Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
I – Mở bài:
- Giới thiệu chung về hình ảnh con trâu trên đồng ruộng, làng quê Việt Nam.
II – Thân bài:
1. Nguồn gốc, đặc điểm của loài trâu:
- Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy.
- Là động vật thuộc lớp thú, lông trâu có màu xám, xám đen; thân hình vạm vỡ, thấp, ngắn; bụng to; mông dốc; đuôi dài thường xuyên phe phẩy; bầu vú nhỏ; sừng hình lưỡi liềm…
- Trâu mỗi năm chỉ đẻ từ một đến hai lứa, mỗi lứa một con…
2. Lợi ích của con trâu:
a. Trong đời sống vật chất:
- Trâu nuôi chủ yếu để kéo cày, bừa, giúp người nông dân làm ra hạt lúa, hạt gạo.
- Là tài sản quý giá của nhà nông.
- Cung cấp thịt; cung cấp da, sừng để làm đồ mĩ nghệ…
b. Trong đời sống tinh thần:
- Trâu là người bạn thân thiết với tuổi thơ của trẻ em ở nông thôn một buổi đi học, một buổi đi chăn trâu:thổi sáo, đọc sách, thả diều, đánh trận giả khi chăn trâu…
*Bổ sung hai câu thơ của nhà thơ Giang Nam viết về tuổi thơ chăn trâu:
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:
"Ai bảo chăn trâu là khổ ?"
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
- Con trâu với lễ hội ở Việt Nam:
+ Hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng.
+ Lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên.
+ Là biểu tượng của Sea Game 22 Đông Nam Á được tổ chức tại Việt Nam.
+…
III – Kết bài:
- Khẳng định lại vai trò của con trâu trong đời sống người nông dân ở làng quê Việt Nam.
- Nêu suy nghĩ, tình cảm của bản thân.
>> Tham khảo nhé <<
Dàn Bài
MB1: Bao đời nay, hình ảnh con trâu lầm lũi kéo cày trên đồng ruộng là hình ảnh rất quen thuộc, gần gũi với ng` nông dân VN. Vì thế ,trâu là ng` bạn rất quan trọng của họ.
" Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy aj mà quản công "
MB2: " Con trâu đi trước cái cày theo sau ". Hình ảnh những chú trâu lầm lũi kéo cày quá đỗi thân thuộc với làng quê VN .Con trâu từ lâu là người bạn thân thiết với đời sống Việt. Và ko chỉ có thế, người nông dân xưa còn quan niệm " con trâu là đầu cơ nghiệp "
B-Thân Bài
1. Nguồn Gốc
- Trâu là động vật họ Bò, phân bộ Nhai lại, nhóm Sừng rỗng, bộ Guốc chẵn. Trâu Vn có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy.
2. Đặc Điểm
2.1: Đặc điểm hình dạng
- Trâu có một thân hình vạm vỡ, bụng tròn to, bốn chân chắc như bốn cột nhà nhỏ, vai u những bắp thịt rất khỏe.
- Hai sừng trâu rỗng, cong vút, hướng vào nhau rất đỗi hùng dũng, đầy tự hào như ý thức được vũ khí lợi hại của mình. Người ta thường phân biệt trâu lành với trâu dữ một phần nhờ đôi sừng. Những con sừng dài, uốn cong hình lưỡi liềm, cặp mắt to dữ là con trâu khỏe.
- Da mũi trâu rất dày, có thể xỏ dây qua kéo đi. Mắt trâu to, tròn lồi nhưng thị lực thì kém. Bù lại, hai tai trâu rất thính, lúc nào cũng vểnh lên nghe động tĩnh xung quanh.
- Trâu có đặc điểm nổi bật là bị mất hàm răng trên. Dựa vào đặc điểm này, người xưa đã sáng tạo ra câu chuyện " Trí khôn của ta đây " ( trâu cười vì hổ ngu ngốc đã đập răng vào đá, bị gãy mất hàm răng trên)
2.2: Đặc điểm tiêu hóa ( thói quen ăn uống )
- Đặc điểm riêng biệt không thể không nhắc đến là trâu thuộc bộ Nhai lại. Trâu ăn cỏ rất nhanh dường như chỉ nuốt chứ không nhai. Khi ăn, cỏ sẽ được dẫn xuống dạ dày nhưng chưa tiêu hóa ngay mà được cất ở dạ cỏ. Sau đó những lúc thật sự thảnh thơi nhàn rỗi, trâu sẽ ợ cỏ ở dạ cỏ lên nhai lại. Lúc này cỏ mới thực sự được tiêu hóa. Ngẫm ra trâu cũng thật vất vả nhọc nhằn, ngay cả miếng ăn cũng không thể thưởng thức một lần cho trọn vẹn.
2.3: Đặc điểm sinh sản
- Một năm trâu chỉ đẻ có một lứa. Con trâu con được gọi là nghé ọ. Nghé sơ sinh năng j khoảng 20-25 kg. Nghé lớn rất nhanh nhưng sừng chưa mọc vội mà để lớn lên mới dần chịu nhú ra.
3. Vai Trò Của Trâu
3.1: Con trâu trong lao động sản xuất
- Trâu to khỏe, vạm vỡ, cần cù, chịu thương chịu khó nên người nông dân dùng nó vào việc kéo cày kéo bừa. Từ sáng sớm tinh mơ, trâu đã cùng người "trên ruộng cạn, dưới đồng sâu". Cho đến khi mặt trời đứng bóng ta vẫn thấy trâu miệt mài theo những ruộng cày.
