Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Em tham khảo nhé !!
I. MỞ BÀI
Giới thiệu: Một vật dụng nhỏ gọn, tiện ích cho học sinh, sinh viên ngày nay chúng ta thường nhắc đến đó chính là cây bút chì
II. THÂN BÀI
1. Nguồn gốc, xuất xứ
- Những thế kỉ trước chiếc bút chì có hình dáng khá to, gấp ba, bốn lần so với bút chì hiện nay.
- Thân ngoài được làm bằng gỗ, gồ ghề, không được mài nhẵn, trông rất lạ và rất vui mắt, nếu trông không kĩ, mọi người đều hiểu nhầm nó chỉ là một khúc gỗ thường mà thôi.
- Đầu cây bút là một khúc chì nhô ra, chắc vì khi đó, đồ chuốt bút chì chưa được phát minh nên ngòi bút khá cụt. Đó là những chiếc bút chì đầu tiên của nhân loại.
2. Cấu tạo
- Chiếc bút dài cờ một gang tay, hình dáng dài, nhỏ gọn.
- Ruột bên trong là khúc chì dài được bao bọc bởi một lớp gỗ. Lớp gỗ ngoài sau nhiều năm cải tiến thì đã được nhẵn phang hơn, gỗ tốt, khó gãy.
- Đầu bút khi mới mua chưa được chuốt nhọn.
- Ruột bút và lớp vỏ có chiều dài bằng nhau. Sau khi chuốt, đầu bút nhọn như hình tam giác.
- Chiếc bút chì còn hữu dụng hơn khi cuối thân bút được gắn vào một cục tẩy nhỏ.
3. Công dụng, ý nghĩa
- Từ nhỏ, ta đã được cầm chiếc bút, lựng khựng vẽ từng vòng tròn rồi dần dần là rèn từng nét chữ.
- Từ những trang vở đầu tiên những dòng viết, nét bút nghuệch ngoạc cũng để lại cho chúng ta những kỉ niệm về người bạn ấy.
- Chiếc bút chì còn cho ta những bức vẽ, những sự vật, con người được hiện bởi bàn tay khéo léo của những người hoạ sĩ tài ba. Để được một bức tranh chúng ta luôn cần đến bút chì, một chiếc bút khá hữu dụng.
- Bút chì còn có đặc điểm rất hay đó là khi chúng ta vô tình viết sai hay không đúng thì gôm được, còn bút bi thì bôi không được.
- Mặc dù giá thành chiếc bút rất vừa túi tiền và thậm chí là rẻ, nhưng nó có nhiều công dụng và có ích.
- Bút chì còn có nhiều độ đậm nhạt khác nhau nên nhà sản xuất đều chú thích độ đậm đó lên thân bút tạo thuận tiện cho người sử dụng khi mua.
- Hiện nay trên thị trường còn cho ra những chiếc bút chì bấm khá nhiều màu sắc, rất thu hút trẻ em.
- Chiếc bút chi được khắc tên sẽ trở nên rất ý nghĩa nếu chúng ta dùng làm quà tặng. Tuy chỉ là một vài chiếc bút chì bình thường nhưng trong nó là cả một tình thương yêu và một niềm tin rất lớn.
III. KẾT BÀI
Chiếc bút chì là một người bạn rất thân thiết và gần gũi đối với chúng ta, là một chiếc bút thông dụng, giá thành rẻ.
a, Đối tượng thuyết minh của đề bài trên là chiếc xe đạp
b, Dàn ý
+ Phần mở bài ( từ đầu… nhờ sức người): giới thiệu vai trò của chiếc xe đạp trong cuộc sống
+ Phần thân bài (tiếp… một hoạt động thể thao) trình bày cấu tạo từng phần của xe
+ Kết bài (còn lại) khẳng định sự tầm quan trọng của xe đạp
c, Để giới thiệu về chiếc xe đạp, bài viết đã trình bày cấu tạo chiếc xe gồm 3 hệ thống chính:
+ Gồm hệ thống chuyển động
+ Hệ thống chuyên chở
+ Hệ thống điều khiển
- Trình bày hợp lý theo cấu tạo chiếc xe, mỗi hệ thống cũng được phân tích rõ ràng, cụ thể.
d, Phương pháp thuyết minh trong bài: nêu định nghĩa, phương pháp liệt kê, dùng số liệu, nêu ví dụ, phân tích.
