Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Ai sinh ra trên đời cũng muốn mình đc may mắn đc sống hạnh phúc và khoẻ mạnh trong một máy ấm gia đình.Nhưng ta nào có thể chọn cho mình 1 cách sống hoàn hảo cuộc sống ấy chăng. Vì vậy ắt hẳn cuộc sống sẽ có nhưng mãnh đời khác nhau bởi nó muôn hình vạn trạng. Thế nên ngay trên dãy đất hình chữ S bjết bao cảnh đời : ‘ mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh” và ko ít những con người ko chịu đầu hàng trước số phận. Họ bjết vươn lên, nhìn đời bằng 1 màu hồng vì hoc “ tàn “ nhưng ko “phế”.Con người vượt wa số phận đó là những con người có ý chí vượt lên mọi hoàn cảnh khó khăn gian khổ chẳng hạn như Nguyễn Ngọc Kí. Câu chuyện của của cậu bé viết bằng chân làm chúng ta cảm động : “ khi tôi lên 4 tuổi bị bại liệt cả hai tay, hai tay buông thỏng như hai sợi dây đeo bên vai.Tôi nhớ mẹ thường bổ cau rồi sắp vào mẹt thành những hình tròn dồng tâm rất đẹp để phơi, vừa chăm chú ngồi xem mẹ làm, tôi vừa bí mật dùng chân xếp thử vào mẹt thành những hình tròn. Khi mẹt cau xếp gần xong thì bất ngờ chân trái của tôi làm nghiêng mẹt cau...” đôi chân ấy trở thành 1 đôi tay làm mọi việc nào là vệ sinh cho mình và viết chữ. Anh đã nghiễm nhiên ngồi ở giảng đường đại học và trở thành một nhà giáo ưu tú. Còn em Nguyễn Minh Tú gương mặt điển hình của thế hệ trẻ hôm nay trong đại hội cháu ngoan bác Hồ toàn quốc diễn ra tại Hà Nội. Cha mẹ em bị nhiễm chất độc màu da cam. Em sinh ra trong một gia đình nghèo khó với nghề làm nông, bản thân bị mất hai tay ngay từ khi mới cất tiếng khóc chào đời nhưng em vẫn đến lớp nghe cô giáo giảng bài và em đã hoà nhập vào cộng đồng.Họ là những con người ko chịu thua số phận, ý thức của họ về bản thân và ước mơ sống tốt đẹp có ích. Thành công đến với chúng ta là những con đưòng ngắn trơn tru nhưng với những con người ấy sẽ dài và khó khăn hơn nhiều. Ông cha ta thường nói : “ có công mài sắt có ngày nên kim” thế nên ai có thể thay thế đc chính bản thân họ để đạt dc mục đích ấy? Nguyễn Ngọc Kí, Nguyễn Minh Tú... họ ko mặc cảm tự ti mà họ sống như “ thép đã tôi thế đấy” của Leptôn xtôi có viết :“hãy sống sao cho đến khi nhắm mắt xuôi tay ko phải hối hận về những năm tháng đã sống hoài sống phí”. Thời gian sẽ sàng lọc ta sẽ thấy dc sự bền bĩ phi thường của những con người và ý chí kiên định của họ, khác vọng của họ là những điều đẹp đẽ nhất.Chúng ta cần phải đọng viên cảm thông, tôn trọng và tôn vinh họ, sẽ chia và tạo điều kiện để họ có thể phát huy khả năng của mình đẻ họ có thể nhìn đời bằng một màu hồng tươi đẹp.Ở đời chẳng ai muốn những người xung quanh ta đau khổ và cũng chẳng muốn ta đau khổ. Tuy nhiên khi lâm vào tình cảnh khó khăn thi phải biết chấp nhận và chống lại số phận. Một xã hội tốt đẹp thì cần những người công dân tốt đẹp. Thế nên cần phải sống tốt mà sống tốt là có trách nhiệm với chính mình, có nghị lực quyết tâm cùng ya chí vươn lên ngay từ hôm nay.
tham khảo :
Học tập là nhiệm vụ hàng đầu của học sinh. Có nhiều hình thức học tập khác nhau để tích luỹ tri thức, trau dồi đạo đức, bên cạnh việc học tập trên sách vở, tích lũy kiến thức từ cuộc sống thì học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cũng là một hình thức học tập hiệu quả. Những năm gần đây, cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có sức lan tỏa mạnh mẽ, được nhiều người hưởng ứng và đồng tình.