- Trâu bận rộn theo vụ mùa của nhà nông và những ngày rảnh rỗi, trâu còn kéo xe chuyên chở vật dụng hoặc kéo gỗ giúp người.
3.2: Trâu với đời sống vật chất của người
Một đời trâu dâng hiến cho người. Nó còn cung cấp thịt làm thức ăn ngon, da làm trống, sừng làm đồ mỹ nghệ tạo ra những sản phẩm độc đáo.
3.3: Trâu với đời sông văn hóa con người ( trâu đem lại nhiều ý nghĩa trong đời sống văn hóa con người )
- Lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn đã đi vào thơ ca:
" Dù ai buôn đâu bán đâu
Ngày 10 tháng 8 chọi trâu trăm nghề
Dù ai buôn bán trăm nghề
Mùng 10 tháng 8 thì về chọi trâu "
Ngoài ý nghĩa thi xem trâu của aii được nuôi béo khỏe, xã nào nuôi trâu tốt, lễ hội chọi trâu còn có ý nghĩa cầu mong một vụ mùa gieo trồng tốt đẹp, bội thu.
- Bạn hãy đến xem hội đua trâu ở nhiều làng quê VN. Được người xem cổ vũ nhiệt tình sôi nổi, những chú trâu bình thường chậm chạp là vậy mà lúc đó chạy nhanh dũng mãnh không kém gì những chú ngựa.
- Và thật thú vị khi trâu được chọn làm biểu tượng SEA GAMES lần thứ 22, một lễ hội thể thao đông nhất Đông Nam Á năm 2003. Chú trâu vàng được chọn cho lễ hội, tượng trưng cho sức mạnh của người VN với những phẩm chất tốt đẹp: hiền lành, cần cù, khỏe mạnh và đem lại hạnh phúc cho con người.
3.4: Trâu còn có một vai trò không nhỏ trong đời sống tình cảm của người
a) Trâu là hình ảnh thân thương của làng quê VN
Bước chân đến mỗi cánh đồng hay thôn xóm bản làng VN, hình ảnh con trâu thân thuộc như một dấu ấn báo hiệu xứ sở quê hương. Vào những ngày nông nhàn tháng 3 hay tháng 8, giữa biển lúa xanh rờn trên cánh đồng quê, ven sườn đê, từng đàn trâu thong thả gặm cỏ gợn lên cuộc sống êm ả tự bao đời.
b) Trâu là người bạn của nông dân
Dân gian xưa có bài ca dao:
" Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa ".
Trâu đã gắn bó với người nông dân tần tảo sớm khuya giữa buổi trưa hè: mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày" hay trong cái rét thấu xương của tháng giêng, đén mùa gặt trâu và người hăm hở đón những bông lúa vàng. Trâu kéo xe đi trước, người đi sau cùng vui vẻ phần khởi trước vụ mùa bội thu.
c) Với tuổi thơ, trâu là người bạn thân yêu
Ký ức tuổi thơ của những đứa trẻ lớn lên từ làng quê, có lẽ vẫn lưu giữ hình ảnh những chú trâu hiền lành dễ mến.Chăn trâu, ngồi trên lưng trâu thong dong hay vừa chăn trâu, vừa thả diều chơi đùa với lũ bạn... Những kỷ niệm đó in sâu trong tấm khảm trở thành kỷ niệm ngọt ngào, dịu mát lòng trước cuộc đời đầy những lo toan mệt mỏi. Chẳng vì thế mà hình ảnh cậu bé ngồi trên lưng trâu thổi sáo giữa đồng lúa bát ngát xanh đã đi vào bức tranh dân gian tự nhiên, đẹp đẽ như một mảnh tâm hồn đất Việt.
4. Để Trâu Đuợc Khoẻ Mạnh, Phục Vụ Người, Chúng Ta Cần Chú Ý Đến Việc Chăm Sóc, Phòng Bệnh Cho Chúng
- Ngoài việc chăn thả trâu, chúng ta cần cắt cỏ để trâu ăn đủ no, dự trữ cỏ rơm cho trâu.
- Cần tắm thường xuyên cho trâu, quét dọn vệ sinh chuồng trại thoáng mát về mùa hè, ấm áp vào mùa đông.
- Để phòng bệnh lở mồm long móng, Người ta thường cho một ít muối ăn vào rơm, cỏ.
C. Kết Bài
VD1: Ngày nay trên đà phát triển của công nghiệp cơ khí máy móc, trên nhiều cánh đồng khắp đất nước VN chúng ta, nhiều con trâu sắt hiện đại ( máy cày, máy bừa ) đã và đang ầm ầm chạy ngay chạy dọc. Thế nhưng những chú trâu thân thuộc vẫn mãi mãi là người bạn thân yêu của ngưòi dân VN chúng ta.
VD2: Biết bao thế kỷ trôi qua, có lẽ từ nền văn minh lúa nước của người Việt khởi nguồn thì con trâu cũng trở thành báu vật của người nông dân từ đó. Ngày nay, dẫu máy cày, máy kéo, đã thay sức trâu rất nhiều, nhưng trâu vẫn mãi là vật yêu, vật thiêng trong sâu thẳm tâm hồn người dân VN.
- Mở bài: Nêu lợi ích của việc tham quan, du lịch.
- Thân bài: Lợi ích cụ thể của những chuyến tham quan, du lịch đối với học sinh.
+ Vể thể chất, tham quan, du lịch khiến cho học sinh thêm khỏe mạnh.
