Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Các bạn sẽ bán tin bán ngờ khi nghe tôi kể câu chuyện về cậu bé Hà ở ngay quê nội tôi mà tôi đã chứng kiên trong dịp vê quê ăn Tết năm qua. Chuyện có thật một trăm phần trăm, không bịa một tí nào. Ba mẹ Hà vốn là những người thuần túy làm nông. Hà là đứa con duy nhất trong gia đình. Năm nay cậu vừa tròn 7 tuổi đang học lớp Hai ở trường làng. Năng khiếu toán học của cậu xuất hiện từ khi cậu vào họclớp Một đặc biệt là phép tính nhẩm cộng trừ. Hồi học lớp Một cô giáo Hạnh đã phải kinh ngạc về tài tính nhẩm của cậu. Những phép tính cộng trừ trong phạm vi một trăm mà cô thường ra cho lớp thường ngày, cậu đều giải bằng miệng trong khoảnh khắc. Cô ra các bài toán trên bảng, vừa viết xong thì cậu đã có đáp số ngay mà không cần đặt bút tính toán. Chẳng những thế cậu còn làm nhanh và làm đúng những phép tính ấy trong phạm vi 1000. Tin loan truyền ra đến toàn trường rồi toàn huyện. Nhiều nhà báo của địa phương và cả trung ương nữa đến tận nhà để kiểm nghiệm. Mọi người đều ngạc nhiên trước năng khiếu đặc biệt này của cậu. Hơn thế nữa cậu còn tính đúng và tính nhanh những bài toán cộng trừ phức tạp mà các nhà báo đưa ra gồm 1 dãy số trong phạm vi 1000 để kiểm nghiệm chứng thực. Cậu không đặt bút tính toán mà chỉ ngồi tư lự, nhắm mắt, rồi nhẩm tính bằng cử động của hai bàn tay. Chưa đầy 30 giây, cậu đã cho ra đáp số. Nhà báo hỏi: làm bằng cách nào mà cháu cho ra đáp số đúng và nhanh như vậy. Cậu chỉ tủm tỉm cười mà không nói. Nghe đâu, người ta đang có kế hoạch đưa cậu vào trường bồi dưỡng nhân tài đặc biệt, chỉ có một thầy và một trò và vài trò do một giáo sư toán học bồi dưỡng riêng về môn toán. Nguyễn Việt Hà có tên “Hà thần đồng” từ đấy.
Ngày xưa có 1 nhà vua cử 1 vị quan trong triều đi dò hỏi khắp mọi miền trong cả nước để tìm kiếm một người tài giỏi xuất sắc. Vị quan đó đã ghé qua rất nhiều thôn xóm ở rất nhiều vùng miền khác nhau, hễ cứ đến thôn nào vị quan cũng bày ra rất nhiều câu đố hóc búa để thử tài trí mọi người, nhưng mà tuy rằng tốn nhiều công sức mà vị quan này chưa tìm thấy một người nào đó thực sự lỗi lạc và nhanh trí.
1 hôm, vị quan này ngang qua 1 cánh đồng làng nọ, vị quan nhìn thấy phía bên vệ đường có 2 cha con nhà nông đang làm đồng: cha đánh trâu cày, con theo sau đập đất. Vị quan bèn xuống ngựa tiến lại hỏi hai cha con:
– Này người dân cày kia! Con trâu của ông cày 1 ngày được tất cả bao nhiêu đường?
Người cha nghe câu hỏi của vi quan không biết trả lời ra sao đứng ngẩn người ra không biết giải đáp câu hỏi của vị quan kia như thế nào thì người con chừng 7-8 tuổi nhanh nhảu hỏi vặn lại vị quan rằng:
– Thế cho cháu xin được hỏi bác câu này trước, nếu bác cho cháu biết được ngựa của bác đi 1 ngày được tất cả bao nhiêu bước thì cháu sẽ trả lời cho bác biết trâu của nhà cháu cày 1 ngày được bao nhiêu đường.