"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" là việc học tập và noi theo, học tập những đức tính, phẩm chất tốt đẹp của Bác. Đó là lòng yêu nước, tấm lòng vì dân vì nước, ý chí kiên cường, lạc quan, bản lĩnh, lối sống giản dị, khiêm nhường....Hồ Chí Minh là một lãnh tụ vĩ đại với phong cách làm việc mẫu mực, lối sống giản dị và khiêm tốn. Ở Người hội tụ những vẻ đẹp cần- kiệm-liêm-chính, chí công vô tư. Bác xứng đáng là tấm gương sáng cho bao thế hệ trẻ noi theo. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những trách nhiệm mà mỗi công dân Việt Nam nói chung và thế hệ trẻ Việt Nam nói riêng cần thực hiện.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng, vì độc lập tự do của dân tộc, vì ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Trước lúc ra đi người cũng không quên dặn dò mỗi người Việt Nam phải có trách nhiệm với đất nước, với sự hưng thịnh của quốc gia, dân tộc, đặc biệt là thế hệ trẻ. Lời dặn dò của người đến hôm nay vẫn là hành trang quý báu cho bao thế hệ noi theo, là ánh sáng soi đường nhắc nhở mỗi chúng ta phải luôn cố gắng học tập và làm việc, vì bản thân, vì gia đình và đất nước. Trong thực tế, có không ít những hành động tiêu biểu thể hiện rõ tinh thần học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đó là hình ảnh những bác sĩ, y tá vào xung phong vào vùng tâm dịch, ngày đêm túc trực bên giường bệnh giành giật từng hơi thở cho những bệnh nhân mắc Covid- 19. Đó là hình ảnh những bác từng vào sinh ra tử nơi chiến trường nay về hưu cũng xung phong trực tham, tham gia hỗ trợ bà con lối xóm những ngày họ bị cách ly vì Covia- 19 hoành hành. Đó là những thanh niên tình nguyện không ngại nắng mưa, đêm tối ôm vội những bình ô-xi 0 đồng đến tận nhà hỗ trợ người mắc bệnh. Hành động dũng cảm ấy, tấm lòng "thương người như thể thương thân" âý đều thật đẹp, thật cao quý biết bao, đó chẳng phải là tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh được kế thừa và tiếp nối hay sao?
Đi từ Bắc vào Nam, khắp mảnh đất hình chữ S, chúng ta không khó để bắt gặp hình ảnh những người nông dân cần mẫn bên ruộng lúa vườn rau, những ngư dân chài lưới với làn da rám nắng hăng say trong lao động, những bác thợ nề vất vã bên bao công trình xây dựng hay những giáo viên, bác sĩ, kĩ sư miệt mài với công việc...Dù làm bất kì công việc gì họ vẫn hết mình thực hiện với tinh thần trách nhiệm cao, chăm chỉ và cố gắng. Đó chẳng phải là tinh thần Hồ Chí Minh hay sao? Trên giảng đường hay trong trường học, những anh chị sinh viên, những cô cậu học sinh, những em nhỏ thiếu niên nhi đồng đều hăng say học tập, tích luỹ tri thức, rèn luyện thể thao, kĩ năng sống,...Ai ai cũng đều nỗ lực, cố gắng để sau này trở thành người có ích, cố gắng vì một tương lai tươi đẹp hơn về sau. Tất cả đều chứng minh cho một tinh thần Hồ Chí Minh, xứng đáng là "con cháu Bác Hồ" trong thời đại mới. Chính những nhận thức đó, hành động và việc làm đó đã góp phần xây dựng một xã hội văn minh, giàu đẹp, đất nước ngày một thêm vững mạnh với những người tài đức, những công dân có ích.
Hiện nay, trong xã hội vẫn còn tồn tại nhiều người chưa có nhận thức đúng đắn, còn phạm những sai lầm không đáng có, sống buông thả, ăn chơi, đua đòi, không chịu cố gắng. Một bộ phận khác lại quá ích kỉ chỉ biết đến bản thân, thậm chí vì lợi ích của bản thân mà làm hại người khác. Họ chưa có nhận thức đúng đắn về trách nhiệm của bản thân với chính mình, với gia đình và mình quê hương, đất nước. Họ chưa thực sự noi gương sáng Bác Hồ để tiếp nối và giữ gìn những phẩm chất cao đẹp từ Người. Những người thật đáng chê trách biết bao.