+ Về tình cảm, tham quan, du lịch giúp học sinh tìm thấm được những niêm vui cho bản thân, có thêm tình yêu đối với thiên nhiên, với quê hương đất nước.
+ Về kiến thức, tham quan, du lịch giúp học sinh hiểu cụ thể hơn, sâu hơn những điều được học trong trường qua những điều mắt thấy tai nghe; thêm nhiều bài học có thể còn chưa có trong sách vở của nhà trường.
- Kết bài: Khẳng định tác dụng của tham quan, du lịch.
Nhân vật lão Hạc:
-Vì nhà quá nghèo nên Lão Hạc đành bán cậy Vàng đi.-kỉ vật của con trai để ali5.
-Yêu thương súc vật
-Yêu thương con người hết mực giàu đức hy sinh.
-Có lòng tự trọng.
A. Mở bài
Nam Cao (1915-1951) là nhà văn xuất sắc trong nền văn học hiện thực 1930- 1945. Ông để lại khoảng 60 truyện ngắn và cuốn tiểu thuyết “Sõng mòn”.
Bên cạnh đề tài người trí thức trong xã hội cũ, Nam Cao viết rất thành công về đề tài nông dân, những con người nghèo khổ đáng thương.
Lão Hạc là một truyện ngắn đặc sắc của Nam Cao viết về cuộc đời cô đơn và cái chết đầy thương tâm của một lão nông với tình nhân đạo bao la.
B. Thân bài:
- Lão Hạc một người nông dán nghèo khổ, bất hạnh.
- Tài sán: 3 sào vườn. 1 túp lều, 1 ***** vàng.
- Vợ chết sớm, cảnh gà trống nuôi con.
- Cô đơn: con trai “phẫn chí” đi đồn điền cao su, di biệt 5, 6 năm chưa vổ, lão thui thủi một mình.
- Tai họa dồn dập: trận ốm kéo dài 2 tháng 18 ngày. Trận bão phá tan cây cối, hoa lợi trong vườn. Làng mất mùa sợi. Giá gạo ngày một cao. Lão thất nghiệp càng túng thiếu, cùng quẫn.
- Rất yêu quý cậu Vàng, nhưng mỗi ngày cậu ãn hét 2 hào gạo. Lão Hạc phải bán cậu Vàng cho ngưừi ta giết thịt. Lão đau khổ, ân hận, càng cô đơn.
- Lão Hạc ăn cù chuối, sung luộc, cú ráy… và cuối cùng ăn bã chó đế tự tử. Thông qua nhân vật ỏng giáo, Nam Cao biểu lộ tình thương đối với lão Hạc
- Lão Hạc là mọt lảo nông chất phác, hiền lành, nhân hậu.
- Rất yêu con: thương con vì nghèo mà không lấy được vợ; đau đớn khi con trai ra đi phu; nhớ con qua những lá thư con gửi về; tiền bán hoa lợi và mảnh vườn đéu giữ lại cho con: “Mảnh vườn là cùa con ta… Của mẹ nó tậu thì nó hưởng…”.
- Rât yêu quý ***** mình nuôi: đặt lẽn là “cậu Vàng”; yêu quý cậu Vàng như người đàn bà hiếm hoi quý đứa con cầu tự, cho nó ãn trong bát sứ như nhà giàu, bắt rận và tắm cho nó, vừa uống rượu vừa tâm sự yêu thương. ***** là niềm vui, là một phần đời của Lão Hạc. Bi kịch: bán cậu Vàng, lão Hạc đau khổ cô đơn. Để nuôi thì không có tiền mua gạo cho cậu Vàng ăn, bán đi thì ân hận đau khổ, cảm thấy mình dã già rồi “còn đánh lừa một con chó… Lão Hạc nhân hậu, lão đã thành tình cám, quan hệ con người, như yêu tlnương một con người.
- Lão Hạc là một nông dàn nghèo khổ mà trong sạch giàu lòng tự trọng.
- Ông giáo mời ãn khoai, lão khước từ
- Quá lúng quẫn, chi ăn cù chuối, sung luộc…, nhưng lão đã từ chối “một cách gán như hách dịch” những gì ông giáo ngầm cho lão.
- Gửi lại ông giáo 30 dồng bạc, đổ lỡ chết thì “gọi là của lão có tí chút, còn bao nhiêu đành nhờ hàng xổm cả”.
- Trước khi ăn bả chó tự tử. lão gửi ông giáo mảnh vườn cho con; như ông giáo đã nói: “Cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào”…C. Kết bài:
- Tổng hợp lại cuộc dời và phẩm chất cửa Lão Hạc.
- Nghệ thuật miêu tá và thái độ của Nam Cao trong xây dựng: nhân vật điển hình.
- Khẳng định giá trị nhân đạo.
Đặc biệt, Ngô Tất Tố đã thành công xuất sắc trong việc xây dựng hình tượng điển hình về người phụ nữ nông dân qua nhân vật chị Dậu. Nhà văn miêu tả chân thực và cảm động về số phận tủi cực của người nông dân bị áp bức, bóc lột, bị dồn đến bước đường cùng. Nhà văn chân thành ca ngợi phẩm chất đáng quý của họ trong hoàn cảnh sống tối tăm, ngột ngạt.