Vị quan nghe cậu bé hỏi vặn lại như thế thì rất lấy làm kinh ngạc và sửng sốt, không biết trả lời câu hỏi của cậu bé 7 tuổi kia sao cho ổn. Vị quan kia thầm nghĩ trong bụng mình rằng chắc chắn người tài ta đang nhọc người tìm kiếm chính là cậu bé này rồi, không cần phải đi tìm kiếm ở đâu nữa cho tốn sức. Vị quan bèn hỏi họ tên và địa chỉ của cha con cậu bé rồi lên ngựa phóng 1 mạch về cung để bẩm báo cho vua biết.
Thấy vị quan báo là đã tìm được nhân tài, vua rất lấy làm mừng. Song để khẳng định chắc chắn hơn nữa Vua bèn cử quân ban cho ngôi làng của cậu bé 3 thúng gạo nếp và 3 con trâu đực, ra chỉ lệnh dân làng ấy phải làm mọi cách chăm làm sao cho 3 con trâu đó đẻ được chín con trâu con, hẹn sang năm mang nộp đủ cho vua, nếu không làm được thì cả làng phải chịu tội.
Khi dân làng nhận được chiếu chỉ của vua ra ai nấy cũng đều lo âu, chẳng thể hiểu được thế là như thế nào. Rất nhiều cuộc họp toàn bộ người dân trong làng đã diễn ra, rất nhiều lời bàn tán, rất nhiều ý kiến được đưa ra nhưng vẫn không suy nghĩ ra được phương án nào giải quyết “bài toán” vua đưa cả. Tất cả từ già tới trẻ ai ai cũng đều coi đây là 1 tai họa. Sự việc đến được tai em bé con người nông dân cày kia. Em liền bảo cha mình:
– Cha bảo dân làng đừng lo lắng, mấy khi làng mình nhận được chút lộc vua ban, cha cứ bảo làng mình ngả thịt 2 con châu, lấy 2 thúng gạo nếp nấu thành sôi để cả làng ăn uống một trận linh đình. Còn 1 con trâu và 1 thúng gạo nếp còn lại thì cha xin dân làng bán đi để lấy chút tiền bạc làm lộ phí cho hai cha con ta lê kinh một chuyến.
– Đã giết trâu ăn thịt thì còn lo liệu gì được nữa? Mày đừng có dại dột kẻo cả làng bay đầu đấy nghe con.
Đứa con thì một mực quả quyết:
– Cha cứ yên tâm, mọi chuyện cứ để con lo liệu, rồi tất cả sẽ đâu vào đó cha ạ.
Người cha nghe lời con mình ra đình gặp các bô lão trong làng để trình bày câu chuyện. Khi nghe người cha nói thế, cả làng vẫn còn rất ngờ vực nên bắt hai cha con phải làm một tờ giấy cam đoan. Nếu hai cha con làm thì mới ngả trâu để đánh chén.
Mấy hôm sau, hai cha con thu xếp đồ đạc rồi tìm đường lên kinh. Đến hoàng cung, đứa con bảo người cha cứ ở ngoài đợi tin chiến thắng, còn mình thì nhanh trong lúc mấy tên lính canh bất cẩn sơ hở đã lẻn vào bên trong sân rồi la khóc um tùm.
Nghe thấy tiếng trẻ con la khóc, nhà vua sai quân lính ra điệu thằng bé vào để hỏi chuyện. Nhà vua hỏi:
– Thằng bé kia, nhà ngươi gặp chuyện gì mà lại đến sân của ta la khóc om sòm như thế?
Chú bé đáp:
– Tâu đức vua, mẹ con thì mất sớm, cả nhà chỉ có mỗi con và cha con. Vậy mà cha con không chịu đẻ em bé để con có người chơi cùng, chính vì vậy mà con khóc ạ. Mong đức vua ban lệnh bắt cha con đẻ em bé cho con được nhờ ạ.
