2023

 

Đời sống vật chât: Đời sống vật chất của người tối cổ được dựa trên hoạt động săn bắt, thu thập và hái lượm. Họ sống theo cách tự cung tự cấp, tìm kiếm thức ăn từ môi trường xung quanh.  Người tối cổ chủ yếu sống trong hang động hoặc các căn hầm tự nhiên để bảo vệ khỏi thời tiết khắc nghiệt và động vật săn mồi. Đời sống tinh thần: Đời sống tinh thần của người tối cổ chủ yếu xoay quanh việc tìm hiểu và thích nghi với môi trường xung quanh. Họ phát triển các kỹ năng sống và công cụ đơn giản để giúp họ săn bắt và thu thập thức ăn. 

Tổ chức xã hội: Tổ chức xã hội của người tối cổ dựa trên hình thức gia đình mở rộng, với một nhóm người sống chung trong cùng một khu vực. Họ thường sống thành các nhóm nhỏ, có thể là gia đình mở rộng hoặc nhóm bạn bè gần gũi. Các thành viên trong nhóm thường chia sẻ công việc và trách nhiệm hàng ngày để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nhóm.

 

14 tháng 5 2022

Vì kết thúc hơn 1000 năm Bắc thuộc, mở ra thời kì độc lập tự chủ lâu dài của dân tộc ( cô mình chữa đề cương như vậy )

Vì đó là chiến thắng lịch sử vẻ vang của dân tộc ta: kết thức 1000 năm đô hộ của phong kiến phương Bắc, mở ra một thời kì độc lập lâu dài cho dân tộc ta.

1 tháng 11 2023

+ đời sống kinh tế:Biết mài đá để tạo ra công cụ sắc bén hơn, biết chế tạo công cung tên, làm đồ gốm, dệt vải và trồng trọt, chăn nuôi; biết dựng lều bằng cành cây hoặc xương thú để ở

+đời sống tinh thần:Làm đồ trang sức như vòng cổ, vòng tay, hoa tay bằng đá, làm tượng bằng đá bằng đất nung, vẽ tranh trên vách đá,…

Đã có tục chon người chết và đời sống tâm linh

+ Tổ chức xã hội: Sống quần tụ trong các thị tộc gồm 2, 3 thế hệ có cùng dòng máu, làm chung, hưởng chung. Nhiều thị tộc họ hàng sống cạnh tranh tạo thành bộ lạc

25 tháng 4 2023

1/ Khúc Thừa Dụ, Dương Đình Nghệ và Ngô Quyền đã có công lao to lớn đối với lịch sử dân tộc:

  • Có công lao to lớn trong việc giành được quyền độc lập, tự chủ cho dân tộc, chấm dứt ách thống trị hơn 1000 năm của bọn phong kiến thống trị phương Bắc.
  • Các trận chiến của Khúc Thừa Dụ, Dương Đình Nghệ tạo tiền đề vững chắc cho tướng Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán lần hai, mở đầu nền độc lập cho dân tộc.

2/ Ngô Quyền chọn sông Bạch Đằng làm trận địa chống quân Nam Hán vì: 

- Do vị trí địa lý của sông Bạch Đằng: Sông Bạch Đằng nằm ở phía Đông Bắc nước ta. Đây là con đường biển ngắn nhất từ phía đông nam trung quốc tiến xuống nước ta. Do đó nhà Nam Hán đã lựa chọn con đường này

- Do đặc điểm tự nhiên của sông Bạch Đằng:

  • Sông Bạch Đằng có tên nôm là sông Rừng vì hai bên bờ là rừng rậm => thuận lợi cho việc đặt phục binh mai phục
  • Sông có hải lưu thấp, độ dốc không lớn nên chịu ảnh hưởng mạnh của thủy triều. Mực nước sông lúc triều lên xuống chênh lệch nhau đến 3m => thuận lợi để xây dựng trận địa cọc ngầm

3/

+ Viết (khoảng 7-10 câu) về một nhân vật lịch sử trong thế kỉ X mà em yêu thích nhất và chia sẻ với bạn: 

Ngô Quyền sinh năm 898, mất năm 944, là người Đường Lâm (nay là Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội). Ngô Quyền với chiến thắng Bạch Đằng năm 938 mở ra trang sử chói lọi của dân tộc, vĩnh viễn chấm dứt ách đô hộ của phong kiến phương Bắc. Đất nước giành được độc lập, tự chủ. Sau trận đại thắng lừng danh kim cổ trên sông Bạch Đằng, đập tan quân Nam Hán xâm lược, Ngô Quyền lên ngôi vua, mở ra thời kỳ trung hưng rực rỡ của dân tộc. Bởi vậy, Ngô Quyền được giới sử gia tôn vinh là “vua đứng đầu các vua”, hay là “vị tổ trung hưng” của nước Việt. Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền lên ngôi, xưng là Ngô Vương, đóng đô ở Cổ Loa, mở ra thời kỳ độc lập, tự chủ cho nước Việt ta. Hiện nay, để tưởng nhớ công lao của ông, nhiều ngôi trường, con đường được đặt theo tên ông.

Cuộc cải cách đầu tiên trong lịch sử Việt Nam được tiến hành vào năm 907 do Tiết độ sứ Giao Châu - Khúc Hạo thực hiện. Ông chính là nhà cải cách đầu tiên trong lịch sử thiết lập được sự quản lý của mình tới tận làng xã, điều mà các triều đại đô hộ phương Bắc không thể làm được. So với chính quyền cũ, cuộc cải cách của Khúc Hạo đã tạo ra cho xã hội Việt Nam thời bấy giờ những điểm mới. Cải cách triển khai trên các mặt về hành chính, thuế, hộ tịch, hộ khẩu, đã đem lại những thay đổi tích cực cho xã hội.  Cụ thể về cơ cấu tổ chức nhà nước Khúc Hạo chia cả nước thành 5 cấp hành chính bao gồm: lộ, phủ, châu, giáp, xã; đổi hương thành giáp. Ở giáp và xã lần đầu tiên được đặt ra chức quan quản lý bao gồm Quản giáp và Phó tri giáp (cấp giáp); Chánh lệnh trưởng và Tá lệnh trưởng (cấp xã), cả nước dưới thời Khúc Hạo có 314 giáp, mỗi giáp gồm khoảng 10 xã. Mục đích của việc phân chia là để quản lý và thực thi các chính sách về kinh tế, văn hóa, xã hội do cải cách ban hành. Bên cạnh định lại mức thuế cho công bằng chính quyền Khúc Hạo còn ban hành một số chính sách tích cực như định ra “hộ tịch”, “lập lại hộ khẩu, kê rõ họ tên, quê quán”, “Tha bỏ lực dịch”. Những chính sách trên nhằm nắm vững dân số, thấu hiểu dân tình hơn đồng thời tạo điều kiện cho nhân dân có cuộc sống ổn định. Cuộc cải cách đã có tác động tích cực, điều đó được nói vắn tắt trong 4 chữ: “khoan, giản, an, lạc” mà trong sử ta chép rõ là: “Chính sự cốt chuộng khoan dung giản dị. Nhân dân đều được yên vui”.