Mỗi chúng ta, là những học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, may mắn được sinh ra khi nước nhà độc lập, được Đảng và nhà nước tạo mọi điều kiện cả về vật chất và tinh thần để học tập, phát triển, cần phải có trách nhiệm với đất nước, noi gương sáng của Bác Hồ kính yêu. Phải cống hiến, góp sức mình để phát triển nước nhà vững mạnh, tỉnh táo trước những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù. Nuôi dưỡng lòng yêu nước. Sống khiêm tốn, cần cù, biết yêu thương, giúp đỡ, cưu mang đồng bào mình, đặc biệt là với những người khốn khổ, bất hạnh. Góp sức mình vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tìm hiểu về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, học tập và làm theo gương bác, xứng đáng là những thanh niên trong thời đại mới với tinh thần nhiệt huyết và trái tim sục sôi ý chí cống hiến.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng phát biểu: "Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên". Lời căn dặn ấy của Bác không đề cao trách nhiệm của Đảng trong việc đào tạo những thế hệ trẻ mà còn nhắn nhủ mỗi người phải thật sự nỗ lực, có trách nhiệm, để trở thành những người trẻ đủ "hồng", đủ "chuyên" của đất nước. Đưa Việt Nam xã hội chủ nghĩa sánh vai với bạn bè năm sau, xây dựng quốc gia, dân tộc đẹp giàu, vững mạnh.
Tham khảo:
Ở Nguyễn Tất Thành, ý chí và nghị lực được hình thành, phát triển trong môi trường sống và điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của đất nước, từ những tố chất cá nhân của Người và thừa hưởng từ cha mẹ, gia đình, quê hương. Người sinh ra và lớn lên khi đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, nhân dân bị lầm than đói khổ. Quê hương Người là Nghệ An, vùng đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống yêu nước với những tên tuổi lớn như: Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu… Người xuất thân trong một gia đình nhà Nho nền nếp, mang những nét đặc trưng của xã hội Việt Nam thời phong kiến. Cha của Người là ông Nguyễn Sinh Sắc đã đỗ Phó bảng trong kỳ thi Hội năm 1901 nhưng nhiều năm liền trì hoãn việc làm quan bởi với ông: “Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ” (nghĩa là: Làm quan là nô lệ trong đám nô lệ, lại càng nô lệ hơn). Mẹ của Người là bà Hoàng Thị Loan, một người phụ nữ Việt Nam điển hình, làm nghề nông và dệt vải, tần tảo nuôi chồng con ăn học. Được nuôi dưỡng bởi những truyền thống tốt đẹp của quê hương xứ Nghệ; của ý chí học tập và sự kiên nhẫn của người cha, của tâm hồn và tình cảm của người mẹ hiền, Nguyễn Tất Thành và anh chị em của mình ngay từ khi còn nhỏ tuổi đã biết nói những điều hay, làm những việc tốt, giàu lòng vị tha, nhân ái, chan hòa trong nghĩa cử đồng bào.
Bản thân Người, ngay từ thuở nhỏ đã có tố chất thông minh, ham học hỏi và thích khám phá những điều mới lạ. Được cha gửi đến học chữ Hán với các thầy giáo có tư tưởng yêu nước tiến bộ, Nguyễn Tất Thành dần hiểu được thời cuộc và sự day dứt, bế tắc của các bậc cha chú trước cảnh nước mất nhà tan. Lớn lên, càng tiếp cận với nền văn minh Pháp qua sách vở học ở nhà trường, Nguyễn Tất Thành càng muốn tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của Tây Âu. Những điều thầy dạy ở trường khác xa với cuộc sống, với thân phận của người dân mà Người phải chứng kiến hằng ngày. Rồi thực tiễn thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX đã đặt ra nhiều câu hỏi và tác động đến chí hướng của Nguyễn Tất Thành, để rồi Người tự xác định mục đích cho hành động và định hướng hoạt động của mình: Rời Tổ quốc, sang phương Tây tìm đường cứu nước, cứu dân. Như chính Người đã xác nhận trong cuộc trả lời phỏng vấn nhà báo Nga Osip Mandelstam năm 1923: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy… Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài”(1).