Nghe thấy cậu bé nói vậy cả nhà vua và các vị quần thuần ai nấy cũng đều cười lắc cười lẻ. Vua phán tiếp:
– Nếu ngươi muốn có em bé để chơi cùng thì phải bảo cha của ngươi cưới vợ khác. Chứ cha ngươi là giống đực sao đẻ con được!
Cậu bé bỗng tươi tỉnh nói:
– Thế vậy sao vua lại lệnh cho làng con nuôi ba con trâu đực bắt chúng đẻ ra chín con trâu con để nộp cho ngài. Trâu đực là giống đực thì làm sao mà đẻ được.
Nhà vua cười bảo:
– Đấy là ta thử tài trí nhà ngươi thôi. Thế mà cả làng không biết đem 3 con trâu đó mà ngả thịt ăn mừng với nhau à?
Cậu bé nói:
Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết đây là lộc vua ban nên cả làng đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi ạ.
Nhà vua đã phải công nhận rằng, tên quan được cử đi tìm kiếm người tài đã nói đúng, cậu bé này rất thông minh lỗi lạc. Nhưng nhà vua vẫn muốn thử thách cậu bé thêm một lần nữa. Sang đến ngày hôm sau, khi hai cha con cậu bé đang ăn cơm ở công quán, bỗng có sứ nhà vua đem đến một con chim sẻ và nói:
Nhà vua lệnh cho hai cha con ngươi phải thịt con chim sẻ này để dọn thành 3 cỗ thức ăn.
Cậu bé nhanh trí bảo cha mình lấy ra một chiếc kim khâu và nói với sứ giả:
– Ông cầm lấy chiếc kim này về và tâu với đức vua rằng, hai cha con ta muốn xin đức vua hãy cho người rèn chiếc kim này thành một con dao để hai cha con ta có thể xẻ thịt chim.
Sau khi sứ về tâu lại với đức vua, nhà vua phục hẳn tài trí của cậu bé. Lập tức nhà vua cho gọi hai cha con vào cung và ban thưởng rất hậu hĩnh.
Hồi đó, nước láng giềng luôn âm mưu xâm chiếm nước ta. Để dò la xem bên này có nhân tài hay không, họ đã sai sứ giả sang và mang theo một câu đố rất oái oăm: “Làm cách nào để xuyên một sợi chỉ mảnh qua một con ốc xoắn rỗng hai đầu?”
Sau khi nghe sứ thần nói về mục đích ghé thăm lần này, tất cả vua quan đều đưa mắt nhìn nhau. Nếu như không trả lời được câu đố đó, thì sẽ tỏ ra thua kém và lép vế trước nước láng giềng, càng chứng tỏ đất nước không có người tài. Các đại thần vò đầu bứt tai suy nghĩ, người thì thử dùng miệng để hút cho sợi chỉ lọt qua, có người thì bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để dễ xâu hơn vv… Nhưng tất các các cách trên đều vô dụng.
Bao nhiêu quan trạng đều bó tay, cuối cùng để có thêm thời gian cử người đi hỏi cậu bé thông minh, nhà vua nghĩ ra cách mời sứ thần tạm nghỉ ở công quán một ngày cho đỡ mệt đường xa.
Một viên quan phi ngựa cầm theo dụ chỉ của nhà vua đến nhà cậu bé thông minh. Đúng lúc đó thì cậu và các bạn đang đùa nghịch ở sau nhà. Sau khi nghe viên quan trình bày ngọn ngành câu đố của sứ giả nước láng giềng, cậu bé không đưa ra câu trả lời mà chỉ hát lên một câu hát:
Tang tính tang! Tính tình tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang…
Rồi cậu bé bảo:
– Tôi không nhất thiết phải cùng ông trở về triều làm gì. Cứ theo câu hát của tôi tức khắc sợi chỉ sẽ lọt qua con ốc!
Viên quan sung sướng phi ngựa trở về triều tâu lại với đức vua. Nhà vua và các quần thần như được cứu một nước cờ thua trông thấy. Quả nhiên con kiến đã xâu được sợi chỉ xuyên qua ruột ốc trước con mắt kinh ngạc của sứ giả nước láng giềng.