Thái độ yêu ghét của Ngô Tất Tố thể hiện rất rõ ràng qua từng trang viết. Tình cảm yêu mến, trân trọng mà ông dành cho người nông dân khiến ông thật sự là tri âm, tri kỉ của họ. ông cũng không giấu diếm sự khinh bỉ và căm ghét đối với bọn thống trị sâu mọt ở nông thôn. Về nghệ thuật, Tắt đèn được coi là tiểu thuyết hiện thực xuất sắc mà thành công lớn nhất là tác giả đã dựng nên một thế giới nhân vật sinh động, trong đó có những điển hình độc đáo.
Chị Dậu đã đương đầu với bọn nha dịch tay sai để bảo vệ chổng như thế nào?
Giôn-xi ơi, em dại lắm em có biết không? - Xiu thầm nghĩ. Thật khó có thể diễn tả được tâm trạng của cô lúc này. Cô đang rất bực: “Tại sao Giôn-xi lại có ý nghĩ dại khờ như thế chứ? Chiếc lá cuối cùng rụng thì nó cũng sẽ ra đi ư?”. Nhìn cảnh Giôn-xi nằm trên giường không thiết ăn uống, cô lại không thể cầm nổi nước mắt. Cô thương Giôn-xi lắm! Hai người thân thiết, gắn bó như hai chị em ruột vậy. Xiu bần thần ngồi suy nghĩ. Ngoài trời khá lạnh, thời tiết đang là mùa đông. Bầu trời quang, đến một gợn mây cũng không có. Gió thổi mang theo không khí lạnh buốt làm căn gác xếp của họ càng thêm ảm đạm, u ám. Cô đưa mắt nhìn ra cửa sổ, dây thường xuân yếu ớt bắc qua tường. Từng chiếc lá đang cố níu giữ mình lại, không để cho gió cuốn đi. Xiu lo lắng. Nhỡ chiếc lá cuối cùng rụng xuống thì sao? Bao nhiêu cảm xúc lẫn lộn: buồn, thương, lo lắng,... cứ lởn vởn đeo bám Xiu, không để cô tìm ra lối thoát.
Xiu nhìn đồng hồ, đã là năm giờ chiều. Cô đi xuống nhà để chuẩn bị ra phố mua đồ ăn cho bữa tối. Từng bước chân nặng trĩu, cô xuống đến tầng hai. Bất chợt, bác Bơ-men đi ra. Bác nói:
— À, Xiu, cháu đây rồi! Vào đây, ta có chuyện muôn nói với cháu.
Xiu đi theo người họa sĩ già vào nhà. Nói là nhà, thực chất đây là một căn phòng chật hẹp, màu vẽ, bút lông vương vãi khắp phòng... tất cả thể hiện một lối sống cẩu thả và nghèo khó.
Xiu khẽ lên tiếng:
— Bác ơi, cháu lo lắm... Giôn-xi...
- ừ, bác biết. Bác cũng vậy. Nhưng bác nghĩ ra cách giải quyết rồi.
Một sự bất ngờ, sửng sốt khẽ thoáng qua mặt Xiu. Bác Bơ-men nói tiếp:
— Chúng ta sẽ... vẽ một chiếc lá khác thay cho chiếc lá cuối cùng. Phải hết sức bí mật, không để Giôn-xi biết.
- Vẽ... Nhưng...
- Không sao, ta sẽ vẽ. Chỉ cần cháu giữ bí mật.
— Không được bác ạ. Cháu sẽ vẽ. Bác có tuổi rồi, leo cao như vậy nhỡ xảy ra chuyện gì thì sao? Xiu quả quyết. Đôi mắt lờ đờ, thâm quầng do mất ngủ của cô bỗng sáng lên. Gương mặt cô rạng rỡ, tự tin.
Theo đúng kế hoạch, cô thực hiện ngay lập tức. Cô nhờ bác Bơ-men chuẩn bị bữa tối cho Giôn-xi. Còn cô chuẩn bị bút lông, bột màu. Buổi tối, cô nhẹ nhàng bảo với Giôn-xi:
— Tối nay chị phải ra ngoài lấy tiền bán bức tranh hôm nọ. Bác Bơ-men sẽ mang bữa tối lên bây giờ em nhé.
Cô làm vậy để đảm bảo Giôn-xi không kéo rèm ra. Cô bắc thang rồi trèo lên. Bút và màu vẽ được chuẩn bị đầy đủ. Cô cầm bút nhưng tay cứ run run. Cô cô" gắng lấy lại bình tĩnh nhưng bao ý nghĩ cứ lởn vởn làm cô không thể tập trung được. Cuối cùng, cô run rẩy vẽ được một chiếc lá. Nhưng trông nó vô hồn và không có gì là lá thật. Xiu tuyệt vọng trèo xuống, cô chạy vào trong nhà.
Lên tầng hai, bác Bơ-men đã ở đó. Bác nói rằng Giôn-xi đã ngủ. Xiu òa khóc. Cô nức nở kể lại với bác Bơ-men. Nghe xong, bác có vẻ rất bình tĩnh. Bác nói:
- Xiu à, cháu bình tĩnh đã nào...
- Tại cháu! Bác ơi, cháu làm hỏng hết mọi việc rồi. Nó chả giống thật gì cả, Giôn-xi sẽ phát hiện ra ngay! Bác ơi, cháu giết em nó rồi!
— Không sao, bác sẽ sửa lại chiếc lá đó. Đó là cách duy nhất chúng ta có thể làm bây giờ. Còn một tia hi vọng cũng phải quyết mà làm cháu ạ!
- Nhưng cháu sợ, cháu không muốn bác trèo lên cao như vậy, nguy hiểm lắm!