Ý chí và nghị lực của Nguyễn Tất Thành còn thể hiện sâu sắc ở sự khắc phục những khó khăn, gian khổ, không chỉ vượt qua khó khăn, gian khổ mà còn vượt qua cả những cám dỗ để vững vàng, kiên định với lý tưởng, mục đích của mình. Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, những năm còn nhỏ Nguyễn Tất Thành đã trải qua cuộc sống khó khăn, thiếu thốn. Và nỗi đau mất mát lớn nhất đầu tiên tác động đến tình cảm, ý chí và nghị lực trong cuộc đời Nguyễn Tất Thành là vào năm 1900. Mới 11 tuổi Người đã mất mẹ và em trai nhỏ, phải thay cha, thay anh chị, nhờ sự giúp đỡ của bà con hàng xóm ở Huế để lo tang cho mẹ. Hoàn cảnh khó khăn cùng với nỗi đau và sự mất mát đã tiếp thêm cho Nguyễn Tất Thành ý chí và nghị lực để vượt qua những thử thách, gian khổ trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước của Người sau này.
Thời điểm đầu thế kỷ XX, với Nguyễn Tất Thành và phần đông người Việt Nam lúc bấy giờ, thế giới Đông - Tây vẫn còn khép kín, tách biệt. Con đường đi sang phương Tây của tầng lớp lao động chỉ rộng mở hơn nếu họ có quan hệ với ngành hàng hải, thương mại. Nghĩ đến cuộc hành trình lênh đênh trên biển hàng vạn dặm, không phải Nguyễn Tất Thành không có băn khoăn. Người nói về quyết định của mình, bày tỏ những băn khoăn của mình với một người bạn, “đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm…”, đồng thời bày tỏ nguyện vọng khuyên người bạn cùng đi. Và khi người bạn không dám mạo hiểm ra đi, Người đã quyết tâm ra đi bằng đôi bàn tay trắng, với ý chí “sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi”(2).
Cả cuộc hành trình 30 năm tiếp theo đó, Nguyễn Tất Thành phải đối mặt và vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách. Những ngày khó khăn, cực nhọc đầu tiên đó là những ngày Người làm phụ bếp trên tàu Latouche Tréville: Mỗi ngày phải làm từ bốn giờ sáng, quét dọn sạch sẽ nhà bếp lớn trên tàu, tối đốt lửa trong các lò, đi khuân than, xuống hầm lấy rau, thịt cá, nước đá... Công việc khá nặng nhọc vì dưới bếp rất nóng và trong hầm rất rét, nhất là khi vừa phải vác một bao nặng vừa leo lên những bậc thang trong khi tàu tròng trành, thậm chí có lần suýt chết đuối vì biển nổi sóng to... Nhiều lúc tưởng chừng như Người không vượt qua nổi thử thách đầu tiên. Nhưng ý chí và nghị lực kiên cường, càng gian khổ, khó khăn sức chịu đựng của Người ngày càng rắn rỏi. Công việc quen dần, nỗi vất vả như lùi lại phía sau mỗi hải lý con tàu vượt qua. Những năm tháng đặt chân đến Anh, Pháp, Mỹ, Nguyễn Tất Thành tiếp tục trải qua những tháng ngày lao động gian khổ với nhiều nghề vất vả khó khăn để kiếm sống và nuôi chí lớn tìm con đường cứu nước.
