K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

24 tháng 6 2016

 Thanh Thảo là một nhà thơ khoác áo lính, ông sinh ra tại Quảng Ngãi, tốt nghiệp khoa văn trường Đại Học Tổng Hợp nhưng sau đó vào chiến trường miền Nam công tác. Thanh Thảo luôn nỗ lực tìm tòi hướng để cách tân thơ Việt. Ông đi theo trường phái thơ tượng trưng siêu thực có nguồn gốc từ phương Tây mà Lor-ca là một trong những người đi đầu trong trường phái thơ đó. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” đã xây dựng thành công hình tượng nghệ sĩ Lor-ca.

 Lor-ca là một nghệ sĩ thiên tài người Tây Ban Nha. Ông có một tầm ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống chính trị cũng như đời sống nghệ thuật của Tây Ban Nha. Trong đời sống nghệ thuật, ông là một trong những người đi đầu đẻ cách tân nền nghệ thuật già nua của Tây Ban Nha thời bấy giờ. Trong đời sống chính trị ông là người khởi xướng phong trào đấu tranh chống lại chế độ độc tài thân phát xít đã hết sức phản động. Năm 1936 bè lũ Phrăng-cô quá hoảng sợ trước tầm ảnh hưởng của Lor-ca nên chúng đã tìm cách bắt và sát hại ông. Tuy nhiên sau cái chết của Lor-ca , sự ảnh hưởng của ông càng trở nên mạnh mẽ hơn. Nó vượt qua biên giới của Tây Ban Nha.  Tên tuổi của Lor-ca đã trở thành biểu tượng cho công cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ văn hóa dân tộc và văn minh nhân loại. Sự ảnh hưởng của Lor-ca không chỉ trong thời đại của ông mà nó còn tồn tại cho tới bây giờ. Cuộc đời, sự nghiệp, những cống hiến của Lor-ca chính là những tác động khơi nguồn cảm xúc để Thanh Thảo viết bài thơ.

 

                                           “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”

 

“những tiếng đàn bọt nước

Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

li la li la li  la

đi lang thang vè miền đơn độc

với vầng trăng chếnh choáng

trên yên ngựa mỏi mòn

 

Tây Ban Nha

hát ngêu ngao

bỗng kinh hoàng

áo choàng bê bết đỏ

Lor-ca bị điệu về bãi bắn

Chàng đi như người mộng du

 

Tiếng ghi ta nâu

bầu trời cô gái ấy

tiếng ghi ta lá xanh biết mấy

tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan

tiếng ghi ta ròng ròng

máu chảy

 

không ai chon cất tiếng đàn

tiếng đàn như cỏ mọc hoang

giọt nước mắt vầng trăng

long lanh trong đáy giếng

 

đường chỉ tay đã đứt

lòng sông rộng vô cùng

Lor-ca bơi sang ngang

trên chiếc ghi ta màu bạc

 

chàng ném lá bùa cô gái Di-gan

vào xoáy nước

chàng ném trái tim mình

vào lặng yên bất chợt

 

li la li la li la. . .

 Thanh Thảo đặt nhan đề bài thơ là “Đàn ghi ta của Lor-ca”, đàn ghi ta là nhạc cụ truyền thống của Tây Ban Nha, Lor-ca là người nghệ sĩ thiên tài của Tây Ban Nha, nhan đề bài thơ đã hé mở hình tượng nghệ thuật trung tâm của bài thơ là Lor-ca và gắn liền với hình tượng ấy biểu tương nghệ thuật mang tính cách tân của Lor-ca, của đất nước Tây Ban Nha: đàn ghi ta. Lor-ca là người nghệ sĩ sáng tạo, đàn ghi ta là phương tiện để người nghệ sĩ sáng tạo.

 Lời đề từ của bài thơ “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” là lời chăng chối cuối cùng trước khi giã từ cuộc sống của Lor-ca, đồng thời cũng nói lên tâm nguyện của Lor-ca. Nếu cây đàn mang nghĩa biểu trưng cho xứ sở Tây Ban Nha, cho nền nghệ thuật Tây Ban Nha thì lời đề từ đã thể hiện tình yêu, sự gắn bó của Lor-ca đối với đất nước Tây Ban Nha, với nền nghệ thuật Tây Ban Nha. Cũng có thể hiểu cây đàn là biểu trưng cho sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của Lor-ca, điều này cho ta thấy Lor-ca sẵn sàng dũng cảm lùi mình vào quá khứ để mở ra con đường thênh thang cho thế hệ sau thỏa sức mà sáng tạo. Lor-ca coi sự nghiệp sáng tạo, những cống hiến của mình là nền móng chứ không phải bức tượng đài, không phải ranh giới để thế hệ sau có thể đứng trên nền móng đó được thỏa sức sáng tạo.