Kể từ lần đó, nhà vua đã phong cho cậu bé làm trạng nguyên, sai người xây riêng một dinh thự cho cậu bé gần bên cạnh hoàng cung để tiện hỏi han khi cần.
Học tốt!!!
TÓM TẮT VỀ KIM ĐỒNG
Kim Đồng tên thật là Nông Văn Dền, người dân tộc Nùng, quê ở thôn Nà Mạ, xã Xuân Hòa (nay là Trường Hà), Hà Quảng, Cao Bằng
Anh là một trong 5 đội viên đầu tiên của Đội nhi đồng Cứu quốc thôn Nà Mạ và cũng là tổ chức Đội đầu tiên của Đội ta được thành lập khi mặt trận Việt Minh ra đời (1941).
Trong buổi thành lập Đội, Kim Đồng được bầu làm tổ trưởng.
Kim Đồng là con trai út của một gia đình nông dân nghèo. Bố mất sớm. Anh trai tham gia cách mạng và hy sinh khi còn trẻ.
Từ năm 1940, ở quê Dền đã có phong trào cách mạng. Dền được anh trai và anh cán bộ như anh Đức Thanh giác ngộ cách mạng. Dền đã theo các anh làm các công việc: canh gác, chuyển thư từ, nghe nói chuyện về tội ác của quân giặc… nhờ đó Dền đã sớm giác ngộ cách mạng và trở thành một liên lạc viên tin cậy của tổ chức Đảng. Dền đã mau chóng làm quen với cách thức làm công tác bí mật, nhiều lần đưa, chuyển thư từ, đưa đường cho cán bộ lọt qua sự bao vây, canh gác của địch.
Năm 1941, Bác Hồ về Pắc Pó, Kim Đồng từng được gặp Bác ở căn cứ cách mạng.
Bước sang năm 1943, bọn địch khủng bố, đánh phá dữ dội vùng Pắc Pó. Trong một lần đi liên lạc về, giữa đường gặp lính địch phục kích gần nơi có cán bộ của ta, Kim Đồng đã nhanh trí nhử cho bọn địch nổ súng về phía mình. Nhờ tiếng súng báo động ấy, các đồng chí cán bộ ở gần đó tránh thoát lên rừng. Song, Kim Đồng đã bị trúng đạn và anh dũng hy sinh tại chỗ, ngay bờ suối Lê-nin.
Hôm ấy là ngày 11 tháng giêng Âm lịch năm 1943, Anh vừa tròn 14 tuổi.
Ngày nay, mộ của Kim Đồng đã được đội viên cả nước góp phần xây dựng tại nơi anh ngã xuống. Ngày 15-5-1986, nhân kỷ niệm lần thứ 45 ngày thành lập Đội, mộ của Anh và tượng người đội viên liệt sĩ anh hùng Kim Đồng đang tung con chim sáo bay lên đã được khánh thành. Từ đó đến nay nơi đây đã trở thành khu di tích Kim Đồng chào đón các thế hệ thiếu nhi Việt Nam đến nơi thành lập Đội TNTP, với người đội trưởng đầu tiên của mình, đến với quê hương cách mạng có suối Lê-nin, có núi Các Mác và hang Pắc Pó mãi mãi khắc sâu trong tâm trí của thiếu nhi Việt Nam.