Đề 1:
Bạn tham khảo bài viết về Lịch sử Lá Quốc kì mà làm nhá !
Lá cờ đỏ sao vàng ngày nay đã trở nên quen thuộc, nhưng nhiều người còn chưa biết lần đầu tiên lá cờ ấy xuất hiện cách nay 60 năm; theo website Đảng Cộng Sản Việt Nam, người vẽ lá cờ ấy là một chiến sĩ cách mạng tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ 23/11/1940. Đó là Nguyễn Hữu Tiến, nguyên là thầy giáo, sinh ngày 5/3/1901 tại xã Yên Bắc, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam ngày nay. Nǎm 1927, Nguyễn Hữu Tiến tham gia tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Nǎm 1931 ông bị bắt và bị địch đưa ra nhà tù Côn Đảo. Nǎm 1935, ông cùng một số tù chính trị vượt ngục Côn Đảo, trở về đất liền, ông hoạt động cách mạng tại Cần Thơ, sau đó được phân công phụ trách công tác tuyên truyền, in ấn tài liệu cách mạng.
Chính trong thời gian này, ông được Xứ uỷ Nam Kỳ trao nhiệm vụ vẽ cờ Tổ quốc để sử dụng trong các cuộc đấu tranh. Ông đã vẽ lá cờ có nền đỏ và ngôi sao vàng nǎm cánh, thể hiện ý tưởng máu đỏ da vàng, tượng trưng cho dân tộc và sự đoàn kết các tầng lớp nhân dân bao gồm sĩ, nông, công, thương, binh trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Tâm huyết của tác giả khi sáng tạo ra lá cờ Tổ quốc được khắc họa rõ nét trong bài thơ của ông
Hỡi những ai máu đỏ da vàng
Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc
Nền cờ thắm máu đào vì nước
Sao vàng tươi, da của giống nòi
Đứng lên mau hồn nước gọi ta rồi
Hỡi sỹ nông công thương binh
Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh.
Mẫu cờ do Nguyễn Hữu Tiến vẽ đã được Xứ uỷ Nam Kỳ nhất trí và đã xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 23-11-1940, sau đó xuất hiện ở nhiều nơi trong phong trào Việt Minh (1941 - 1945). Nǎm 1945, Hồ Chủ Tịch đã ký sắc lệnh quy định mẫu Quốc kỳ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là nền đỏ với ngôi sao vàng nǎm cánh như mẫu vẽ của Nguyễn Hữu Tiến. Ngày 2-9-1945, cờ đỏ sao vàng chính thức xuất hiện trong buổi lễ Tuyên bố độc lập. Quốc hội khoá 1 ngày 2-3-1946 quy định cụ thể: ngôi sao vàng nǎm cánh đặt giữa nền đỏ hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài. Trong cuộc họp này, Bác Hồ đã nói: "Lá cờ đỏ sao vàng đã thấm máu đồng bào ta trong Nam Kỳ khởi nghĩa 1940. Chính lá cờ này đã cùng phái đoàn Chính phủ đi từ châu á, cờ đã có mặt trên khắp đất nước Việt Nam. Vậy thì trừ 25 triệu đồng bào, còn không ai có quyền thay đổi quốc kỳ và quốc ca".
Còn ông Nguyễn Hữu Tiến thì sao? Người vẽ cờ Tổ quốc ấy đã bị địch bắt và bị xử bắn ngày 28-8-1941 cùng các chiến sĩ Nam Kỳ khởi nghĩa tại Hóc Môn, trong đó có cả Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Vǎn Tần, Hà Huy Tập...