 Bài thơ được viết theo trường phái thơ tương trưng siêu thực nên khi đọc thì độc giả có thể thỏa sức tưởng tượng để hiểu những hình ảnh theo nhiều chiều khác nhau. Khổ thơ đầu bài thơ Thanh Thảo tái hiện hình ảnh  của Lor-ca trên nền nghệ thuật Tây Ban Nha. Hình ảnh “tiếng đàn bọt nước” biểu trưng cho sự sống và sự sáng tạo của Lor-ca vô cùng mỏng manh và rất dễ vỡ, tan biến . “Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt” biểu trưng cho môi trường chính trị ở Tây Ban Nha bức bối, ngột ngạt, phản động. Trong hai câu thơ đầu tác giả đặt hình ảnh “tiếng đàn bọt nước” bên cạnh hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” như một dụng ý cho thấy cuộc sống của Lor-ca đang cực kì bức bối, ông dường như đang phải cố gồng mình lên để đối mặt với một chế độ xã hội phản động, già nua, có thể nói cuộc sống của ông là đầy thách thức. Câu thơ thứ ba ghi lại chuỗi hợp âm của tiếng đàn ghi ta “li la li la li la”, nó biểu trưng cho những sáng tạo của Lor-ca . Như vậy dù sống trong một môi trường xã hội ngột ngạt nhưng người nghệ sĩ Lor-ca vẫn không ngừng sáng tạo nghệ thuật, vẫn say xưa với những sáng tạo nghệ thuật của mình. “Đi lang thang về miền đơn độc”, người nghệ sĩ đi nhưng chưa xác định rõ được đích đến, người nghệ sĩ vừa đi vừa suy nghĩ vừa tìm tòi. Đi về miền đơn độc là đi về miền của tâm trạng, miền của cảm xúc. Đây là hành trình đi tìm cái tôi sáng tạo, đi tìm cái tôi của người nghệ sĩ, tìm cảm hứng sáng tạo. Đồng hành cùng với người nghệ sĩ là vầng trăng, là chú ngựa nhưng lại là vầng trăng “chếnh choáng”, “yên ngựa mỏi mòn”. Vầng trăng thì xa vời, hư ảo, nửa say nửa tỉnh, chú ngựa cũng mỏi mòn, mệt mỏi rã rời, một hành trình vô cùng nhọc nhằn và cô đơn, hành trình “đơn thương độc mã”. Lor-ca là một người nghệ sĩ dám sống và cả dám chết vì nghệ thuật, dám cháy hết mình cho nghệ thuật. Mặc dù luôn luôn phải đối mặt với khó khăn khốc liệt nhưng khát vọng cách tân nền nghệ thuật già nua lúc nào cũng bùng cháy mãnh liệt trong Lor-ca.

 Hai khổ thơ tiếp theo, Thanh Thảo tái hiện cái chết của Lor-ca cũng vẫn qua những hình ảnh thơ mang tính tượng trưng. “Tây ban Nha hát nghêu ngao”, Tây Ban Nha ở đây chính là Lor-ca, dường như tất cả những tinh hoa những vẻ đẹp của Tây Ban Nha đã hội tụ trong con người Lor-ca. Lor-ca bây giờ không chỉ là con  người cá nhân mà là một biểu tương cho xứ sở Tây Ban Nha. Thanh Thảo đã thể hiện rất rõ tình cảm ngưỡng mộ, khâm phục, kính trọng của mình dành cho thần tượng – Lor-ca. Hành động “hát nghêu ngao” cho thấy một tâm trạng phấn khích, vui vẻ, một cuộc sống đang diễn ra bình dị. “bỗng kinh hoàng”, tín hiệu báo hiệu tin dữ, việc xấu ập đến. “áo choàng bê bết đỏ”, Lor-ca đã bị bắn trọng thương. Sau hình ảnh “áo choàng bê bết đỏ”, nghĩa là sau khi Lor-ca đã bị bắn trọng thương là một loạt hình ảnh diễn tả sự biến đổi liên tục, liên hoàn của tiếng đàn: “tiếng ghi ta nâu”, “tiếng ghi ta xanh”, “tiếng ghi ta tròn bọt nước”, “tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy”. Từ khi viên đạn xuyên thấu vào cơ thể Lor-ca, nó đã phá tan những điều giản dị nhưng đáng quí như là tình yêu, hi vọng, để rồi cuối cùng kết lại trong một cái chết oan nghiệt và thảm khốc. Thanh thảo đã có cách diễn đạt hình tượng hóa giúp chúng ta như cảm nhận được quá trình ập đến của cái chết và qua đó cũng ta cũng cảm nhận được sự đau đớn, xót xa của Thanh Thảo trước sự ra đi của thần tương trong lòng mình.

 Khổ thơ tiếp theo chính là tiếng nói tri âm đồng vọng của Thanh Thảo với Lor-ca. Hai câu thơ đầu của khổ thơ mang hình thức đối thoại “không ai chôn cất tiếng đàn – tiếng đàn như cỏ mọc hoang”, đó là lời đối của Thanh Thảo lại lời chăng chối của Lor-ca là lời đề từ của bài thơ “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”. Lor-ca nhắn nhủ rằng hãy đưa tôi vào quá khứ, hãy để tôi làm nền móng để cho thế hệ sau xây lên lâu đài nghệ thuật vĩ đại hơn nhưng thực tế thì “không ai chôn cất tiếng đàn” nghĩa là không ai thấu hiểu và thực hiện được tâm nguyện chân chính mà  Lor-ca đã gửi gắm. Tiếng đàn được ví như cỏ mọc hoang, nền nghệ thuật của Tây Ban Nha đang phát triển nhưng không theo một đường lối thống nhất, nó phát triển tùy theo sở thích và cảm hứng của người sáng tạo. Thanh Thảo và Lor-ca là hai người nghệ sĩ cách xa nhau về thế hệ, khác xa nhau về nề văn hóa nhưng ở họ vẫn có những tiếng nói tri âm đồng vọng, phải chăng đó là sự gặp gỡ của người nghệ sĩ có cùng quan điểm sáng tác, có chung nguồn cảm hứng sáng tạo. hai câu thơ cuối đoạn thơ đã thể hiện cảm xúc mãnh liệt của Thanh Thảo trong một hình ảnh được khúc xạ nhiều chiều không gian “giọt nước mắt vầng trăng – long lanh trong đáy giếng”, Phải chăng hình ảnh này xuất phát từ một sự việc sau khi giết chết Lor-ca, để giấu giếm tôi ác, để phi tang, bọn giết Lor-ca đã vứt thi thể ông xuống giếng. Phải chăng đó là hình ảnh biểu thị cho một nỗi đau không thể nguôi ngoai?