Gợi ý thôi nhé:
Bức tranh của em gái tôi
sau khi đi nhận giải cùng em trở về nhà, người anh cảm thấy day dứt và cậu đã quyết định nói chuyện với cô em gái xủa mình. Em hãy tưởng tượng và nhập vai Kiều Phương để kể lại câu chuyện đó
=> Cách làm dễ nhất cho bài này thì em cứ tưởng tượng như theo cốt chuyện sẵn có của tác giả. Nghĩa là chúng ta sẽ đi từng chi tiết trong chuyện xem như là lời giải thích. Vì sao người anh lại tỏ thái độ với em gái? Vì sao.....? => Sau một loạt những chi tiết như vậy để kéo dài thêm độ dài của câu chuyện thì chúng ta kể đến đoạn mấu chốt của câu chuyện là khi cậu ấy nhìn thấy bức tranh của chính bản thân mình (lưu ý là ngôi của Kiều Phương nhé!) => Nêu ra cảm xúc của người anh. Và sau khi nghe được những lời xin lỗi mang đầy nỗi hối hận của anh trai. Tôi chạy lại ôm chầm lấy anh, thỏ thẻ vào tai: " Em không sao? Em biết anh mình là ........ => đoạn này em có thể tự viết!
Đặc biệt để bài viết thêm dài em nên cho 2 yếu tố miêu tả và biểu cảm vào nhé! nó sẽ giúp bài văn vừa dài vừa có thể trở nên mượt hơn đấy!
Cậu bé An sống cùng với cha mẹ tại thành phố, sau ngày độc lập 2-9-1945. Thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam, đổ quân vào Nam Bộ. Pháp mở những trận đánh khiến cho những người dân sống tại các thành thị phải di tản. An và ba má cũng phải bỏ nhà bỏ cửa để chạy giặc. Cậu nhớ đến một anh bạn đi tàu đã tặng cậu chiếc la bàn mà không kịp mang theo. Theo cha mẹ chạy hết từ vùng này tới vùng khác của miền Tây Nam Bộ. An kết bạn cùng với những đứa trẻ cùng trang lứa và có một cuộc sống tuổi thơ vùng nông thôn đầy êm đềm. Nhưng cứ vừa ổn định được mấy bữa thì giặc đánh tới nơi và lại phải chạy. Trong một lần mải chơi, giặc đánh đến và An đã lạc mất gia đình. Cậu trở thành đứa trẻ lang thang.
Trong chuyến lưu lạc của mình, An đã được gặp và tiếp xúc với nhiều người. Dì Tư Béo là một trong những người đầu tiên cưu mang An khi cậu bé bị lạc ở một xóm chợ. Từ đó, cậu đã về làm giúp cho quán ăn của dì và không còn phải chịu cảnh đói khổ qua ngày. Tại quán ăn dì Tư béo, An đã gặp: anh Sáu tuyên truyền, những anh bộ đội, vợ chồng Tư Mắm, lão Ba Ngù, ông lão bán rắn và thằng Cò – họ đang đi tìm một người tên Võ Tòng. Vợ chồng Tư Mắm làm nghề bán mắm dọc các con kênh rạch. An vô tình biết rằng hai bọn họ là Việt gian. Bị họ phát hiện nên An chạy trốn, hai vợ chồng Tư Mắm đốt cháy quán dì Tư rồi bỏ đi. Dì Tư Béo định dẫn An lên Thới Bình sinh sống nhưng An đã quyết định ở lại và tiếp tục cuộc sống không nơi nương tựa.
Sau đó, An gặp lại cha con ông lão bán rắn và Võ Tòng. An đã đi theo họ và trở thành con nuôi của ông lão bán rắn, anh em của thằng Cò. Tuy là nghèo khó vất vả nhưng tía má nuôi của An rất thương An coi cậu bé như đứa con ruột do mình sinh ra. An còn được tía và thằng Cò dắt đi câu rắn, đi lấy mật ong và học được nhiều kinh nghiệm, thấy nhiều điều mới lạ mà An chưa từng biết.
Tía nuôi dắt An đi tới thăm chú Võ Tòng. Võ Tòng sau này đòi đi giết Việt gian vì định mua chuộc Ba Ngù. Trong lần phục kích giặc trên cây Da, Võ Tòng đã giết chết tên Việt gian và một tên lính ngụy. Nhưng cuối cùng, Võ Tòng đã bị mụ Tư Mắm chỉ điểm rồi bị tên tướng bắn chết. Ông Hai kêu An chỉ mụ Tư Mắm và biết được thói quen là thường đi tắm vào buổi chiều. Vì vậy, ông đã núp dưới đám bèo và dùng nỏ bắn chết mụ.