— Thế thì cháu lấy cái thang nữa, đứng cạnh cầm đèn và màu cho ta. Hai bác cháu ta cùng làm, nhất định chúng ta sẽ thành công.
Hai cái bóng một cao to, một bé nhỏ đi ra giữa đêm tối. Hai cái thang được bắc và họ cùng trèo lên. Gió rít lên từng hồi, lạnh thấu xương. Bác Bơ-men cầm chắc trong tay chiếc bút. Bác đưa bút rất thành thạo và điêu luyện. Kinh nghiệm bao năm trong nghề thể hiện trong từng nét vẽ. Không lâu sau, bác đã “sửa lại” được chiếc lá của Xiu. Chiếc lá thường xuân cuối cùng đó nằm im trên tường. Nó có màu xanh, hơi úa vàng. Màu sắc và đường nét trông rất thật, khó có thể nhận ra là nó đã được vẽ lên.
Bác Bơ-men đã dùng hết kinh nghiệm, tình thương yêu để vẽ lên chiếc lá đó. Chỉ sửa lại thôi nên không mất nhiều thời gian lắm, nhất là dưới bàn tay của bác Bơ-men.
Hai người xong việc cũng là lúc những hạt mưa bắt đầu rơi lộp bộp vào mái tôn căn gác xếp của hai cô gái. Trời rét buốt, tưởng chừng như ở ngoài một lát nữa thôi là hai người có thể chết cóng.
Sáng hôm sau, Giôn-xi nhờ Xiu kéo rèm lên.
— Thật kì diệu! — Giôn-xi sửng sốt và kêu lên.
Sau một đêm mưa gió khủng khiếp, thật không ngờ vẫn còn một chiếc lá bé nhỏ vẫn kiên cường bám chặt lấy cành. Nhìn chiếc lá, Giôn-xi bắt đầu yêu đời trở lại, lấy lại niềm tin và mơ ước, đến cuối mùa đông đó, cô đã khỏe trở lại.
Xiu và bác Bơ-men đều rất vui. Vào một ngày đầu xuân, khi cái rét cắt :la cắt thịt đã qua đi, từng tia nắng ấm áp chiếu vào căn gác xếp nhỏ — nơi ba người họa sĩ đang ngồi ăn mừng. Trên bàn ăn toàn những món đơn giản, nhưng vậy đã là quá dủ và thịnh soạn so với mọi ngày rồi. Thưởng thức món thịt, Giôn-xi đưa mắt nhìn ra cửa sổ. Ba người đang nói chuyện vui vẻ, bỗng nhiên Giôn-xi giật mình:
— ơ cái lá! Nó vẫn như vậy từ ngày em nhìn thấy, trong khi bao chồi non đã ra mà nó vẫn ờ đó, không hề lay động khi gió thổi! Thật kì lạ!
Xiu và bác Bơ-men đưa mắt nhìn nhau. Sau một phút tần ngần, Giôn-xi như đã hiểu ra mọi chuyện. Một giọt nước mắt khẽ lăn trên má, rồi cô nức nở, cò như đang vỡ òa trong hạnh phúc. Cô ôm chầm lấy Xiu và bác Bơ-men:
— Ôi, là hai người vê đó ư? Cháu thật không biết nói gì! Cháu yêu hai người nhiều lắm! Cảm ơn bác!... Cảm ơn chị Xiu! Hai người mang lại sự sống cho cháu...
Từng tia nắng khẽ chiếu qua cửa sổ. Không gian căn gác xép yên lặng và ấm áp. Mùa xuân mới đã đến, năm mới đã về, hứa hẹn mang đến thử thách mới, niềm vui mới mà cả ba người họa sĩ sẽ sát cánh bên nhau để vượt qua...
Giôn-xi ơi, em dại lắm em có biết không? - Xiu thầm nghĩ. Thật khó có thể diễn tả được tâm trạng của cô lúc này. Cô đang rất bực: “Tại sao Giôn-xi lại có ý nghĩ dại khờ như thế chứ? Chiếc lá cuối cùng rụng thì nó cũng sẽ ra đi ư?”. Nhìn cảnh Giôn-xi nằm trên giường không thiết ăn uống, cô lại không thể cầm nổi nước mắt. Cô thương Giôn-xi lắm! Hai người thân thiết, gắn bó như hai chị em ruột vậy. Xiu bần thần ngồi suy nghĩ. Ngoài trời khá lạnh, thời tiết đang là mùa đông. Bầu trời quang, đến một gợn mây cũng không có. Gió thổi mang theo không khí lạnh buốt làm căn gác xếp của họ càng thêm ảm đạm, u ám. Cô đưa mắt nhìn ra cửa sổ, dây thường xuân yếu ớt bắc qua tường. Từng chiếc lá đang cố níu giữ mình lại, không để cho gió cuốn đi. Xiu lo lắng. Nhỡ chiếc lá cuối cùng rụng xuống thì sao? Bao nhiêu cảm xúc lẫn lộn: buồn, thương, lo lắng,... cứ lởn vởn đeo bám Xiu, không để cô tìm ra lối thoát. Xiu nhìn đồng hồ, đã là năm giờ chiều. Cô đi xuống nhà để chuẩn bị ra phố mua đồ ăn cho bữa tối. Từng bước chân nặng trĩu, cô xuống đến tầng hai. Bất chợt, bác Bơ-men đi ra. Bác nói:
— À, Xiu, cháu đây rồi! Vào đây, ta có chuyện muôn nói với cháu.