 

Hai khổ thơ cuối bài thơ Thanh Thảo tập trung diễn tả sự giã từ của Lor-ca, Lor-ca đã chết nhưng đối với Thanh Thảo Lor-ca có thực sự đã vĩnh viễn ra đi? Thanh Thảo nhắc tới “đường chỉ tay đã đứt” là nhắc tới cái chết, nhắc tới sự hữu hạn của đời người, nhắc tới “dòng sông rộng vô cùng” chỉ sự vô hạn của cuộc đời chung, dòng sông cuộc đời. Đó là một quy luât nghiêt ngã mà mỗi người đều phải trải qua và Lor-ca cũng không thể tránh khỏi. Chỉ có điều trong cảm nhận của Thanh Thảo, đây là cuộc giã từ chủ động và thanh thản. Chàng chủ động bơi sang bên kia dòng sông cuộc đời trên chiếc ghi ta đã ngả màu bạc. Chàng chủ động để lại tín ngưỡng, tình yêu “chàng ném lá bùa cô gái Di-gan – vào xoáy nước – chàng ném trái tim mình – vào lặng yên bất chợt”. Lor-ca không chết trong cảm nhận của Thanh Thảo, Lor-ca vẫn sống, sống ở phía bên kia của dòng sông cuộc đời. thanh Thảo đã bất tử hóa hình tượg nhân vật Lor-ca. Với Thanh Thảo, Lor-ca vẫn sống bằng những sáng tạo, bằng những cống hiến cho nền nghệ thuật Tây Ban Nha và nền nghệ thuật thế giới. Câu thơ cuối bài ghi lại hợp âm tiếng đàn ghi ta “li la li la li la . . .” và nó tiếp tục biểu trưng cho những sáng tạo của Lor-ca. Như vậy trong cảm nhận của Thanh Thảo ở phía bên kia dòng sông cuộc đời Lor-ca vẫn không ngừng sáng tạo nghệ thuật. Hay nói cách khác Lor-ca và những sáng tạo của ông vẫn còn mãi trong tâm tưởng của tác giả Thanh Thảo và của mọi người. Hai câu thơ đặc biệt đã mang lại tính nhạc cho bài thơ, hơn nữa câu thơ cuối bài như một giai điệu ngân vang tạo nên dư âm trong lòng người đọc.

 

Bằng việc sử dụng hình ảnh thơ có tính tượng trưng cao, Thanh Thảo đã xây dựng thành công hình tượng Lor-ca từ sự sống tới cái chết, đồng thời thể hiện những tình cảm của mình dành cho thần tượng. Từ đó giúp người đọc cảm nhận được Lor-ca là một người chiến sĩ, người nghệ sĩ đấu tranh không ngừng nghỉ cho những khát vọng chân chính và cao cả: cách tân nền nghệ thuật già nua, đấu tranh chống lại chế độ độc tài thân phát xít đã quá phản động.

Bên cạnh việc sử dụng hình ảnh thơ mang tính tượng trưng Thanh Thảo còn tổ chức bài thơ, phân câu theo một trật tự khác thường.Bài thơ có hình thức âm thanh, nhưng câu thơ không vần, không dấu chấm, không dấu phẩy, không viết hoa đầu dòng.

 Bài thơ thành công trong việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật  của trường phái thơ tượng trưng siêu thực . Tác phẩm cũng là một minh chứng cho việc luôn luôn tìm hướng để cách tân thơ Việt của ông. Hình tượng nghệ sĩ  Lor-ca mang tầm vóc vĩ đại sẽ sống mãi trong lòng độc giả bao thế hệ.

24 tháng 6 2016

- Tên đầy đủ: Phê-đê-ri-cô Gar-xi-a-Lor-ca (1898-1936) là một trong những tài năng sáng chói của văn học hiện đại Tây Ban Nha. Được coi là thần đồng với năng khiếu thiên bẩm trên nhiều lĩnh vực của nghệ thuật: Thơ ca, hội hoạ, âm nhạc, sân khấu...

- Lor-ca cổ vũ nhân dân đấu tranh, đòi quyền sống và là người khởi xướng những cách tân nghệ thuật

- Hoảng sợ trước ảnh hưởng xã hội to lớn của Lor-ca, năm 1936 bọn phát xít đã bắt giam và bắn chết ông.

- Cái chết của Lor-ca đã làm dấy lên một làn sóng phẫn nộ trên thế giới. Tên tuổi Lor-ca từ đó trở thành một biểu tượng, là ngọn cờ tập hợp các nhà văn hóa Tây Ban Nha và thế giới chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ văn hóa dân tộc và văn minh nhân loại.

9 tháng 3 2018

Hình tượng Lor-ca là người nghệ sĩ tự do nhưng đơn độc

- “Những tiếng đàn bọt nước”: nghệ thuật lung linh mà Lor-ca tạo ra, đó là dự cảm về số phận ngắn ngủi, mong manh của Lor-ca

- Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt: cuộc chiến đấu quyết liệt giữa dân chủ tự do với phát xít độc tài

→ Người anh hùng Lorca đơn độc, dũng cảm trên con đường đấu tranh cho cách tân nghệ thuật và dân chủ

Lor-ca cái chết đầy oan khuất

- Lor-ca đầy khí phách, ngang tàng trên quê hương Tây Ban Nha

- Cái chết oan khuất, bi thảm ập tới, cả đất nước Tây Ban Nha nuối tiếc trước sự ra đi của chàng

- lor-ca cho tới lúc chết vẫn say sưa, ngẩng cao đầu trong miền cách tân nghệ thuật

Lor-ca người nghệ sĩ bất tử cùng nghệ thuật chân chính

- Cảm hứng trong nghệ thuật của Lor-ca vì quê hương, vì tình yêu và vì chính nghệ thuật

- Tiếng ghi ta có nhiều biến thể đa dạng, phong phú: tiếng ghi ta lá xanh, tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan, tiếng ghi ta ròng ròng/ máu chảy

- Số phận của nghệ thuật Lor-ca sau khi chàng mất:

- Hành trình cách tân nghệ thuật của Lor-ca có sức sống mãnh liệt, đó cũng là sự thương cảm về cái chết bi thảm của Lor-ca

- Giọt nước mắt vầng trăng: hình ảnh siêu thực, đa nghĩa, bắt nguồn từ cái chết thương tâm của Lor-ca. Đó cũng là tình thương, sự cao khiết, sự hóa thân, sự thăng hoa của tâm hồn nghệ sĩ

- “Ném lá bùa”, “ném trái tim” là sự giải thoát của Lor-ca sau khi chết, người nghệ sĩ chân chính ý thức “cái chết” của bản thân để được tái sinh mạnh mẽ, để thế hệ sau tiếp tục cách tân