Thời gian sau, bọn giặc phải lao đao nhiều lần vì ông. U Minh Thượng đã bị giặc đóng chiếm, gia đình tía nuôi và An rời đi U Minh Hạ sinh sống, gia nhập phường săn cá sấu, sau đó tới Sroc Miên, chợ Mặt Trời, Năm Căn. Tại đây An gặp lại dì Tư Béo và rồi An theo các anh du
2 tháng 10 lúc 16:32
Em hãy viết 1 bài văn (đoạn văn) về một trải nghiệm mà em yêu thích
Giúp mình với ạ,mình đang cần gấp!!
Ngày xưa , ở một ngôi làng nọ có hai mẹ con sống rất hạnh phúc . Bà mẹ làm lụng chăm chỉ để nuôi con khôn lớn . Ngày tháng thoi đưa , thấm thoắt người con đã trưởng thành . Còn người mẹ thì ngày một già yếu . Một hôm , bà lão bị bệnh rất nặng . Bà nói với con trai rằng : " Ôi ... con ơi , mẹ cảm thấy rất mệt , nhưng mẹ chỉ muốn ăn một trái táo thơm ngon . Nếu con thương mẹ , con hãy đi tìm trái táo về cho mẹ , để mẹ thoả lòng mà nhắm mắt " . Người con vâng lời mẹ . Sáng hôm sau , anh quyết định nhờ bà con lối xóm chăm sóc cho mẹ của mình để mình được yên tâm lên đường . Người con bịn rịn : " Cháu nhờ các bác , các cô chú chăm nom mẹ cháu giùm . Cháu sẽ cố gắng lên đường tìm trái táo thơm ngon nhất về cho mẹ của cháu " . Nói rồi , chàng trai dặn dò mẹ , một lúc sau thì lên đường .
Trên đường đi tìm trái táo , người con vừa lo cho mẹ , vừa cố gắng đi tìm . Anh đi mãi , đi mãi , lâu lắm mà vẫn chưa tìm được một trái táo nào . Bỗng nhiên , anh lạc vào một khu rừng . Anh hốt hoảng , hoang mang , không biết đi về đâu , bỗng nhiên xuất hiện một người con gái cùng với một chú sóc nhỏ . Cô gái ấy là con của Thần Rừng . Cô hỏi han anh ân cần , rồi chỉ tay về hướng Tây và nói : " Anh hãy đi theo đường mà tay tôi chỉ , đến đó sẽ gặp một ngôi làng nhỏ . Trong làng có một bà lão trạc 80 tuổi . Bà ấy sẽ ngồi đợi anh đến để đưa trái táo . Hãy đi nhanh kẻo muộn " . Nói xong , cô gái biến mất . Chàng trai nghe theo lời . Đến một ngôi làng , chàng trai đinh ninh rằng đây chắc chắn là ngôi làng mà cô gái nhắc tới . Chưa kịp bước chân , anh đã thấy một đám thanh niên tay cầm mác , chĩa vào người anh . Một chàng trai trong đám thanh niên cất lời : " Hỡi chàng trai , anh định đi đâu , làm gì ở đây ? " . Chàng trai đáp : " Tôi được một cô gái chỉ đến nơi đây để tìm trái táo , nếu được các anh hãy cho tôi đến nơi có một bà lão trạc 80 tuổi ". Các chàng trai tỏ ý thân thiện , bảo chàng trai đi theo . Đến một căn nhà nhỏ nằm sát bờ suối , chàng trai đi vào và cất tiếng hỏi : " Bà lão ơi , con đến đây tìm táo về cho mẹ ạ " . Bà lão xuất hiện : " Ta đã chờ con lâu lắm rồi . Bây giờ , con hãy đi ra vườn , tìm trái táo to nhất ta đã dành cho con về đưa cho mẹ " . Chàng trai nhanh nhẹn đi ngay . Ra vườn , chàng trai thấy có một trái táo màu đỏ , trông đẹp mắt đến lạ . Chàng vội hái trái táo , chạy vào nhà định cảm ơn bà lão thì chẳng thấy bà đâu . Chàng trai gọi nhưng bà không thưa . Thấy vậy , chàng để lại một ít gạo cho bà và lại trở về nhà .
