K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

“Qua đèo ngang” là bài thơ nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan. Bằng giọng văn tinh tế, điêu luyện, tác giả đã cho độc giả trải nghiệm những màu sắc, hình ảnh gần gũi mà nên thơ. Đồng thời, ta cũng của nhận được tâm ý của tác giả ẩn chứa trong từng câu chữ.

Được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bài thơ “Qua đèo ngang” được mở đầu bằng hai câu đề:

“Bước tới đèo ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen lá, đá chen hoa”

Chỉ hai câu thơ ngắn, tác giả đã nói được thời gian, địa điểm và cả quang cảnh nơi tác giả đang đặt chân đến. Cảnh vật được nhắc đến thật tự nhiên vì tác giả chỉ “bước đến” rồi tức cảnh sinh tình chứ không hề có ý làm thơ. Cái “bóng xế tà” gợi một nỗi cô đơn, buồn man mác, lại cũng có chút tiếc nuối về một ngày sắp qua đi ẩn chứa trong câu chữ. Ở đèo ngang, “cỏ cây chen lá, đá chen hoa”. Thiên nhiên, thực vật ở đây được nhân hóa “chen” nhau tạo cảm giác xô bồ, đông đúc mà sống động đến lạ. Cây cỏ, đến hòn đá cũng tràn đầy năng lượng. Sức sống mãnh liệt của chúng trong cảnh chiều tàn lại khiến cho tác giả mơ hồ có thật nhiều suy nghĩ.

Hai câu thực là khi tác giả đã ở trên cao, nhìn xuống phía dưới đèo Ngang, phóng xa tầm mắt và nhìn vạn vật dưới đèo. Không chỉ còn là cây cỏ, đá núi mà ở đây, tác giả còn thấy cả người, cả nhà. Tức là sự sống vẫn tồn tại nơi đây, không kém gì cây cỏ. Thấp thoáng bóng dáng con người đang chăm chỉ làm việc:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ với những từ láy để thể hiện hai câu thơ này. Nhưng dường như, sự sống con người ở đây thật hiu hắt, chỉ “lom khom” làm việc, còn “lác đác” nhà ở. Cảnh vật thật ảm đạm, thê lương. Giữa cảnh vật hùng vĩ, con người thật nhỏ bé, dường như thiên nhiên đã “nuốt trọn” lấy con người.

Tiếp theo, hai câu luận là nỗi buồn được bộc lộ rõ nét qua những từ ngữ não lòng:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Vẫn sử dụng từ láy trong câu thơ, nhưng từ láy ở câu thơ này mang tính chất mạnh hơn, thể hiện tiếng lòng tha thiết của tác giả. Ở đây, tác giả còn sử dụng câu thơ điển tích xưa về vua mất nước đã hóa thành con cuốc, chỉ biết kêu “cuốc cuốc”. Nỗi đau mất mát quá lớn gợi sự thê lương, thảm thiết đến nao lòng. Còn “gia gia” là nỗi thương nhà, tiếng gọi từ chính con tim gọi về chốn chưa. Cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ rõ rệt, độc giả có thể cảm nhận được tấm lòng yêu nước, thương nhà của Bà Huyện Thanh Quan.

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước

Một mảnh tình riêng ta với ta”

Cảnh vật hùng vĩ trái ngược với trái tim nhỏ bé của tác giả. Tác giả muốn ôm trọn lấy cảnh vật không muốn rời. Cảnh vật, núi non, đất trời như níu chân thi sỹ không buông. Nhưng đứng trước nó, tác giả lại dâng lên sự cô đơn trong lòng. Khung cảnh càng lớn thì lòng lữ khách càng hiu quạnh. Nỗi lòng tác giả, ai thấu hiểu ? Hết thúc bài thơ như một tiếng thở dài nuối tiếc của tác giả.