Xiu đi theo người họa sĩ già vào nhà. Nói là nhà, thực chất đây là một căn phòng chật hẹp, màu vẽ, bút lông vương vãi khắp phòng... tất cả thể hiện một lối sống cẩu thả và nghèo khó. Xiu khẽ lên tiếng:
— Bác ơi, cháu lo lắm... Giôn-xi... - ừ, bác biết. Bác cũng vậy. Nhưng bác nghĩ ra cách giải quyết rồi. Một sự bất ngờ, sửng sốt khẽ thoáng qua mặt Xiu. Bác Bơ-men nói tiếp: — Chúng ta sẽ... vẽ một chiếc lá khác thay cho chiếc lá cuối cùng. Phải hết sức bí mật, không để Giôn-xi biết.
- Vẽ... Nhưng...
- Không sao, ta sẽ vẽ. Chỉ cần cháu giữ bí mật.
— Không được bác ạ. Cháu sẽ vẽ. Bác có tuổi rồi, leo cao như vậy nhỡ xảy ra chuyện gì thì sao? Xiu quả quyết
. Đôi mắt lờ đờ, thâm quầng do mất ngủ của cô bỗng sáng lên. Gương mặt cô rạng rỡ, tự tin. Theo đúng kế hoạch, cô thực hiện ngay lập tức. Cô nhờ bác Bơ-men chuẩn bị bữa tối cho Giôn-xi. Còn cô chuẩn bị bút lông, bột màu. Buổi tối, cô nhẹ nhàng bảo với Giôn-xi:
— Tối nay chị phải ra ngoài lấy tiền bán bức tranh hôm nọ. Bác Bơ-men sẽ mang bữa tối lên bây giờ em nhé. Cô làm vậy để đảm bảo Giôn-xi không kéo rèm ra. Cô bắc thang rồi trèo lên. Bút và màu vẽ được chuẩn bị đầy đủ. Cô cầm bút nhưng tay cứ run run. Cô cô" gắng lấy lại bình tĩnh nhưng bao ý nghĩ cứ lởn vởn làm cô không thể tập trung được. Cuối cùng, cô run rẩy vẽ được một chiếc lá. Nhưng trông nó vô hồn và không có gì là lá thật. Xiu tuyệt vọng trèo xuống, cô chạy vào trong nhà. Lên tầng hai, bác Bơ-men đã ở đó. Bác nói rằng Giôn-xi đã ngủ. Xiu òa khóc. Cô nức nở kể lại với bác Bơ-men. Nghe xong, bác có vẻ rất bình tĩnh. Bác nói:
- Xiu à, cháu bình tĩnh đã nào... - Tại cháu! Bác ơi, cháu làm hỏng hết mọi việc rồi. Nó chả giống thật gì cả, Giôn-xi sẽ phát hiện ra ngay! Bác ơi, cháu giết em nó rồi!
— Không sao, bác sẽ sửa lại chiếc lá đó. Đó là cách duy nhất chúng ta có thể làm bây giờ. Còn một tia hi vọng cũng phải quyết mà làm cháu ạ!
- Nhưng cháu sợ, cháu không muốn bác trèo lên cao như vậy, nguy hiểm lắm!
— Thế thì cháu lấy cái thang nữa, đứng cạnh cầm đèn và màu cho ta. Hai bác cháu ta cùng làm, nhất định chúng ta sẽ thành công.
Hai cái bóng một cao to, một bé nhỏ đi ra giữa đêm tối. Hai cái thang được bắc và họ cùng trèo lên. Gió rít lên từng hồi, lạnh thấu xương. Bác Bơ-men cầm chắc trong tay chiếc bút. Bác đưa bút rất thành thạo và điêu luyện. Kinh nghiệm bao năm trong nghề thể hiện trong từng nét vẽ. Không lâu sau, bác đã “sửa lại” được chiếc lá của Xiu. Chiếc lá thường xuân cuối cùng đó nằm im trên tường. Nó có màu xanh, hơi úa vàng. Màu sắc và đường nét trông rất thật, khó có thể nhận ra là nó đã được vẽ lên. Bác Bơ-men đã dùng hết kinh nghiệm, tình thương yêu để vẽ lên chiếc lá đó. Chỉ sửa lại thôi nên không mất nhiều thời gian lắm, nhất là dưới bàn tay của bác Bơ-men. Hai người xong việc cũng là lúc những hạt mưa bắt đầu rơi lộp bộp vào mái tôn căn gác xếp của hai cô gái. Trời rét buốt, tưởng chừng như ở ngoài một lát nữa thôi là hai người có thể chết cóng. Sáng hôm sau, Giôn-xi nhờ Xiu kéo rèm lên.
— Thật kì diệu! — Giôn-xi sửng sốt và kêu lên. Sau một đêm mưa gió khủng khiếp, thật không ngờ vẫn còn một chiếc lá bé nhỏ vẫn kiên cường bám chặt lấy cành. Nhìn chiếc lá, Giôn-xi bắt đầu yêu đời trở lại, lấy lại niềm tin và mơ ước, đến cuối mùa đông đó, cô đã khỏe trở lại.