Đề 2:
Tết Trung thu, phải nói đến chiếc bánh nướng, bánh dẻo kì diệu, cũng giống như chiếc bánh chưng trong những ngày Tết Nguyên Đán.
Bánh dẻo có hai phần: Phần áo và phần nhân. Áo bánh phải chọn gạo nếp vàng, vùng Trôi hoặc vùng Bắc Ninh, Bắc Giang. Gạo được rang rồi xay, hoặc giã nhỏ mịn, nhào với nước đường thắng ngan ngát một mùi hương bưởi. Tất cả những công đoạn kể trên đều phải do một bàn tay thợ có “nghề” đã được “hạ sơn” đảm nhiệm. Người thợ không được sai sót một khâu nào. Sai một ly đi một dặm. Lúc ra khuôn, cái bánh hiện rõ những hoa văn chìm nổi của một bông hoa nở 8 cánh hoặc 10 cánh. Khuôn mặt áo bánh dẻo mịn, bánh ngọt đậm, thơm dịu. Phần nhân bánh nhất thiết phải do thợ cả quán xuyến với những khâu quan trọng đầy bí quyết nhà nghề như: rang vừng, ủ vừng, xử lí mứt bí khẩu, mứt sen, hạt dưa, hạnh nhân, ướp nhân, tạo hương cho nhân…
Nhân của bánh dẻo chay tịnh, nặng mùi hương đồng gió nội. Mãi về sau này, người ta mới phá cách cho thêm lạp sường vào. Nhân bánh nướng được cải tiến với nhiều sáng kiến. Mỗi hiệu bánh đều muốn có phần độc đáo của mình. Vả lại bánh nướng là “em” của bánh dẻo. Nó sinh sau đẻ muộn, mới xuất hiện từ năm 1930 nên lắm trò hơn. Ngoài mứt bí, hạt dưa, nhân bánh nướng còn có thêm cả ruột quả trứng ở giữa hoặc thịt lợn quay, gà quay, lạp sường…gọi là nhân thập cẩm… Bánh nướng cũng có loại nhân chay bằng đậu xanh mịn, dừa sợi, hạt sen.
Bánh dẻo trắng trong, bánh nướng có màu vàng sẫm và vàng nhạt do chỗ nướng già, nướng non tạo ra, thường có đường kính chừng 7-8cm, chiều dày 2,5-3cm. Cứ 4 cái bánh được xếp chồng lên nhau là một cân. Ngoài giấy bọc có in nhãn hiệu đẹp và nhiều màu sắc. Đặc biệt là các hiệu người Hoa rất chú ý in nhãn hiệu thật nổi. Nhiều nhà còn đặt làm những chiếc bánh dẻo đặc biệt to bằng chiếc đĩa tây hoặc gần bằng cái mâm, trên có hình mặt trăng tròn, lưỡng long tranh châu, song phượng…
Nghĩa là người thợ làm cả cái việc tạo hình trên chiếc bánh. Bánh dẻo, bánh nướng Trung thu nói lên cái tài hoa của người thợ. Ngay cả ở các hiệu lớn của người Hoa trước đây, thợ Việt Nam cũng chiếm 70-90%. Hằng năm, cứ đến gần Tết Trung thu là các hiệu lại rộn rã cho người về các vùng lân cận, đón các phường thợ làm bánh nổi tiếng ra Hà Nội vào mùa. Các chủ hiệu ưu ái họ lắm, mỗi người được chủ hiệu phát một áo choàng trắng, mũ trắng và một đôi guốc mộc. Các cửa hàng lấy làm hãnh diện đã mời được ông Toán làng Bưởi, các ông Ba Thiện xã Cào ở tỉnh Sờn, ông Quế Xuân Tảo Sở, hoặc ông Lý Bắc Ninh.