Một cảnh tượng hùng vĩ, một tâm hồn bao la được tóm gọn trong bài thơ "Qua đèo ngang". Phải thật giàu cảm xúc, phải có một tấm lòng yêu nước da diết mới có thể viết lên được những câu chữ tuyệt vời như vậy. Và Bà Huyện Thanh Quan đã làm được điều đó.

Xác định mở bài,thân bài,kết bài



1
7 tháng 11 2017

“Qua đèo ngang” là bài thơ nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan. Bằng giọng văn tinh tế, điêu luyện, tác giả đã cho độc giả trải nghiệm những màu sắc, hình ảnh gần gũi mà nên thơ. Đồng thời, ta cũng của nhận được tâm ý của tác giả ẩn chứa trong từng câu chữ.

=> Mở bài.

Được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bài thơ “Qua đèo ngang” được mở đầu bằng hai câu đề:

“Bước tới đèo ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen lá, đá chen hoa”

Chỉ hai câu thơ ngắn, tác giả đã nói được thời gian, địa điểm và cả quang cảnh nơi tác giả đang đặt chân đến. Cảnh vật được nhắc đến thật tự nhiên vì tác giả chỉ “bước đến” rồi tức cảnh sinh tình chứ không hề có ý làm thơ. Cái “bóng xế tà” gợi một nỗi cô đơn, buồn man mác, lại cũng có chút tiếc nuối về một ngày sắp qua đi ẩn chứa trong câu chữ. Ở đèo ngang, “cỏ cây chen lá, đá chen hoa”. Thiên nhiên, thực vật ở đây được nhân hóa “chen” nhau tạo cảm giác xô bồ, đông đúc mà sống động đến lạ. Cây cỏ, đến hòn đá cũng tràn đầy năng lượng. Sức sống mãnh liệt của chúng trong cảnh chiều tàn lại khiến cho tác giả mơ hồ có thật nhiều suy nghĩ.

Hai câu thực là khi tác giả đã ở trên cao, nhìn xuống phía dưới đèo Ngang, phóng xa tầm mắt và nhìn vạn vật dưới đèo. Không chỉ còn là cây cỏ, đá núi mà ở đây, tác giả còn thấy cả người, cả nhà. Tức là sự sống vẫn tồn tại nơi đây, không kém gì cây cỏ. Thấp thoáng bóng dáng con người đang chăm chỉ làm việc:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ với những từ láy để thể hiện hai câu thơ này. Nhưng dường như, sự sống con người ở đây thật hiu hắt, chỉ “lom khom” làm việc, còn “lác đác” nhà ở. Cảnh vật thật ảm đạm, thê lương. Giữa cảnh vật hùng vĩ, con người thật nhỏ bé, dường như thiên nhiên đã “nuốt trọn” lấy con người.

Tiếp theo, hai câu luận là nỗi buồn được bộc lộ rõ nét qua những từ ngữ não lòng:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Vẫn sử dụng từ láy trong câu thơ, nhưng từ láy ở câu thơ này mang tính chất mạnh hơn, thể hiện tiếng lòng tha thiết của tác giả. Ở đây, tác giả còn sử dụng câu thơ điển tích xưa về vua mất nước đã hóa thành con cuốc, chỉ biết kêu “cuốc cuốc”. Nỗi đau mất mát quá lớn gợi sự thê lương, thảm thiết đến nao lòng. Còn “gia gia” là nỗi thương nhà, tiếng gọi từ chính con tim gọi về chốn chưa. Cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ rõ rệt, độc giả có thể cảm nhận được tấm lòng yêu nước, thương nhà của Bà Huyện Thanh Quan.

“Dừng chân đứng lại trời, non, nước

Một mảnh tình riêng ta với ta”

Cảnh vật hùng vĩ trái ngược với trái tim nhỏ bé của tác giả. Tác giả muốn ôm trọn lấy cảnh vật không muốn rời. Cảnh vật, núi non, đất trời như níu chân thi sỹ không buông. Nhưng đứng trước nó, tác giả lại dâng lên sự cô đơn trong lòng. Khung cảnh càng lớn thì lòng lữ khách càng hiu quạnh. Nỗi lòng tác giả, ai thấu hiểu ? Hết thúc bài thơ như một tiếng thở dài nuối tiếc của tác giả.