    + Ý thức sự gắn bó của Lor-ca với nghệ thuật, ông muốn thế hệ kế cận vượt qua án ngữ nghệ thuật của mình

- Tiếng đàn bất tử, tâm hồn nghệ sĩ bất tử của Lor-ca

→ Sự ngưỡng mộ của người nghệ sĩ đại diện cho tinh thần tự và khát vọng cách tân nghệ thuật của thế kỉ XX bị giết hại

2 tháng 6 2017
Bài làm
“ Tôn sự trọng đạo”,một truyền thống quý báu của dân tộc ta từ bao đời nay.Quả thật vậy,truyền thống đó dần trỡ thành một phẫm chất tối thiểu nhất mà mỗi người trong chúng ta cần phãi có.
Ông cha ta ngày xưa dạy chúng ta câu tôn sư trọng đạo nhầm nhắc nhỡ chúng ta phãi biết tôn trọng kình yêu những người đã dạy dỗ mình,không chỉ là người thầy mà còn là những bậc cha me,những người đã dạy chúng ta,dù ít dù nhiều chúng ta vẫn phãi giữ đúng tinh thần đó,như người xưa có câu: “Nhất tự vi sư,bán tự vi sư”.Từ khi còn trong nôi ai cũng được nghe lời ru: “ Muốn sang thì bắc cầu kiều.muốn con hay chữ phãi yêu lấy thầy” và càng ngày càng ngày lời ru đó cầng thấm nhuần sâu vào tâm trí của mỗi chúng ta rằng vai trò vị trí của người thầy rất quan trọng: “ Không thầy đố mày làm nên”.Qua đó cho ta thấy rằng người thầy dạy dỗ ta cũng có thễ ví như là những bậc sinh thành,vần được nhớ ơn,công lao dạy dỗ chúng ta,bỡi vì lẽ đó nhân gian có câu: “ Mùng một tết cha,mùng hai tết mẹ,mùng ba tết thầy”.Vậy đối với đầng sinh thành ra chúng mình,mình đã kính trọng,thương yêu biết bao nhiêu thì đối với những người đã dạy dỗ chúng ta,chúng ta cũng phãi có thái độ như vậy.
Mối quan hệ thầy trò tượng trưng cho nét đẹp văn hóa ứng xữ của cũa dân tộc Việt Nam.Tinh thần tôn sư trọng đạo không chỉ là vấn đề về đạo đức mà còn là một truyền thống văn hóa vô cùng tốt đẹp,vô cùng quý giá mà chúng ta cần phãi gìn giữ.Cũng như dân tộc ta có những ngày nhớ ơn cha mẹ,thì ta cũng có ngày nhớ ơn người thầy,đó là ngày hai mươi tháng mười một,ngày nhà giáo Việt Nam,là dịp đễ chúng ta bày tỏ lòng biết ơn và sự kính yêu của mình bằng những lời cãm ơn,những món là nhõ bé chứa đựng tình cãm của chúng ta dành cho thấy cho cô.Tuy trong xã hội hiện nay,người thầy không còn ỡ một vị trí cao tuyệt đối nữa như xưa nữa,nhưng họ vẫn là những người được xã hội tôn trọng vì nghề dạy học được là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý,những người thầy người cô bõ biết bao công sức,tấm huyết cho những em học trò tựa nhưng đàn con nhỏ yếu dấu ruột thịt của mìnhcho dù trên lưng họ đang mang những gánh nặng,những lo toan mưu sinh trong cuộc sống,họ vãn dành thời gian,nghiền ngẫm nhưng bài dạy,làm giáo án,suy nghĩ phương thức giãng dạy như thế nào đễ học trò có thê nắm bắt tất cã bài học.Là bổn phận học sinh,chúng ta cần phãi giữ đúng tinh thần tôn sự trọng đạo
Cho đến bây giờ,truyền thống tôn sư trọng đạo vẫn còn giữ nguyên đươc giá trị của nó,còn rất nhiều học trò ngoan ngoãn học tập,chú ý lắng nghe những gì thầy cô giãng,giữ đúng đạo làm trò,luôn lễ phép không làm uỗng công sức của người thầy.Như gương ông Phạm Sư Mạnh,một người học trò giỏi của thầy Chu Văn An,cho dù đã đỗ đạt làm quan to chức lớn,địa vị xã hội lớn hơn thầy mình rất nhiều nhưng ông vẫn rất lễ phép với thầy,khi về thăm thầy,ông cho lính ngựa đứng ngoài đầu ngõ,ông đi bộ vào nhà thầy và quỳ xuống lạy thầy.Thật là một tầm gương sáng để chúng ta noi theo.Nhưng bên cạnh đó,vẫn còn rất nhiều không làm tròn bổn phận học sinh,tỏ ra coi thường công sức của người thầy miệt mài ngày đêm để có được bài giảng cho mình,xúc phạm thầy cô và làm thầy cô buồn long.Thật đáng chê trách!
Vì vậy những ai đang là học sinh đang ngồi trên ghê nhà trường ,hãy thể hiện tinh thần tôn sự trọng đạo nhiều hơn nữa,cố gắng làm thây cô vui lòng.Còn đối với những ai từng làm thầy cô buồn long,hãy cố gắng sửa sai bằng việc học thật tốt,để không phụ lòng thầy cô.
Hãy giữ nét đẹp truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc,hãy biết ơn những người đã dạy cho ta nhưng bài học hay,cũng như những bậc cha mẹ nuôi nấng cho chúng ta ăn học nên người.Người thầy người cô luôn là một tấm gương đề chúng ta học hỏi,noi theo.Đồng thời là những người bỏ biết bao công sức để truyền đạt kiến thức cho ta mà không hề than trách như lời một bài hát:
“ Khi thầy viết bảng
Bụi phấn rơi rơi
Có hạt bụi nào
Rơi trên bục giảng
Có hạt bụi nào
Vương trên tóc thầy”.
2 tháng 6 2017
Khổng Tử, bậc thầy vĩ đại, hơn 2500 năm trước sáng lập ra học thuyết Nho giáo chứa đựng tư tưởng giáo dục sâu sắc. Ông nói: “Tam nhân đồng hành, tất hữu ngã sư yên” - tức “Trong ba người cùng đi, ắt có người là thầy của ta ở đó”.
Suốt nghìn năm phong kiến, giáo dục Việt Nam trên đại thể được coi là nền giáo dục Nho giáo. Giá trị nhân bản tốt đẹp của nền giáo dục này thể hiện rất rõ ở “hằng số văn hóa” thầy - trò. Xưa đến nay, nhân vật quan trọng nhất của trường học là người thầy. Truyền thống ngàn đời trong thế ứng xử của người Việt được cô lại và đúc kết bằng bốn chữ: “Tôn sư trọng đạo”.