Sự thật đã có một thời vẻ vang, các hiệu bánh Tùng Hiên, Tràng Thái, Ngọc Anh, Cự Hương, Việt Hương… đã nổi danh xa gần ai cũng biết tiếng. Bánh của họ đủ sức cạnh tranh với các hiệu người Hoa như Tây Nam, Mỹ Kinh. Từ kẻ chợ đến vùng quê, nhân dân các tinh khác không bao giờ quên, sản phẩm của họ với cái “tạng”, cái “gu” Việt Nam. Có điều, các hiệu của người Hoa chú ý nhiều đến bao bì, quảng cáo hơn. Họ tiếp khách niềm nở với đủ những chi tiết tế nhị và tỉ mỉ.
Tết Trung thu, nhà nào cũng phải có bánh dẻo. Người nghèo cũng cố mua cho con cái một vài cái bánh dẻo. Không có bánh dẻo tức là không có Tết. Người ta làm quà cho ân nhân, khách quý, bạn thân…bằng bánh Trung thu. Chiếc bánh dẻo tròn, gợi hình mặt trăng thể hiện sự tròn đầy, viên mãn.
Vào những năm 1989 – 1990, những chiếc bánh Trung thu từng tham dự các Hội chợ quốc tế ở đức và Bun-ga-ri, gây sự chú ý đặc biệt và được tặng Huy chương độc đáo. Chúng mang mùi vị, thanh sắc Việt Nam, kèm theo cái nghệ thuật thưởng thức miếng ngon tinh tế, thanh nhã. Nó cũng là biểu tượng văn hóa của Việt Nam. Chiếc bánh Trung thu sẽ trường tồn. Chúng ta mong sao có thêm nhiều người thợ tài hoa kế tục nghệ thuật làm bánh Trung thu truyền thống, không những cho mọi người mà còn cho khách nước ngoài thưởng thức mỗi khi đến với mùa Tết Trung thu.
MB:
Có những người anh hùng dù bị gông tù giam cầm nhưng vẫn hiên ngang, ngẩng cao đầu hướng về tương lai. Có những người tù bị tra tấn dã man nhưng vẫn cất cao lời ca yêu nước, yêu dân. Bài “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh là một bài thơ tiêu biểu cho tinh thần như vậy, đồng thời khẳng định chí làm trai ở trên đời cần phải sống có lý tưởng, có mục tiêu.Nhắc đến đảo Côn Lôn, chúng ta lại nhớ đến nhà tù Côn Đảo, nơi đã giam giữ biết bao nhiêu người con cách mạng. Nơi đó có máu, có nước mắt và có cả những khát khao được đập tung cánh cửa nhà tù, ra với thế giới bên ngoài để kháng chiến chống lại kẻ thù.
KB:
Người tù khổ sai chi con việc bị đày đọa ở nhà tù Côn Đảo chỉ là “lỡ bước”, và tự nhận mình là kẻ “vá trời”. Khi làm việc lớn thì những việc như thế này không có gì làm chùn bước được. Những việc gian nan, chông gai còn rất nhiều nên người tù xem rằng không đáng kể lể. Một chí khí thật ngang tàng, một châm ngôn sống khiến người khác phải ngưỡng mộPhan Châu Trinh bằng ngòi bút phóng khoáng, giọng điệu thơ hào hùng đã khắc họa thành công hình ảnh người chiến sỹ cách mạng vẫn luôn ngang nhiên, ý chí quật cường. Đó là hình tượng của những người chiến sỹ cách mạng giữ nước, chống giặc ngoại xâm.
CHúc bạn hc tốt!
MB:Côn Đảo trước kia được coi là “địa ngục trần gian”, nơi thực dân Pháp cho xây dựng những nhà tù giam cầm các chiến sĩ yêu nước. Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” được sáng tác khi nhà yêu nước Phan Chu Trinh bị bắt và giam cầm ở nơi đây. Bài thơ toát lên vẻ đẹp của người chiến sĩ kiên trung dù bị đày ải, khổ sai nhưng vẫn mang dáng vẻ chí khí, bất khuất trước kẻ thù.