=> Thân bài.

Một cảnh tượng hùng vĩ, một tâm hồn bao la được tóm gọn trong bài thơ "Qua đèo ngang". Phải thật giàu cảm xúc, phải có một tấm lòng yêu nước da diết mới có thể viết lên được những câu chữ tuyệt vời như vậy. Và Bà Huyện Thanh Quan đã làm được điều đó.

=> Kết bài.

10 tháng 11 2019

Chọn C

26 tháng 9 2021

C. Um tùm, rậm rạp (mình trả lời muộn :(( )

Đề : Biểu cảm về bài thơ Qua Đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan BÀI LÀMBà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX . Bà tuy sáng tác không nhiều nhưng những tác phẩm của bà đều có giá trị to lớn . Ai đã từng đọc thơ của bà đều không thể quên được vẻ dịu dàng , trang trọng với nỗi buồn kín đáo, ẩn trong từng...
Đọc tiếp

Đề : Biểu cảm về bài thơ Qua Đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan

BÀI LÀM

Bà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX . Bà tuy sáng tác không nhiều nhưng những tác phẩm của bà đều có giá trị to lớn . Ai đã từng đọc thơ của bà đều không thể quên được vẻ dịu dàng , trang trọng với nỗi buồn kín đáo, ẩn trong từng câu chữ . Bài thơ “Qua Đèo Ngang” là một minh chứng tiêu biểu cho điều ấy

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá , lá chen hoa

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Dừng chân đứng lại trời,non,nước

Một mảnh tình riêng , ta với ta

Với thể thơ thất ngôn bát cú cùng phong cách trang nhã , bài thơ Qua Đèo Ngang đã cho thấy cảnh tượng Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút , thấp thoáng sự sống của con người nhưng hoang sơ , đồng thời thể hiện nỗi tâm tư cô đơn lẻ lỏi khi nhớ về quê hương mình giữa chốn ‘‘đất khách quê người’’

Mở đầu bài thơ là khung cảnh hoang vu , tĩnh mịch của Đèo Ngang lúc chiều tàn :

Bước đến Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá , lá chen hoa

Với nghệ thuật điệp từ (chen) , cách gieo vần lưng , vần chân nhà thơ đã liệt kê cảnh Đèo Ngang có cỏ , có cây , đá , lá , hoa là ta đã nhận ra nỗi buồn xa vắng .

Câu thơ đầu đã xuất hiện cụm từ “bóng xế tà” , trời đã về chiều . Bà Huyện Thanh Quan vì lần đầu xa nhà , xa quê mà gặp phải cảnh vật bát ngát núi rừng lúc chiều tà , chỉ sót lại vài tia nắng vàng vọt , yếu ớt . Điệp từ (chen) cùng với cách gieo vần chân , vần lưng khiến cho ta như hình dung được khung cảnh Đèo Ngang không phải cỏ cây được tỉa tót , cây trồng phẳng từng hàng mà cây cỏ ở đây um tùm , rậm rạp , chen chúc đón những ánh nắng yếu ớt còn sót lại cuối ngày . Cảnh vật hoang sơ , vắng vẻ làm cho bà thêm ngỡ ngàng . Từ “tà” là khái niệm sắp tàn lụi , biến mất . Yếu tố thời góp phần làm tăng thêm nỗi buồn của câu thơ , nói lên tiếng lòng của bao người tha hương . Cảnh tuy mang đầy sức sống hoang dã của rừng núi nhưng vẫn hiu hắt , tiêu điều . Đó chính là bản thân cảnh vật hay do hồn người phả vào cảnh vật . Bởi nếu người buồn thì cảnh vật nào vui bao giờ , nỗi buồn của tác giả như lan tỏa thấm vào vạn vật . Và rồi trên đỉnh Đèo Ngang , nữ thi sĩ đã phóng tầm mắt về phía xa để tìm kiếm chút sự sống linh động : xa xa dưới núi thấp thoáng bóng dáng của con người