Xiu và bác Bơ-men đều rất vui. Vào một ngày đầu xuân, khi cái rét cắt :la cắt thịt đã qua đi, từng tia nắng ấm áp chiếu vào căn gác xếp nhỏ — nơi ba người họa sĩ đang ngồi ăn mừng. Trên bàn ăn toàn những món đơn giản, nhưng vậy đã là quá dủ và thịnh soạn so với mọi ngày rồi. Thưởng thức món thịt, Giôn-xi đưa mắt nhìn ra cửa sổ. Ba người đang nói chuyện vui vẻ, bỗng nhiên Giôn-xi giật mình:
— ơ cái lá! Nó vẫn như vậy từ ngày em nhìn thấy, trong khi bao chồi non đã ra mà nó vẫn ờ đó, không hề lay động khi gió thổi! Thật kì lạ!
Xiu và bác Bơ-men đưa mắt nhìn nhau. Sau một phút tần ngần, Giôn-xi như đã hiểu ra mọi chuyện. Một giọt nước mắt khẽ lăn trên má, rồi cô nức nở, cò như đang vỡ òa trong hạnh phúc. Cô ôm chầm lấy Xiu và bác Bơ-men:
— Ôi, là hai người vê đó ư? Cháu thật không biết nói gì! Cháu yêu hai người nhiều lắm! Cảm ơn bác!... Cảm ơn chị Xiu! Hai người mang lại sự sống cho cháu... Từng tia nắng khẽ chiếu qua cửa sổ. Không gian căn gác xép yên lặng và ấm áp. Mùa xuân mới đã đến, năm mới đã về, hứa hẹn mang đến thử thách mới, niềm vui mới mà cả ba người họa sĩ sẽ sát cánh bên nhau để vượt qua...
Trong tuổi thơ của mỗi người, ai cũng có những kỉ niệm đáng nhớ về thầy, cô giáo cũ của mình, những kĩ niệm đẹp xen lẫn nỗi buồn đều được khắc sâu trong trí nhớ của chúng ta. Riêng tôi có một kỉ niệm mà tôi không bao giờ quên, kỉ niệm sâu sắc về một người thầy đáng kính của tôi.
Năm ấy, khi tôi còn học lớp một, tôi có những kỉ niệm đẹp về thầy giáo chủ nghiệm của mình. Tôi đã bước sang lớp một, ngưỡng cữa của bậc tiểu học, có nhiều bạn mới, thầy cô mới.
Ngày trọng đại ấy, ngày tôi không bao giờ quên. Sau buổi lễ khai giảng, tất cả các học sinh đều bước vào lớp học của mình để học buổi học đầu tiên và gặp gỡ thầy cô giáo chủ nhiệm của mình và cũng là người sẽ gắn bó với tôi trong suốt thời gian học tiểu học.
Khi thầy bước vào, dáng người thầy thật nhanh nhẹn và thầy chào chúng tôi. Tôi trông thầy cũng đã đứng tuổi, tóc thầy cũng đã điểm bạc, khuôn mặt thầy gầy, bàn tay thầy có nhiều vết nhăn, chắc thầy đã có mấy chục năm lận đận với học sinh. Thầy bước lên bục giảng, thầy ra hiệu cho chúng tôi im lặng và thầy nói:chào các con, thầy tên là Hồ Viết Cảnh, thầy sẽ chủ nhiệm lớp các con trong suốt bậc tiểu học. Giọng thầy thật ấm áp, nhẹ nhàng, làm cho những suy nghĩ trong đầu tôi về một người thầy giáo chủ nhiệm thật dữ dằn và nghiêm khắc đều tan biến.
Sau khi ra mắt chúng tôi, thầy bắt đầu dạy cho chúng tôi những bài học đầu tiên mà cũng là những bài học đầu đời dạy tôi nên người. Thầy viết lên bảng những dòng chữ đầu tiên, tôi trông thấy bàn tay thầy run run khi viết, sau này tôi mới biết, thầy phải chịu đựng những cơn đau do tham gia cuộc chiến tranh kháng chiến chống mĩ để viết nên dòng chữ đẹp đó. Sau khi viết xong đề bài, thầy hỏi chúng tôi có thấy rõ không, một và bạn ngồi phía dưới do mắt kém nên không thấy liền được thầy chỗ khác cho phù hợp. Trong buổi học thầy đến tận chỗ của từng người để chỉ cho chúng tôi những chỗ không hiểu. Cuối giờ, thầy cho chúng tôi xếp hàng ra về, mọi người đi về rất thẳng hàng, tiếng cười đùa của một vài bạn đã làm xôn ao khắp sân trường. Buổi học đầu tiên đã kết thúc như vậy đó, thầy đã để lại cho tôi những suy nghĩ về một người thầy mẫu mực.
Những buổi học sau, thầy nghiêm khắc với những bạn lười học, khen thưởng những bạn ngoan. Giờ ra chơi, thầy đều ra chơi cùng chúng tôi, thầy chơi những rò chơi dân gian cùng với chúng tôi, nhìn khuôn mặt thầy lúc đấy thật đáng yêu, nhìn kĩ thầy, tôi có cảm giác khuôn mặt thầy rất giống khuôn mặt ông nội tôi. Ông tôi đã mất từ khi tôi còn nhỏ, những kỉ niệm đẹp của ôg và tôi đều được tôi khắc ghi. Nhìn thầy, tôi cảm thấy nhớ đến ông, nhớ đến cảnh chơi đùa của hai ông cháu, tôi liền chạy vào phòng học, ngồi trong góc khóc. Lúc đó có một bàn tay đặt lên vai tôi khẽ vỗ về, hình ảnh ông nội vỗ về tôi mỗi khi buồn hiện về, tôi bỗng khóc to lên, không sao có thể kiềm chế được. Thì ra đó chính là thầy, thầy khẽ nói với tôi:" Thành, sao con khóc, nói ra để thầy chia sẽ với con". Rồi thầy ôm tôi vào lòng, nhận được sự an ủi của thầy, tôi càng khóc to hơn. Sau hôm đó tôi cảm thấy được thầy quan tâm nhiều hơn.