Những ngày trên đất nước Mỹ (năm 1912), Nguyễn Tất Thành làm thuê ở quận Brooklyn (ngoại vi thành phố New York) rồi làm thợ bánh và phụ giúp đầu bếp nấu những món ăn Pháp ở khách sạn Omni Parker House (Boston). Tại nước Anh (năm 1913), Người từng làm các công việc nặng nhọc như cào tuyết ở trường học, đốt lò ở hầm, làm phụ bếp ở khách sạn Drayton Court, làm dọn dẹp và rửa bát đĩa ở khách sạn Carlton trước khi được đầu bếp huyền thoại người Pháp Escosffier chuyển Người lên khu vực làm bánh và “truyền nghề” cho để Người có số lương cao hơn và có thì giờ hơn để học tiếng Anh. Những ngày trở lại Pháp (năm 1917) cuộc sống hết sức khó khăn, Nguyễn Tất Thành làm thuê cho một cửa hàng ảnh, công việc bấp bênh, thu nhập thấp. Người còn làm nhiều nghề khác như: Làm đồ giả cổ, vẽ quạt, lọ hoa, chao đèn… Mùa đông giá rét, mỗi buổi sáng trước khi đi làm, Người đều để một viên gạch vào bếp lò của bà chủ nhà. Đến chiều, Người lại lấy viên gạch ra, bọc trong những tờ báo cũ rồi để trên giường cho đỡ rét. Ăn uống thiếu thốn cùng với lao động và hoạt động vất vả, sức khoẻ của Nguyễn Tất Thành giảm sút, nhưng nhờ vào ý chí nghị lực rèn luyện Người đã vượt qua những khó khăn về sức khoẻ để tiếp tục tham gia vào những hoạt động chính trị.
Không chỉ gặp khó khăn, thiếu thốn về vật chất trong cuộc sống, mà trong cuộc hành trình suốt 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành luôn bị kẻ thù rình rập, theo dõi, giám sát, hăm dọa và tìm mọi thủ đoạn hãm hại. Bản án tử hình vắng mặt (năm 1929) và những ngày bị thực dân Anh bắt giam tại Nhà ngục Victoria, Hồng Kông (năm 1931) mà Người đã trải qua và tất cả những khó khăn gian khổ đó không làm Nguyễn Tất Thành chùn bước. Ngược lại, những thử thách đó càng tiếp thêm cho Người nghị lực, ý chí và sức mạnh để cổ vũ Người vượt qua, kiên định lập trường của mình là tìm con đường cứu nước cho nhân dân Việt Nam. Dù chịu cảnh tù đày nghiệt ngã trong dãy xà lim “bề rộng chỉ vừa một người nằm xiên xiên” nhưng sau này khi viết lại những năm tháng ấy, Người chỉ nói đến tâm tư của mình “khi bị bắt giam, trong tâm trạng chỉ có một điều là lo, không phải là lo cho số phận của mình sau này sẽ ra sao… lo là lo những công việc mình làm xong, ai sẽ tiếp tục làm thay?”.
Có thể nói, ý chí và nghị lực là tố chất rất quan trọng đối với mỗi một con người, giúp con người xác định mục đích và đưa ra những quyết định cho hướng hoạt động của mình và giúp con người vượt qua những khó khăn, thử thách nhằm đạt được mục đích. Ở Nguyễn Tất Thành ý chí và nghị lực mang tính nhân văn sâu sắc và được thể hiện ở một tầm cao mới, định hướng cho lý tưởng, cho mục đích cao cả trọn cuộc đời của Người: “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”, giúp Người vượt qua tất cả những khó khăn gian khổ trong hành trình suốt 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước.
Văn bản"Đức tính giản dị của Bác Hồ"đã nói lên con người và phẩm chất giản dị của Bác. Từ những bữa ăn thanh đạm cho đến căn nhà đơn sơ, gần gũi với thiên nhiên, và cả những công việc bận rộn mà Bác không muốn làm phiền ai. Tác giả đã có những dẫn chứng cụ thể, phòng phú và sinh động. Những điều tác giả đưa ra được đảm bảo bằng mối quan hệ gắn bó lâu dài giữa Hồ chủ tịch với chính tác giả Phạm Văn Đồng. Qua bài thơ, ta có thể thấy việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác là một việc vô cùng quan trọng. Là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, tôi sẽ chăm chỉ học tập, lễ phép với thầy cô và luôn làm theo tấm gương đạo đức của Bác trong văn bản mà tôi đã học.