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Với hai câu thơ thực tác giả đã sử dụng cụm từ láy “lom khom” , “lác đác” . Câu thơ đã gợi cho ta hình dung trong bóng hoang hồn , hiện lên hình ảnh thưa thớt của những chú tiều phu đang đốn củi , mấy quán chợ liêu xiêu trong gió . Những từ láy tượng hình “lom khom , lác đác” được đảo lên đầu câu như nhấn mạnh thêm cảnh vật thưa thớt , vắng lắng . Con người hiện lên trên cái ngút ngàn mênh mông của thiên nhiên không làm cho cảnh vật thêm tươi vui , nhộn nhịp mà càng làm cho bức tranh thiên nhiên vắng lặng , quạnh hiu hơn . Từ vài , mấy là những lượng từ chỉ số ít như khắc sâu sự rời rạc , vắng vẻ nơi đây . Cảnh vật nơi đây thưa thớt , đượm buồn và cái hình ảnh ấn tượng về sự vắng vẻ , lát đác , thoáng vắng cứ thêm đậm , thấm sâu vào lòng người xa xứ . Trong sự hiu quạnh đó , bỗng nhiên văng vẳng tiếng kêu đều đều man mác :

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Câu thơ sao mà tha thiết , khắc khoải đến thế ! Nghệ thuật ẩn dụ , đối đảo ngữ và sử dụng điển tích được bà Huyện Thanh Quan sử dụng một cách thuần thục và thật hay . Nghệ thuật chơi chữ “quốc quốc”,”gia gia” phải chăng chính là Tổ quốc và gia đình của bà hồi ấy ? Những âm thanh ấy vang lên sinh động , đượm buồn và khắc khoải triền miên không dứt . Nhưng có thật bà đã nghe được tiếng chim gia gia , chim quốc quốc hay chính là tưởng tượng của tác giả . Tiếng chim gia gia da diết phải chăng là nỗi nhớ nhung tha thiết của bà khi phải rời xa gia đình , vượt nghìn trùng vào kinh đô xứ Quế nhận chức “cung trung giáo tập” . Còn tiếng chim quốc quốc “nhớ nước đau lòng” khắc khoải ? Hay chính là tâm sự thầm kín , sự hoài niệm về quá khứ vàng son của đất nước . Chỉ với hai câu luận , ta đã thấy rõ được tư tưởng luôn hứng về quê hương , đất nước và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan . Ai bảo rằng , người phụ nữ trong xã hội phong kiến đương thời không có được những tình cảm thiêng liêng đó ! Thiên nhiên bao la đã gợi ra cho người thi sĩ bao suy tưởng lớn lao và bây giờ thiên nhiên lại kéo bà trở về với hiện thực một mình đơn lẻ :

Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta

Điệp từ (ta) , quan hệ từ (với) được đối lập với hình ảnh ‘‘Một mảnh tình riêng’’ tạo nên một phép đối thú vị ở câu kết . Ta như thấy được sự cô đơn , lẻ lỏi của bà Huyện Thanh Quan . Bốn chữ ‘‘dừng chân đứng lại’’ khiến ta như thấy được tiếng kêu sững lại của tác giả trước cảnh thiên nhiên bao la , ngút ngàn . Một cái nhìn mênh mông : trời , non , nước , nhìn xa lẫn nhìn gần , sâu trong bốn phía . Rồi nữ thi sĩ thấy lòng mình chùng xuống , giữa cái thiên nhiên bao la mênh mông vô hạn của vũ trụ như tương phản với cái nhỏ bé của nỗi tâm tư thầm kín , ‘‘mảnh tình riêng’’của bà . Cụm từ ‘‘ta với ta’’ không mang nỗi vui sướng hân hoan , thân thiết như của Nguyễn Khuyến mà lại trầm buồn , ưu uất . Một nỗi buồn cô đơn lẻ loi không một ai chia sẻ ngoài trời mây non nước bát ngát , mênh mông nơi đỉnh đèo xa lạ đối diện và chiêm ngưỡng thiên nhiên vô cùng tận trong ánh hoàng hôn vừa tắt . Đọc câu thơ ta không khỏi nghẹn ngào , mủi lòng trước sự cô đơn , trống vắng của nhà thơ .