Về đến nhà , chàng trai reo lên : " Mẹ ơi , con đã tìm được trái táo rồi mẹ ạ " . Bà mẹ nghe thấy , mừng rỡ . Chàng trai vội đưa trái táo cho mẹ . Ăn xong , bà lão khoẻ mạnh trở lại . Từ đó hai mẹ con bà sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi .
Các bạn thấy đấy , chàng trai trong câu chuyện này thật hiếu thảo phải không nào ? . Chỉ vì mẹ muốn ăn trái táo mà chàng đã không ngại khó đi tìm về cho mẹ . Quả là người tốt luôn luôn được những người khác giúp đỡ . Chúng ta nên học theo anh chàng trong câu chuyện này nhé .
Ngày xưa , ở một ngôi làng nọ có hai mẹ con sống rất hạnh phúc . Bà mẹ làm lụng chăm chỉ để nuôi con khôn lớn . Ngày tháng thoi đưa , thấm thoắt người con đã trưởng thành . Còn người mẹ thì ngày một già yếu . Một hôm , bà lão bị bệnh rất nặng . Bà nói với con trai rằng : " Ôi ... con ơi , mẹ cảm thấy rất mệt , nhưng mẹ chỉ muốn ăn một trái táo thơm ngon . Nếu con thương mẹ , con hãy đi tìm trái táo về cho mẹ , để mẹ thoả lòng mà nhắm mắt " . Người con vâng lời mẹ . Sáng hôm sau , anh quyết định nhờ bà con lối xóm chăm sóc cho mẹ của mình để mình được yên tâm lên đường . Người con bịn rịn : " Cháu nhờ các bác , các cô chú chăm nom mẹ cháu giùm . Cháu sẽ cố gắng lên đường tìm trái táo thơm ngon nhất về cho mẹ của cháu " . Nói rồi , chàng trai dặn dò mẹ , một lúc sau thì lên đường .
Trên đường đi tìm trái táo , người con vừa lo cho mẹ , vừa cố gắng đi tìm . Anh đi mãi , đi mãi , lâu lắm mà vẫn chưa tìm được một trái táo nào . Bỗng nhiên , anh lạc vào một khu rừng . Anh hốt hoảng , hoang mang , không biết đi về đâu , bỗng nhiên xuất hiện một người con gái cùng với một chú sóc nhỏ . Cô gái ấy là con của Thần Rừng . Cô hỏi han anh ân cần , rồi chỉ tay về hướng Tây và nói : " Anh hãy đi theo đường mà tay tôi chỉ , đến đó sẽ gặp một ngôi làng nhỏ . Trong làng có một bà lão trạc 80 tuổi . Bà ấy sẽ ngồi đợi anh đến để đưa trái táo . Hãy đi nhanh kẻo muộn " . Nói xong , cô gái biến mất . Chàng trai nghe theo lời . Đến một ngôi làng , chàng trai đinh ninh rằng đây chắc chắn là ngôi làng mà cô gái nhắc tới . Chưa kịp bước chân , anh đã thấy một đám thanh niên tay cầm mác , chĩa vào người anh . Một chàng trai trong đám thanh niên cất lời : " Hỡi chàng trai , anh định đi đâu , làm gì ở đây ? " . Chàng trai đáp : " Tôi được một cô gái chỉ đến nơi đây để tìm trái táo , nếu được các anh hãy cho tôi đến nơi có một bà lão trạc 80 tuổi ". Các chàng trai tỏ ý thân thiện , bảo chàng trai đi theo . Đến một căn nhà nhỏ nằm sát bờ suối , chàng trai đi vào và cất tiếng hỏi : " Bà lão ơi , con đến đây tìm táo về cho mẹ ạ " . Bà lão xuất hiện : " Ta đã chờ con lâu lắm rồi . Bây giờ , con hãy đi ra vườn , tìm trái táo to nhất ta đã dành cho con về đưa cho mẹ " . Chàng trai nhanh nhẹn đi ngay . Ra vườn , chàng trai thấy có một trái táo màu đỏ , trông đẹp mắt đến lạ . Chàng vội hái trái táo , chạy vào nhà định cảm ơn bà lão thì chẳng thấy bà đâu . Chàng trai gọi nhưng bà không thưa . Thấy vậy , chàng để lại một ít gạo cho bà và lại trở về nhà .