Ngay từ những câu thơ đầu bài thơ, Phan Chu Trinh đã làm hiện lên hình ảnh một người anh hùng hiên ngang giữa đảo xa:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non
KB:Mượn câu chuyện thần thoại Nữ Oa đội đá vá trời, Phan Chu Trinh nói lên cái chí lớn của đời mình: tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Đối với ông, đập đã cũng chỉ là một “việc con con”, còn theo đuổi hoài bão mới thực sự là hành trình gian nan và thử thách. Ông coi thường những vất vả, nhọc nhằn trước mắt để giữ ý chí vững bền và hiên ngang trước kẻ thù.
“Đập đá ở Côn Lôn” – nhan đề bài thơ là về chuyện đập đá nhưng ý thơ không chỉ đơn giản là những cực nhọc trong cảnh tù đầy. Toàn bài thơ hiện lên hình ảnh người tù yêu nước cao lớn sừng sững, đứng hiên ngang giữa đất trờ, bất chấp mọi gian khổ để đi theo tiếng gọi của lý tưởng. Đó chính là tư thế hiên ngang của người anh hung Việt Nam trong những năm chiến đấu vì tự do, độc lập của nước nhà.
Bạn tham khảo dàn ý sau đây:
I. Mở bài
Giới thiệu chung về tầm quan trọng của bút bi: “Nét chữ là nết người”. Thật vậy, câu thành ngữ ngắn gọn đã đi sâu vào trong tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam, nhắc nhở ta về học tập cũng như tầm quan trọng của nét chữ. Bởi học tập là một quá trình đầy khó khăn vất vả để xây dựng những nhân tài phục vụ cho tổ quốc ngày càng tươi đẹp. Và trong quá trình gian nan đó, đóng góp một công lao không nhỏ chính là cây bút bi.
II. Thân bài
1. Nguồn gốc, xuất xứ
Được phát minh bởi nhà báo Hungari là Lazo Biro vào những năm 1930 quyết định và nghiên cứu. Ông phát hiện mực in giấy rất nhanh khô cứu tạo ra một loại bút sử dụng mực như thế.2. Cấu tạo
Vỏ bút: Ống trụ tròn dài từ 14 - 15 cm được làm bằng nhựa dẻo hoặc nhựa màu, trên thân thường có các thông số ghi ngày, nơi sản xuất.Ruột bút: Bên trong, làm từ nhựa dẻo, chứa mực đặc hoặc mực nước.Bộ phận đi kèm: Lò xo, nút bấm, nắp đậy, trên ngoài vỏ có đai để gắn vào túi áo, vở.3. Phân loại
Kiểu dáng và màu sắc khác nhau tùy theo lứa tuổi và thị hiếu của người tiêu dùng.Màu sắc đẹp, nhiều kiểu dáng (có sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hoá trong bài)Hiện nay trên thị trường đã xuất hiện nhiều thương hiệu bút nổi tiếng.4. Nguyên lý hoạt động, bảo quản
Nguyên lý hoạt động: Mũi bút chứa viên bi nhỏ, khi viết lăn ra mực để tạo chữ.Bảo quản: Cẩn thận.5. Ưu điểm, khuyết điểm
- Ưu điểm:
Bền, đẹp, nhỏ gọn, dễ vận chuyển.Giá thành rẻ, phù hợp với học sinh.- Nhược điểm: Vì viết được nhanh nên dễ giây mực và chữ không được đẹp. Nhưng nếu cẩn thận thì sẽ tạo nên những nét chữ đẹp mê hồn.
- Phong trào: “Góp bút Thiên Long, cùng bạn đến trường” khơi nguồn sáng tạo.