Bài thơ ‘‘Qua Đèo Ngang’’ bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật tiêu biểu của bà Huyện Thanh Quan . Với lối tả cảnh ngụ tình điêu luyện hòa với giọng thơ nhẹ nhàng , sâu lắng , xao xuyến bâng khuâng . Những phép đảo , đối ngữ được tác giả sử dụng thật đắt , thật độc đáo . Cảnh Đèo Ngang hiện ra nên thơ , trầm buồn . Đó chính là bức tranh độc đáo bộc lộ niềm cảm hứng thiên nhiên trữ tình chan hòa với tình yêu quê hương đất nước đậm đà mà còn thể hiện bút pháp điêu luyện , trang nhã của một tài năng . Qua Đèo Ngang là bài thơ có một mà không hai .

[Các bạn nhận xét giúp mình với ! Nhận xét rõ ràng , sửa chữa và chấm điểm bài viết luôn thì càng tốt . Mình muốn có nhiều ý kiến để sửa bài thêm hay thôi ^^ Mình cám ơn mọi người trước]

2
12 tháng 12 2016

bài này bạn viết khá tốt. Nếu đk chấm mk sẽ cho bạn 8,5đ bài này

12 tháng 12 2016

Cám ơn bạn rất nhiều ^^

29 tháng 12 2021

Câu 1: Đoạn thơ trên được trích từ bài thơ: " Qua đèo Ngang "

Câu 2: Tác giả là Bà Huyện Thanh Quan

Câu 3: Thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật

Câu 4: Từ láy

Câu 5 : ( Bạn tham khảo nhé! )

=> Cho thấy cảnh thiên nhiên của đèo Ngang và cuộc sống, con người nơi đây.

Khác nhau: 
- Trong bài Bạn Đến Chơi nhà của Nguyễn Khuyến: 
+ ta: tác giả (Nguyễn Khuyến) 
+ ta: khách (bạn) 
=> quan hệ gắn bó hòa hợp. Chỉ 2 người, nhưng thể hiện sự đồng nhất trọn vẹn giữa chủ và khách. 

- Trong bài Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan: 

+ ta: đều chỉ tác giả (Bà Huyện Thanh Quan) 
=> tâm trạng buồn, cô đơn. Chỉ một người, một tâm trạng.

Cụm từ "ta với ta":
+ Bà Huyện Thanh Quan: một mình đối diện với chính mình biểu lộ sâu sắc và thấm thía sự cô đơn của tác giả trước khung cảnh thiên nhiên trời đất mênh mông hoang vắng nơi xứ lạ.
+ Nguyễn Khuyến: tôi với bác là chúng ta với nhau, thể hiện một tình bạn gắn bó keo sơn vừa kín đáo bộc lộ một chút tự hào chân chính về tình bạn ấy. Ta với ta trong thơ Nguyễn Khuyến là sự gặp gỡ giao lưu của một đôi bạn tri âm tri kỉ.

Giống: Cụm từ "ta với ta" đều được đặt ở vị trí cuối bài.
Khác:
*Qua Đèo Ngang:
- Tuy hai mà một (tác giả đối diện với chính mình).
- Thể hiện sự nhỏ bé, thưa thớt của con người trước thiên nhiên rộng lớn, hoang sơ, heo hút chốn Đèo Ngang.
*Bạn Đến Chơi Nhà:
- Tuy một mà hai (Chủ và khách).
- Thể hiện tình bạn đậm đà thắm thiết. Đó như một tiếng cười xòa và tiếng reo vui khi bạn đến nhà chơi.