Câu nói: “Không thầy đố mày làm nên”, “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” là những lời cửa miệng của người Việt nhắc nhở nhau mỗi khi đề cập tới vai trò của người thầy. Ở dân tộc Việt Nam, “tôn sư trọng đạo” thấm sâu trong tâm thức mỗi người dân. Để tỏ lòng tôn kính với thầy, người Việt có quan niệm: “Sống tết, chết giỗ”. Chính vì thế mà dưới thời phong kiến, người thầy được xếp thứ hai sau vua, theo cách gọi: Quân - Sư - Phụ (Vua – thầy - cha).

Thế ứng xử dân chủ linh hoạt của người Việt Nam rất đề cao vai trò của thầy trong sự nghiệp dạy và học. Vậy mới có câu: “Trò hơn thầy đức nước càng dày”, “học thầy không tầy học bạn” - ý nói bạn cũng có thể là thầy.

Ngày trước, thời phong kiến, không phải ai cũng có tiền đi học. Nhiều gia đình nghèo khó con em không thể đến trường. Tuy nhiên, cơ hội theo học vẫn có. Họ chỉ cần theo những phép tắc nhất định - những phép tắc biểu hiện đậm nét của sự tôn sư trọng đạo mà không quá câu nệ vào vật chất.

Chẳng hạn, trước khi cho con đến theo học, cha mẹ sắm một mâm lễ bái lạy tổ tiên, mong con học hành sáng dạ, đỗ đạt. Sau đó, gia đình có một “lễ mọn”, mang tính chất “lòng thành” dâng lên thầy. Tỏ lòng thành kính “tôn sư trọng đạo”, nhiều gia đình còn gửi gắm con mình theo học và ở luôn bên nhà thầy. Một năm chỉ về thăm nhà vài lần. Thỉnh thoảng, gia đình trò lại gửi biếu thầy ít gạo nếp, hoặc mớ rau, con cá như một thông điệp bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới công lao to lớn của thầy.

Thời gian ở nhà thầy, học trò không chỉ học chữ nghĩa mà quan trọng phải tu dưỡng bản thân, rèn nhân cách sống. Có thể nói, đạo trò xưa không chỉ rất khiêm nhường, tôn kính người thầy của mình, mà còn có trách nhiệm, nghĩa vụ rất lớn lao. Khi ra đường, gặp thầy phải ngả mũ nón và vòng tay chào; lúc thầy già yếu, các đồng môn phải lo sắm cỗ thọ đường (áo quan)...

Phải thừa nhận nền giáo dục phong kiến có nhiều điểm còn hạn chế, nhưng do lấy tư tưởng đạo đức của Nho giáo làm nền tảng cơ bản nên đã tạo ra một lớp học trò trọng nhân nghĩa và sống có đạo lý, rất “tôn sư trọng đạo”.

“Tôn sư trọng đạo” còn thể hiện ở việc kính thầy. Kính thầy là một phong tục có giá trị nhân văn sâu sắc. Kính thầy thường vào dịp đầu xuân - Tết nguyên đán. Học trò xa gần náo nức rủ nhau tới chúc tết, thăm hỏi sức khỏe gia đình thầy. Dân gian có câu: “Mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng ba tết thầy” cũng vì lẽ đó.

Mối quan hệ thầy - trò tượng trưng cho nét đẹp văn hóa ứng xử của nhân dân Việt Nam. Người thầy như điểm sáng trí tuệ sưởi ấm tâm hồn học trò. Tìm trong lịch sử dân tộc ta có biết bao bậc thầy vĩ đại, cả đời tận trung vì dân vì nước. Cuộc sống của họ thanh bần mà được người đời ca tụng, lưu danh muôn thuở.

Vậy mới có một thầy Chu Văn An (1370), sẵn sàng từ bỏ áo mũ, quan tước, dâng sớ lên triều đình xin chém đầu 7 kẻ quyền thần. Một thầy Đồ Chiểu mù hai mắt nhưng cả đời kiên trung, không chịu khuất phục trước sức mạnh xâm lược của ngoại bang...

Ý thức “tôn sư trọng đạo” của dân tộc ta thật đa dạng, chứa đựng tính nhân bản tình người. Minh chứng cho điều này, chúng ta ngược thời gian trở về các làng nghề truyền thống. Nhiều phường nghề, phố nghề ở Thăng Long được bắt đầu từ một số thợ thủ công trong các làng nghề ở nông thôn. Họ di cư lên đô thị lập thương điếm, cửa hiệu làm ăn, dần dà hình thành nên những phường nghề, phố nghề nơi kinh thành.

Tuy sống và làm việc tại thành thị, nhưng họ vẫn có quan hệ mật thiết với quê hương. Ngày giỗ tổ, không ước hẹn nhưng tất cả cùng đồng tâm tụ họp về chốn cũ quê xưa để tưởng nhớ tới vị thầy đã truyền nghề cho họ. Trong sâu thẳm tâm thức mỗi người, đó là việc làm ghi lòng tạc dạ công ơn của lớp hậu sinh tới bậc tiền bối - người thầy sáng lập ra nghề và truyền lại cho hậu thế.

Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chính sách nhằm ưu tiên cho phát triển giáo dục, coi trọng giáo dục là quốc sách hàng đầu. Cho phép đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Chủ trương đưa đất nước phát triển tiến lên bằng nền kinh tế tri thức. Nền giáo dục của Nhà nước ta đã chọn lấy ngày 20 tháng 11 hằng năm làm ngày Nhà giáo Việt Nam. Đây có thể xem như là một biểu tượng đẹp cho truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc Việt Nam .
11 tháng 6 2017

- Sai

- Lor – ca tên đầy đủ là Phê – đê ri – cô Gar – xi – a Lorca (1898 – 1936), một trong những tài năng sáng chói của văn học Tây Ban Nha.  Từ nhỏ, Lor – ca được coi là thần đồng với năng khiếu thiên bẩm trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật: thơ ca, hội họa, âm nhạc, sân khấu,…Lor – ca nồng nhiệt cổ vũ nhân dân đấu tranh với mọi thế lực áp chế, đòi quyền sống chính đáng, khởi xướng và thúc đẩy mạnh mẽ những cách tân trong các lĩnh vực nghệ thuật. Sự có mặt của Lor –ca và nhiều tài năng khác lúc bấy giờ đã khiến cho đời sống tinh thần của Tây Ban Nha và cả một vùng rộng lớn thuộc khu vực Tây Âu trở nên sôi động. Hoảng sợ trước sự ảnh hưởng xã hội to lớn của Lor – ca, năm 1936, chế độ phản động cực quyền thân phát xít đã bắt giam và bắn chết ông.

10 tháng 1 2017

- Đúng

- Câu thơ Lor – ca bơi sang ngang / trên chiếc ghi ta màu bạc tượng trưng cho hình ảnh Lor – ca giã từ cõi thực sang thế giới bên kia nhưng vẫn luôn gắn bó với nghệ thuật. Dù cuộc đời Lor – ca ngắn ngủi, đơn độc nhưng với ông nghệ thuật là khát vọng cả đời ông theo đuổi.

Câu 1. Trình bày ngắn gọn những hiểu biết của bạn về thân thế, sự nghiệp của Đại thi hào Nguyễn Du. Hãy cho biết việc tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp của Đại thi hào Nguyễn Du có ý nghĩa gì cho việc đọc hiểu các sáng tác của Nguyễn Du nói chung và Truyện Kiều nói riêng?Câu 2. Hãy viết bài văn thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Du và trình bày ngắn gọn những sáng tạo nổi bật...
Đọc tiếp

Câu 1. Trình bày ngắn gọn những hiểu biết của bạn về thân thế, sự nghiệp của Đại thi hào Nguyễn Du. Hãy cho biết việc tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp của Đại thi hào Nguyễn Du có ý nghĩa gì cho việc đọc hiểu các sáng tác của Nguyễn Du nói chung và Truyện Kiều nói riêng?

Câu 2. Hãy viết bài văn thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Du và trình bày ngắn gọn những sáng tạo nổi bật của tác giả thể hiện trong kiệt tác Truyện Kiều so với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (khoảng 800 từ).

Câu 3. Bạn cảm nhận như thế nào về sức sống của Truyện Kiều trong dòng chảy văn hóa, văn học dân tộc? Theo bạn, chúng ta cần phải làm gì để giữ gìn và phát huy giá trị của Truyện Kiều của Nguyễn Du trong tình hình hiện nay ?

Pls help me :(

 

1

 Câu 1:Nguyễn Du sinh năm Ất Dậu (1765), niên hiệu Cảnh Hưng, tại Thăng Long. Tổ tiên ông vốn từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (thuộc Hà Tây và nay thuộc Hà Nội) sau di cư vào xã Nghi Xuân, huyện Tiên Điền (nay là làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh).

Nguyễn Du thuộc về một gia đình khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt. Trước ông, sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt làm quan.

Đến thân phụ ông là Nguyễn Nghiễm (1708-1775), đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tước Xuân Quận Công dưới triều Lê… Ngoài là một đại thần, ông Nghiễm còn là một nhà thơ, một nhà nghiên cứu sử học. Ông Nghiễm có cả thảy tám vợ và 21 người con trai. Người con trưởng là Nguyễn Khản (1734-1786) đỗ Tam giáp tiến sĩ, làm quan tới chức Tham Tụng, tước Toản Quận Công (con bà chính, rất mê hát xướng, nổi tiếng phong lưu một thời, thân với chúa Trịnh Sâm), người con thứ hai là Nguyễn Điều đỗ Hương cống, từng làm trấn thủ Sơn Tây. Nếu kể theo thứ tự này, thì Nguyễn Du đứng hàng thứ bảy, nên còn được gọi là Chiêu Bảy.

Mẹ Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần (1740-1778), con gái một người thuộc hạ làm chức câu kế, người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, trẻ hơn chồng 32 tuổi. Bà sinh được năm con, bốn trai và một gái.

Thuở nhỏ Nguyễn Du sống trong nhung lụa, nhưng cuộc sống này kéo dài không quá mười năm. Vì 10 tuổi đã mồ côi cha, năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, ông và các anh em ruột phải đến sống với người anh cả khác mẹ là Nguyễn Khản (khi ấy ông Khản đã hơn Nguyễn Du 31 tuổi)).

Năm 1780, khi ấy Nguyễn Du mới 15 tuổi thì xảy ra “Vụ mật án Canh Tý”: Chúa Trịnh Sâm lập con thứ là Trịnh Cán làm thế tử, thay cho con trưởng là Trịnh Tông. Ông Khản giúp Trịnh Tông, việc bại lộ, bị giam. Đến khi Trịnh Tông lên ngôi, ông Khản được cử lên làm Thượng thư Bộ Lại và Tham tụng. Quân lính khác phe (sử gọi là “kiêu binh”) không phục, kéo đến phá nhà, khiến ông Khản phải cải trang trốn lên Sơn Tây sống với em là Nguyễn Điều rồi về quê ở Hà Tĩnh. Thế là anh em Nguyễn Du từ bấy lâu đã đến nương nhờ ông Khản, mỗi người phải mỗi ngã.

Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài), sau đó không rõ vì lẽ gì không đi thi nữa. Trước đây, một võ quan họ Hà (không rõ tên) ở Thái Nguyên, không có con nên đã nhận ông làm con nuôi. Vì thế, khi người cha này mất, Nguyễn Du được tập ấm một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên.

Năm 1786, Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà.

Năm 1789, Nguyễn Huệ, một trong ba thủ lĩnh của nhà Tây Sơn đã kéo quân ra Bắc đánh tan hai mươi mấy vạn quân Thanh sang tiến chiếm Đại Việt. Nguyễn Du cũng chạy theo vua Lê Chiêu Thống (1766-1793) nhưng không kịp, đành trở về quê vợ, quê ở Quỳnh Côi ở Thái Bình, sống nhờ nhà người anh vợ là danh sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn (1750-?).

Được vài năm, Nguyễn Du về Nghệ An. Năm 1796, nghe tin ở Gia Định, chúa Nguyễn Ánh (1762-1819) đang hoạt động mạnh, ông định vào theo, nhưng chưa đi khỏi địa phận Nghệ An thì đã bị quân Tây Sơn do tướng Nguyễn Thuận chỉ huy, bắt giữ ba tháng. Trở về Tiên Điền (Hà Tĩnh), ông sống chật vật một thời gian dài cho đến mùa thu năm 1802, khi chúa Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long, thì ông được gọi ra làm quan cho nhà Nguyễn.

Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện tại huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên). Tháng 11 cùng năm, đổi làm Tri phủ Thường Tín (Hà Tây, nay thuộc Hà Nội).

Kể từ đó, Nguyễn Du lần lượt đảm đương các chức việc sau: Năm 1803: đến cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh, Trung Quốc.

Năm 1805: thăng hàm Đông Các điện học sĩ.

Năm 1807: làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.

Năm 1809: làm Cai bạ dinh Quảng Bình.

Năm 1813: thăng Cần Chánh điện học sĩ và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc.

Sau khi đi sứ về vào năm 1814, ông được thăng Hữu tham tri Bộ Lễ.

Năm 1820, Gia Long mất, Minh Mạng (1791-1840) lên ngôi, Nguyễn Du lại được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường thì mất đột ngột (trong một trận dịch khủng khiếp làm chết hàng vạn người lúc bấy giờ) ở kinh đô Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức 18 tháng 9 năm 1820

Lúc đầu (1820), Nguyễn Du được táng ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Bốn năm sau mới cải táng về Tiên Điền (Hà Tĩnh).

 Tác phẩm bằng chữ Hán:

Tính đến tháng 5 năm 2008, giới chuyên môn đã sưu tập được 249 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, được chia ra như sau:

  • Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.
  • Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài, viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.
  • Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.

     Tác phẩm bằng chữ Nôm

  • Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về nỗi đan đứt ruột. Tên phổ biến là Truyện Kiều), được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái có tài sắc.Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh), hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn chiêu hồn trước cả Truyện Kiều, khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812). Tác phẩm được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm.
  • Thác lời trai phường nón, 48 câu, được viết bằng thể lục bát. Nội dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái phường vải.
  • Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối văn tế, để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cô gái phường vải khác.
    Còn lại thì mình chịu=)
22 tháng 7 2019

Nét đẹp văn hóa gây ấn tượng nhất trong Tết Nguyên đán là mọi thành viên trong gia đình được sum họp bên nhau ấm áp.

    + Trong cuộc sống thường nhật, mọi người vì phải lo toan cho cuộc sống mưu sinh nên thường bận rộn, ít có dịp gần gũi nhau

    + Ngày Tết mọi người được nghỉ làm, quây quần bên nhau hạnh phúc, kể cho nhau nghe chuyện đã qua, và hướng nhau tới những điều tốt đẹp

9 tháng 6 2016
Dàn ý

I. Mở Bài

Hiện nay, nhân loại hàng ngày hàng giờ đang phải đương đầu với nạn dịch tràn qua mọi châu lục như một trận gió đen. Đó là nạn dịch HIV, bệnh dịch suy giảm miễn dịch, chưa có phương thức cứu chữa. HIV có thể quét sạch tất cả, không trừ một ai. Thậm chí đó là những đứa trẻ, mầm non của tương lai, là những chàng thanh niên khỏe đẹp có thể biến thiên nhiên thành điện thép cho con người hạnh phúc mai sau. Vì vậy, nhân ngày 1-12-2003, Tổng thư kí Liên hợp quốc đã đưa thông điệp khẩn thiết phòng chống AIDS: “Hãy sát cánh cùng tôi, bởi lẽ cuộc chiến chống lại HIV/AIDS bắt đầu từ chính các bạn”, ở một đoạn khác, ông viết tiếp: Trong thế giới khốc liệt của AIDSkhông có khái niệm “chúng ta và họ”, “thế giới đó”, im lặng đồng nghĩa với cái chết”.

II. Thân bài

1. HIV/AIDS là một thế giới khốc liệt, là thảm họa của loài người.

a. Gần hai thập kỉ cuối cùng của thế kỉ XX và nay đã bước sang thập niên của thế kỉ XXI, mặc dù tất cả các nhà y học tài ba của thế giới đã vào cuộc để tìm ra một thứ thuốc hữu hiệu để chữa căn bệnh đồng nghĩa với tử thần. Đó là căn bệnh có cái tên gớm ghiếc HIV. Nhưng tất cả đang bó tay, chưa tìm được một thứ vacxin nào có thể phòng ngừa và tiêu diệt được thứ virut khủng khiếp ấy. Những thứ thuốc tốt nhất hiện có cũng chỉ có ý nghĩa giúp bệnh nhân có thể kéo dài sự sống và những biện pháp phòng ngừa cũng chỉ nhằm giảm bớt sự lây lan căn bệnh quái ác ấy từ người này sang người khác, không để nó trở thành đại dịch mang tính toàn cầu mà thôi.