Cảm ơn đã đọc🥰🥰
Giản dị là một đặc điểm trong lối sống của người Việt Nam. Bác hồ cũng thích sống giản dị vì Bác mang tâm hồn Việt Nam. Bác hiểu phong cách và tập quán của người Việt Nam và Bác muốn hòa mình vào tập quán ấy. Đời sống đó được thề hiện ở nhiều mạt trong đời sống, trong bữa cơm, trong cách ăn mặc... Đời sống của Bác rất giản dị, bữa cơm chỉ có vài ba món rất đơn giản. Lúc Bác ăn không để rơi vãi một hột cơm nào, ăn xong cái bát bao giờ cũng sạch và thức ăn thì được sếp rất tươm tất. Trong cách ăn mặc cũng vậy. Bác mặc một bộ đồ kaki sẫm màu, đầu đội mũ, chân đi dép cao su. Lời nói của Bác dễ hiểu, ngắn gọn nhưng luôn ấm áp. Tuy vậy, tuy bận bịu như thế mà ngôi nhà sàn của Bác lúc nào cũng sạch sẽ. Ngoài ra Bác còn nuôi cá, làm vườn...Qua đó, chúng ta thấy Bác sống rất giản dị. Chính vỉ sự giản dị đó mà Bác luôn được mọi người yêu quý. Qua đó chúng ta cần phải học tập đức tính giản dị về ăn mặc, lối sống, trong văn nói và viết...
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.Bác không chỉ đáng yêu mà còn rất đáng kính bởi Bác là người mang đến tự do cho dân tộc. Ở con người Bác ta còn học tập được nhiều điều đặc biệt là lối sống giản dị. Bác mãi là tấm gương để chúng ta học tập noi theo.
Bác Hồ là người giản dị như thế nào chắc mỗi chúng ta đều biết. Trước hết Bác giản dị trong đời sống sinh hoạt. Không chỉ trong những năm tháng khó khăn mà ngay khi đã là một vị chủ tịch nước trong bữa ăn của Bác cũng rất giản dị: chỉ có vài ba món đơn gián, khi ăn Bác không để rơi vãi, ăn xong cái bát bao giờ cũng sạch sẽ. Trong cách mặc của Bác cũng rất giản dị, phù hợp với hoàn cảnh, với con người Bác. Bộ quần áo ka-ki, bộ quần áo nâu, đôi dép cao su, chiếc đồng hồ Liên Xô…..là những đồ vật giản dị gắn liền với cuộc đời Bác. Dù là một vị chủ tịch nước nhưng Bác không hề giống như những vị vua thời phong kiến, không có long bào, không có lầu son gác tía,… mà nơi ở của Bác là ngôi nhà sàn vài ba phòng đơn giản, có vườn cây, ao cá để Bác được lao động sau những giờ làm việc căng thẳng.
Trong việc làm Bác cũng thể hiện sự giẳn dị của mình. Việc gì làm được thì Bác không cần ai giúp đỡ nên số người giúp việc cũng ít, chỉ đếm trên đầu ngón tay. Bác làm việc rất cần cù, cả đời Bác không ngày nào nghỉ ngơi, từ nhũng công việc hàng ngày đến việc cách mạng vì dân vì nước.
Không những vậy trong quân hệ với mọi người Bác cũng rất giản dị. Từ việc đi thăm nhà tập thể công nhân, viết thư cho một đồng chí hay nói chuyện với các cháu miền Nam hoặc đi thăm và tặng quà cho các cụ già mỗi khi Tết đến. Trong lần về quê, khi mọi người kéo đến rất đông Bác đã cùng mọi người ngồi trước cửa nhà nói chuyện. Dù là một vị chủ tịch nước nhưng ta không hề thấy Bác cao sang xa vời mà luôn gần gũi thân thiết.
Trong lời nói và bài viết Bác cũng thể hiện sự giản dị của mình bởi Bác muốn mọi người dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo nên Bác đã nói rất giản dị về những điều lớn lao, chân chính như:"Không có gì quý hơn độc lập tự do" hay để kêu gọi tinh thần đoàn kết Bác đã nói’ Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết
Thành công thành công đại thành công"
Và rất nhiều những lời nói, bài văn, bài thơ rất giản dị của Bác mà chúng ta có thể biết, sự giản dị của Bác càng làm nổi bật đời sống nội tâm và tôn thêm vẻ đẹp con người Bác. Sự giản dị của Bác là tấm gương mà chúng ta phải học tập và noi theo.
Trong cuộc sống chúng ta luôn cần sự nâng đỡ của mọi người, khi còn nhỏ chúng ta có sự nâng đỡ của Ông Bà, Cha Mẹ, ở trường ta có thầy cô dìu dắt và sự chia sẻ của bạn bè. Khi vào đời ta có đồng nghiệp, đồng môn nâng đỡ. Nhưng không phải vì thế mà ta quên đi không rèn luyện đức tính tự lập. Vậy tự lập là gì và nó có ảnh hướng thế nào đến đời sống chúng ta?