6. Ý nghĩa
Càng ngày càng khẳng định rõ vị trí của mình.Những chiếc bút xinh xinh nằm trong hộp bút thể hiện được nét thẩm mỹ của mỗi con ngườiDùng để viết, để vẽ.Những anh chị bút thể hiện tâm trạng:Như người bạn đồng hành thể hiện ước mơ, hoài bão… của con người.“Hãy cho tôi biết nét chữ của bạn, tôi sẽ biết bạn là ai.”III. Kết bài
Kết luận và nhấn mạnh tầm quan trọng của cây bút bi trong cuộc sống: Ý nghĩa của việc sử dụng yếu tố nghệ thuật trong văn bản thuyết minh.
Giới thiệu về đảo Hòn Khoai
Diện tích đảo Hòn Khoai chỉ khoảng 4 km2, nằm ở phía đông nam Mũi Cà Mau, thuộc xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển. Đỉnh hòn cao 318 m so với mặt nước biển, xung quanh còn có Hòn Lớn, Hòn Nhỏ, Hòn Tượng, Hòn Sao, Hòn Đồi Mồi, tạo thành quần đảo Hòn Khoai nhấp nhô giữa biển.
- Trong lịch sử, Hòn Khoai có nhiều tên khác như: đảo Giáng Tiên, hòn Độc Lập, hay đảo Poulop đặt vào thời Pháp. Riêng người dân địa phương thì quen gọi là Hòn Khoai vì hình dáng giống như một củ khoai khổng lồ.
Nơi đây có thảm rừng nguyên sinh phủ dày, thuộc hệ sinh thái rừng nhiệt đới hải đảo. Trong đó, hệ thực vật rất phong phú, với hơn 1.400 loài: Cây ăn trái gồm xoài, dừa... Cây lấy gỗ gồm lim, bằng lăng, chiêu liêu, dầu rái, muỗng, quế quan, rè vàng, thị rừng, trám mạo, trâm trắng... Cây làm thuốc có cốt toái bổ lá lớn, cốt toái bổ lá nhỏ, dây tiết dê, huyết rồng, khoai mài, ngũ gia bì, quế quan, sầu đâu, thần thông, thiên kim đằng, thiên niên kiện...
- Dưới tán rừng trên đảo là nơi trú ngụ của nhiều loài động vật hoang dã như heo rừng, kỳ đà, trăn, rắn... Vùng biển quanh đảo sạch trong, kín gió, là nơi neo đậu, tránh bão của nhiều tàu thuyền ngư dân, đây cũng là nơi sinh sống của nhiều loài sinh vật biển như mực, tôm hùm, tôm tít, cá mú, cá bốp... Ngoài ra, trên đảo còn có rất nhiều hoa vong đỏ, bằng lăng tím. Đặc biệt, khi mùa xuân về trên Hòn Khoai, hoa mai nở vàng khắp đảo.
Trên đảo có 2 bãi biển, gồm Bãi Lớn ở phía Đông Nam và Bãi Nhỏ ở phía Bắc, với những viên đá nằm ngổn ngang, chồng chất lên nhau chạy dài khắp bãi. Đường đi lại trên đảo có một con đường chính từ Bãi Lớn đến đỉnh đảo, dài khoảng 3 km đã được trải nhựa phẳng phiu. Trên đảo còn có nhiều dòng suối tự nhiên, trong đó có 2 suối lớn, nước ngọt chảy quanh năm, là nguồn cung cấp nước cho đảo và tàu đánh cá quanh khu vực.
Đỉnh hòn có ngọn hải đăng do Pháp xây dựng từ 1920, hình khối vuông, mỗi cạnh dài 4m, cao 12.5m, kết cấu bằng đá hộc và xi-măng, công suất quét sáng bán kính 35km. Hải đăng Hòn Khoai là một trong những công trình đèn biển có mặt sớm nhất tại hải phận Việt Nam, dù đã gần 100 năm nhưng kiến trúc vẫn còn nguyên vẹn, và nằm trong hệ thống đèn biển Cần Giờ - Côn Đảo - Hòn Khoai - Phú Quốc, chiếu sáng cho tàu thuyền qua lại trên biển.