20 tháng 4 2022

Câu rút gọn: Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà

TD:

+Làm sinh động cho câu văn

+SD từ ngữ phong phú làm  thu hút người đọc

23 tháng 6 2021

Gạch chân dưới câu rút gọn được sử dụng trong đoạn thơ dưới đây?

Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà, 

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa. 

Lom khom dưới núi, tiều vài chú, 

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà. 

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc, 

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia. 

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước, 

Một mảnh tình riêng, ta với ta. 

7 tháng 11 2021

Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia. 

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước, 

31 tháng 12 2021

a.trích trong văn bản qua đèo ngang. bà huyện thanh quan

b. thể thơ thất ngôn bát cú. thơ gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ

c.miêu tả về sự vắng vẻ, cô đơn của bà Huyện Thanh Quan khi đến đèo Ngang trước khung cảnh cây cối rậm rạp, con người nơi đây ít ỏi

d.điệp ngữ "chen". kiểu cách quãng

e. cụm từ ta với ta biểu hiện nỗi cô đơn sâu sắc của nhà thơ. “Một mảnh tình riêng” giữa cảnh trời cao đất rộng, trước thiên nhiên hoang sơ, vắng vẻ. “Ta” ở đây chỉ cùng một người, chỉ chủ thể trữ tình hay chính là tác giả.

f tớ ko biết

 

25 tháng 9 2016

Câu thơ xuất hiện cụm từ bóng xế tà và sự hiện diện của điệp từ chen cùng cách gieo vần lưng lá, đá đã tạo nên sự cô đơn, tĩnh mịch. Từ tà như diễn tả một khái niệm sắp tàn lụa, biến mất. Yếu tố thời gian làm cho câu thơ thêm phần buồn bã, nỗi buồn xa vắng.

Mình chỉ biết vậy thôi! Thông cảm

25 tháng 9 2016

“Qua đèo Ngang” là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bà Huyện Thanh Quan . Bài thơ được viết khi bà trên đường vào Phú Xuân, đi qua đèo Ngang- một địa danh nổi tiếng ở nước ta với phong cảnh hữu tình. Bằng giọng thơ man mác, hồn thơ tinh tế và lối thơ điêu luyện, “Qua đèo Ngang” không chỉ là bức tranh thiên niên đầy màu sắc mà còn bộc lộ tâm trạng cô đơn của tác giả, có chút gì đó nuối tiếc về thời phong kiến huy hoàng đã dần tàn lụi. Bài thơ “Qua đèo Ngang” được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mở đầu là hai câu đề:
Bước đến đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Chỉ với câu thơ đầu tiên tác giả đã khái quát lên toàn bộ về hoàn cảnh, không gian, thời gian khi viết bài thơ. Cách mở đầu rất tự nhiên, không hề gượng ép, tưởng như tác giả chỉ thuận chân “bước đến” rồi tức cảnh sinh tình trước khung cảnh đèo Ngang trong buổi chiều hoàng hôn “bóng xế tà”. Hình ảnh “bóng xế tà” lấy ý từ thành ngữ “chiều ta bóng xế” gợi cho ta một nét gì đó buồn man mác, mênh mang, có chút nuối tiếc về một ngày đang sắp qua. Trong khung cảnh hoàng hôn đẹp mà buồn ấy, tác giả chú ý đến một vài hình ảnh độc đáo của đèo Ngang “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Với việc nhân quá các loại cảnh vật qua động từ “chen” cùng với phép liệt kê hoàng loạt cho ta thấy nét sống động trong bức tranh khung cảnh này. Cỏ cây cùng với đá núi, lá và hoa đua nhau vươn lên đầy sức sống. Những hình ảnh nhỏ bé nhưng sức sống thật mãnh liệt. Trong ánh chiều ta lụi tàn mà còn bắt gặp được những hình ảnh này để lại cho ta thật nhiều suy nghĩ.

24 tháng 10 2021

nghệ thuật :sử dụng động từ ,điệp từ "chen"

24 tháng 10 2021

sử dụng điệp từ chen