Về đến nhà , chàng trai reo lên : " Mẹ ơi , con đã tìm được trái táo rồi mẹ ạ " . Bà mẹ nghe thấy , mừng rỡ . Chàng trai vội đưa trái táo cho mẹ . Ăn xong , bà lão khoẻ mạnh trở lại . Từ đó hai mẹ con bà sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi .
Các bạn thấy đấy , chàng trai trong câu chuyện này thật hiếu thảo phải không nào ? . Chỉ vì mẹ muốn ăn trái táo mà chàng đã không ngại khó đi tìm về cho mẹ . Quả là người tốt luôn luôn được những người khác giúp đỡ . Chúng ta nên học theo anh chàng trong câu chuyện này nhé .
Các bạn sẽ bán tin bán ngờ khi nghe tôi kể câu chuyện về cậu bé Hà ở ngay quê nội tôi mà tôi đã chứng kiên trong dịp vê quê ăn Tết năm qua. Chuyện có thật một trăm phần trăm, không bịa một tí nào. Ba mẹ Hà vốn là những người thuần túy làm nông. Hà là đứa con duy nhất trong gia đình. Năm nay cậu vừa tròn 7 tuổi đang học lớp Hai ở trường làng. Năng khiếu toán học của cậu xuất hiện từ khi cậu vào họclớp Một đặc biệt là phép tính nhẩm cộng trừ. Hồi học lớp Một cô giáo Hạnh đã phải kinh ngạc về tài tính nhẩm của cậu. Những phép tính cộng trừ trong phạm vi một trăm mà cô thường ra cho lớp thường ngày, cậu đều giải bằng miệng trong khoảnh khắc. Cô ra các bài toán trên bảng, vừa viết xong thì cậu đã có đáp số ngay mà không cần đặt bút tính toán. Chẳng những thế cậu còn làm nhanh và làm đúng những phép tính ấy trong phạm vi 1000. Tin loan truyền ra đến toàn trường rồi toàn huyện. Nhiều nhà báo của địa phương và cả trung ương nữa đến tận nhà để kiểm nghiệm. Mọi người đều ngạc nhiên trước năng khiếu đặc biệt này của cậu. Hơn thế nữa cậu còn tính đúng và tính nhanh những bài toán cộng trừ phức tạp mà các nhà báo đưa ra gồm 1 dãy số trong phạm vi 1000 để kiểm nghiệm chứng thực. Cậu không đặt bút tính toán mà chỉ ngồi tư lự, nhắm mắt, rồi nhẩm tính bằng cử động của hai bàn tay. Chưa đầy 30 giây, cậu đã cho ra đáp số. Nhà báo hỏi: làm bằng cách nào mà cháu cho ra đáp số đúng và nhanh như vậy. Cậu chỉ tủm tỉm cười mà không nói. Nghe đâu, người ta đang có kế hoạch đưa cậu vào trường bồi dưỡng nhân tài đặc biệt, chỉ có một thầy và một trò và vài trò do một giáo sư toán học bồi dưỡng riêng về môn toán. Nguyễn Việt Hà có tên “Hà thần đồng” từ đấy.