- Tại ngọn hải đăng này, cuối năm 1940, thầy giáo, chiến sĩ cách mạng Phan Ngọc Hiển đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và giành thắng lợi, ghi mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc. Năm 1990, đảo Hòn Khoai Cà Mau đã được công nhận Di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia.
Theo thông tin về đảo Hòn Khoai, hiện chưa có nhiều người dân sinh sống mà chủ yếu là các cán bộ, chiến sỹ Hải quân, lực lượng Biên phòng, kiểm lâm, với nhiệm vụ chính là cùng phối hợp đảm bảo an ninh, trật tự cho khu vực đảo, nhất là sẵn sàng cứu giúp ngư dân khi gặp nạn, giông bão... Trong quy hoạch, Khu du lịch sinh thái cụm đảo Hòn Khoai có quy mô khoảng 561ha, bao gồm diện tích rừng, khu vực quân sự, dịch vụ hàng hải và khu di tích lịch sử...
Du lịch đảo Hòn Khoai
Tàu chở khách du lịch Hòn Khoai sẽ ghé Bãi Nhỏ, khách xuống thuyền con để vào bờ chừng 50m. Phía bên phải là một bãi đá trứng thật đẹp như có bàn tay ai đó sắp đặt. Bước lên bờ rợp bóng cây phong ba, phi lao vi vu theo gió. Phía trên là đồn biên phòng 700, dựa lưng sát vách núi, loáng thoáng bóng áo xanh của những người lính giữ đảo. Hạt kiểm lâm cũng nằm cạnh đó, thêm vài ba quán bán nước giải khát và hàng tạp hóa phục vụ nhu cầu cơ bản trên đảo.
Hành trình đầu tiên là lên đỉnh đảo, du khách sẽ vượt chặng đường khoảng 3km theo hình trôn ốc, với những đoạn dốc cao, lổn ngổn đá tảng lớn nhỏ, lác đác những thân cây cổ thụ to lớn đến vài người ôm không xuể... thi thoảng ngang qua những con suối nước trong veo... bắt gặp những chú sóc đen chuyền cành thoăn thoắt, hay đàn khỉ nháo nhác tò mò, cùng tiếng chim hót líu lo như đón chào khách đến thăm...
- Tới đỉnh, du khách sẽ thấy ngọn hải đăng vươn cao trên nền trời thăm thẳm, kề bên có bia ghi sơ lược cuộc khởi nghĩa năm xưa, cùng mấy dãy nhà xây từ thời Pháp thuộc, nay chơ vơ hoang phế, chung quanh là nhiều cây xoài, mít, trái sai oằn, cùng những luống cải, rau xanh tươi mơn mởn...
- Theo cầu thang xoắn ốc lên ngọn hải đăng, không gian mở ra xanh biếc, mây trời lộng gió khơi xa... Trên đây còn có kính viễn vọng, cho bạn ngắm nhìn các hòn đảo vây quanh, hay hướng về mũi Cà Mau để một lần được chiêm ngưỡng từ xa mũi đất thiêng liêng của tận cùng Tổ quốc, mà không dễ gì thấy được nếu không ra đến đảo.
Trở xuống núi, bạn có thể vòng qua phía Đông tiếp tục khám phá đảo Hòn Khoai. Men theo con đường nhựa thoai thoải, đi giữa những tán cây rừng rợp mát, sẽ dẫn bước bạn đến Bãi Lớn với bờ biển trong xanh, sóng lăn tăn vỗ về... trên là rừng cây, đá núi, đan xen hài hòa với nhau, tạo nên cảnh đẹp hoang sơ.
Sau chuyến du ngoạn khắp đảo, sẽ thêm trọn vẹn nếu bạn thưởng thức các món hải sản tươi rói ngay trên bờ biển, giữa không gian sóng biển rì rào... Trong tương lai không xa, đảo Hòn Khoai sẽ gần hơn với du khách và trở thành “hòn đảo ngọc” trên vùng biển phía Tây Nam của Tổ quốc.