Tự lập là tự làm lấy, tự giải quyết công việc, tự lo liệu, tạo dựng cho cuộc sống của mình; không trông chờ, dựa dẫm, phụ thuộc vào người khác.
Để rèn luyện đức tính tự lập, ông cha ta thường dạy “Nước lã mà vã nên hồ, tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan”. Đức tính tự lập rất cần và rất đáng quý từ thủa còn nhỏ chúng ta đã được ông bà, cha mẹ dạy cho biết tự lập qua các trò chơi, cũng như qua lời răn day làm bất cứ việc gì cũng phải làm đến nơi đến chốn, đừng bao giờ ỷ lại hoặc trông chờ người khác làm giúp minh.
Khi cắp sách tới trường thì được thầy cô và bạn cùng lớp dạy ta tự tin trước đám đông, không rụt rè nhút nhát. Dạy cách tự mình làm những việc trong khả năng có thể, đừng bao giờ ngại khó, ngại khổ để rồi bỏ cuộc nửa chừng. Khi rèn luyện được tính tự lâp trong học tập ta sẽ có thái độ chủ động, tích cực, có động cơ và mục đích học tập rõ ràng, đúng đắn. Từ đó, nó sẽ giúp cho ta tìm được phương pháp học tập tốt. Kiến thức tiếp thu được vững chắc. Bản lĩnh được nâng cao. Tự lập là yếu tố rất quan trọng giúp ta có được tương lai thành đạt. Đây là một đức tính vô cùng quan trọng mà chúng ta cần có, vì không phải lúc nào cha mẹ, bạn bè và thầy cô cũng ở bên cạnh ta để giúp đỡ. Nếu không có tính tự lập, khi ra đời ta sẽ dễ bị vấp ngã, thất bại và dễ có những hành động nông nỗi, thiếu kiềm chế.
Người có tính tự lập sẽ dễ đạt được thành công, được mọi người yêu mến, kính trọng. Có biết bao người đã sống tự lập và đạt tới thành công ngoài mong đợi, chẳng hạn như Đức Giêsu đã sống tự lập trong gia đình Thánh Gia suốt 30 năm và trong 3 năm rao giảng ngài sống tự lập hoàn toàn, hoặc là như Hồ Chí Minh đã sống tự lập trong những năm tìm đường cứu nước Bác ra đi với hai bàn tay trắng để rồi đem lại tự do độc lập cho cả dân tộc.
Ngược lại với đức tính tự lập là Nhút nhát, lo sợ, Ngại khó, dựa dẫm, ỷ lại, phụ thuộc vào người khác. Hiện nay, có một số thành phần không nhỏ trong xã hội có biểu hiện ỷ lại, dựa dẫm vào bạn bè, cha mẹ. để kiếm chức khiếm quền chiếm “ghế”. Chính vì những thành phần này làm bộ mặt xã hội việt nam ta xấu đi và gây ra nhiều hậu quả đáng tiếc.
Cũng thế nhiều người hiểu sai về tự lập đã tách mình ra khỏi hội đoàn, tổ chức…tự lập không phải tự tách mình ra khỏi cộng đồng. Có những việc chúng ta phải biết đoàn kết và dựa vào nhau để tạo nên sức mạnh tổng hợp. “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.
Tự lập là một phẩm chất để khẳng định nhân cách, bản lĩnh và khả năng của một con người. Chỉ biết dựa dẫm vào người khác sẽ trở thành một gánh nặng cho người than, xã hội và cuộc sống sẽ trở nên vô nghĩa.
Vì vậy cần phải rèn luyện khả năng tự lập một cách bền bỉ, đều đặn. Để có thể tự lập, bản thân mỗi người phải có sự nỗ lực, cố gắng và ý chí mạnh mẽ để vươn lên, vượt qua thử thách, khó khăn, để trau dồi, rèn luyện năng lực, phẩm chất.
Nếu mọi người đều biết sống tự lập kết hợp với tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau thì xã hội sẽ trở nên tốt đẹp hơn và cuộc sống mỗi người sẽ được hạnh phúc
ủa nói về ng sống tự lập ngoài đời có thật đấy bạn