b. HIV dù chưa là một đại dịch nhưng cho đến nay nó đã lấy đi hàng triệu sinh mệnh. Nếu tính bình quân, chỉ tính đến năm 2007 thì cứ mỗi ngày trôi qua, thế giới có thèm mười tám nghìn người nhiễm HIV, nghĩa là cứ mỗi giờ thì có bảy trăm năm mươi người mắc vào thứ bệnh mà lưỡi hái tử thần đang kề tận cổ ấy. Tất nhiên cho đến giờ phút này, con số thống kê đang tăng lên một cách đáng sợ.

c. Điều đáng buồn và đáng sợ hơn là hầu hết bệnh nhân đều là những người trẻ tuổi, cái tuổi của tương lai, cái tuổi đang trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần và là niềm hi vọng của mỗi gia đình. Giờ đây họ chẳng những không lao động được mà còn phải tập trung vào chữa bệnh. Kèm theo đó là bao người thản phải tập trung chăm lo cho những người bệnh ấy, chưa kể là bao nhiêu của cái phải lần lượt đội nón ra đi vì căn bệnh hiểm nghèo ấy. Thế là hậu quả biết bao người vợ mất chồng, người mẹ mất con. Có biết bao trại trẻ mồ côi làng SOS dành cho những đứa trẻ đã mang virut HIV/AIDS mọc lên như nấm. Các bạn hãy tưởng tượng, riêng khu vực châu Phi cận sa mạc Sahara với dân số một phần mười thế giới thì số người dương tính với HIV đã chiếm gần bảy tám phần trăm dân số. Còn ở nước ta, con số nhiễm bệnh đã lên tới ba trăm nghìn người, số người đã chết lên tới con số hàng mấy chục ngàn người. Theo công bố cua Bộ Y tế, cứ mười phút trôi qua, thì có thêm một người nhiểm phải căn bệnh hiếm nghèo đó.

2. Không có khái niệm “chúng ta” và “họ”

a. Không ai được phép coi đây là việc của người khác, chỉ liên quan đến “họ”, tức là những người nhiễm HIV, hay đang bước sang thời kì AIDS. Trước hết, với đạo lí làm người, không ai được quyền dửng dưng trước tai họa của nhân loại. Vì như Mác đã nói: “Đã là con người thì không ai được phép quay lưng với nỗi đau khổ của đồng loại”. HIV đang tác động xấu đối với đời sống
của loài người. Mỗi năm thế giới chúng ta bỏ ra hàng chục, thậm chí là hàng trăm tỉ đô la để chữa trị và ngăn ngừa căn bệnh hiểm nghèo ấy. Số tiền đó đáng lẽ có thể dùng để sản xuất ra của cải, lương thực, phòng ngừa thiên tai, xóa đỏi giảm nghèo cho những nước còn chậm phát triển.

b. Căn bệnh quái ác nói trên có nhiều đường lây lan như truyền máu không an toàn, lây từ mẹ sang con, đời sống tình dục không lành mạnh, thiếu ý thức. Nếu xem căn bệnh này chỉ là của ai đó, không liên quan đến mình, không có những biện pháp phòng ngừa triệt để thì thần chết vẫn có thể đến gõ cửa mỗi chúng ta và từng nhà.

3. Phải lên tiếng, phải hành động.

a. Mỗi người phải làm gì? Trước hết phải lên tiếng: phải cảnh báo với mọi người về nguy cơ lây nhiễm căn bệnh quái ác này đế mọi người tích cực phòng tránh. Phải có cái nhìn đúng đắn và thái độ đối xử đúng với những người nhiễm HIV. Phải coi họ như những người không may bị nhiễm căn bệnh mà đến nay y học đang bất lực.

b. Từ những con đường lây nhiễm được xác định, người ta có thể gần gũi, không được coi họ như những người bỏ đi. Không được mặc cảm, định kiến, phải biết yêu thương, giúp đỡ họ tạo dựng được niềm tin và nghị lực để sống khỏe, sống vui. Bởi một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ. Bởi tình thương nói như Nam Cao là tiêu chuẩn cao nhất để xác định tư cách làm người. Không có tình thương, con người chí là một con vật bị sai khiến bởi lòng ích kỉ. Một lời động viên; an ủi đối với những người nhiễm HIV sẽ tích thêm năng lượng đề họ sống mạnh mẽ, lạc quan hơn.

III. Kết luận

Không được tự chia ra hai thế giới “chúng ta và họ”. Trong thế giới đó, "im lặng đồng nghĩa với cái chết”. Hãy sát cánh bên nhau, bàn tay ấm nóng tình thương, tay trong tay, chúng ta hãy cùng nhau đẩy lùi và tiêu diệt căn bệnh quái ác, khủng khiếp này để loài người không phải sống trong nước mắt mà trong nụ cười tươi vui thân thiện và hạnh phúc.

9 tháng 6 2016

- Nhìn chung nhà nước và toàn thể cộng đồng đã có sự quan tâm sâu sắc đến vấn đề đại dịch HIV và với những người mắc phải căn bệnh này. Nhiều tổ chức, nhiều cơ quan tuyên truyền ( báo chí, đài truyền thanh, truyền hình) đã nỗ lực tham gia “cuộc chiến” chống lại hiểm hoạ chung. Đã có những trung tâm tư vấn, điều trị miễn phí, những cá nhân công khai căn bệnh của mình trước cộng đồng: có những cá nhân tình nguyện chăm sóc cho những người bệnh nặng không nơi nương tựa...

   - Nhưng trên thực tế, vẫn còn sự kì thị, phân biệt đối sử vơi những người bị bệnh. Nhiều khi họ bị đồng nhất với các đối tượng có vấn đề trong xã hội (như người nghiện hút, tiêm chích ma tuý, gái mại dâm,người có lối sông buông thả). Nhiều người bệnh bị chính người thân, gia đình mình xa cánh, thậm chí khinh miệt của mọi người xung quanh,…Điều này gây nên những tác hại khôn lường: phần đông người mắc bệnh không dám công khai chữa trị, nhiều người rơi vào tâm trạng tuyệt vọng phẫn uất,…

  - Từ tình hình thực tế đó ta cần có những biện pháp tích cực để góp phần vào cuộc đấu tranh chống lại hiểm hoạ chung của nhân loại.