Vào một hôm, do tôi không học bài nên bị điễm kém, thầy liền mắng tôi, tôi liền chạy về chỗ ngồi, trong lòng tôi cảm thấy rất tức thầy. Vào giờ ra chơi thầy không ra chơi với các bạn như mọi khi, thầy xuống chỗ tôi. Thầy nói:"thầy xin lỗi em vì đã quá nặng lời, nhưng em là lớp trưởng nên phải gương mẩu cho các bạn noi theo.... thầy giảng lại cho tôi bài tôi chưa hiểu. Tôi nhìn thầy lúc đó mà trong lòng cảm thấy hối hận vô cùng, ân hận vì đã làm thầy buồn. tôi tự hứa sẽ cố gắng phấn đấu tốt hơn.
Vậy đấy, thầy đã để lại cho tôi những kỉ niệm không bao giờ phai mờ về một người thầy giản dị mà thân thương. Tôi hứa sẽ cố gắng học tập để trở thành công dân tốt, có ích cho đất nước và xã hội. Công ơn thầy sẽ mãi được khắc ghi như câu danh ngôn:
"Ngọc không mài không sáng, người không học không tài."
Thái độ yêu ghét của Ngô Tất Tố thể hiện rất rõ ràng qua từng trang viết. Tình cảm yêu mến, trân trọng mà ông dành cho người nông dân khiến ông thật sự là tri âm, tri kỉ của họ. ông cũng không giấu diếm sự khinh bỉ và căm ghét đối với bọn thống trị sâu mọt ở nông thôn. Về nghệ thuật, Tắt đèn được coi là tiểu thuyết hiện thực xuất sắc mà thành công lớn nhất là tác giả đã dựng nên một thế giới nhân vật sinh động, trong đó có những điển hình độc đáo.
Đoạn Tức nước vỡ bờ trích từ chương XVIII của tác phẩm, nội dung xoay quanh những biến động ghê gớm xảy ra với gia đình chị Dậu trong mùa sưu thuế.
Chị Dậu đã đương đầu với bọn nha dịch tay sai để bảo vệ chổng như thế nào?
1/ Kể theo lời chị Dậu: CĂM GIẬN KHÔN NGUÔI
a/ Mở bài:
- Sợ chồng tôi bị trói, bị đánh nên tôi hết lời van xin.
b/Thân bài:
- Cai lệ vừa quát vừa đấm tôi mấy bịch rồi sấn đến trói chồng tôi.
- Tôi liều mạng cự lại thì bị cai lệ tát bốp rồi hắn cứ nhảy vào cạnh chồng tôi để trói, đánh.
- Tôi nghiến răng chửi hắn rồi túm cổ hắn, dúi hắn ngã chỏng quèo, mặc cho hắn thét trói chúng tôi.
- Tên người nhà lý trưởng giơ gậy chực đánh liền bị tôi nắm ngay được gậy. Sau một hồi giằng co, du đẩy, tôi vật nhau với hắn và lẳng hắn ngã nhào ra thềm.
c/ Kết bài:
- Tôi vẫn không nguôi giận bọn cai lệ bất nhân.
2/ Kể theo lời bà hàng xóm: NGƯỜI HÀNG XÓM CAN ĐẢM
a/ Mở bài:
- Nghe ầm ĩ mãi, tôi sốt ruột quá đành lật đật chạy sang nhà chị Dậu xem tình hình thế nào.
- Tôi đã chứng kiến cảnh chị Dậu trừng trị bọn cai lệ bất nhân.
b/Thân bài:
- Chị Dậu đặt cái Tỉu xuống đất, chạy lại nài nỉ xin cai lệ đừng trói đánh chồng nó.
- Cai lệ vừa quát vừa đấm chị Dậu mấy cái rồi sấn đến để trói anh Dậu.
- Chị Dậu tức quá nên cự lại hắn bằng những lý lẽ cứng rắn.
- Cai lệ tát chị ấy rồi lại nhảy vào cạnh anh chồng.
- Chị Dậu mắng cai lệ và túm cổ, dúi hắn ngã chỏng quèo trong khi hắn vẫn thét trói người.
- Người nhà lý trưởng giơ gậy chực đánh liền bị chị Dậu nắm ngay được gậy, Hai người giằng co, du đẩy rồi vật nhau. Kết cục, chị Dậu lẳng hắn ngã nhào ra thềm.
c/ Kết bài:
- Tôi vừa hả hê vì thật đáng đời cho bọn tay sai chó đểu vừa thầm phục sự can đảm quyết liệt của chị Dậu.
3/ Kể theo lời anh Dậu: NGƯỜI VỢ TO GAN
a/ Mở bài:
- Vợ tôi lo lắng cho tôi nên vội vàng xin cai lệ tha cho tôi.
b/Thân bài:
- Cai lệ vừa quát vừa đấm nhà tôi mấy cái rồi sấn đến để trói tôi.
- Vợ tôi liều mạng cự lại thì bị cai lệ tát bốp rồi hắn cứ nhảy vào để trói, đánh tôi.
- Vợ tôi nghiến răng chửi hắn rồi túm cổ hắn, dúi hắn ngã chỏng quèo, mặc cho hắn thét trói chúng tôi.
- Tên người nhà lý trưởng giơ gậy chực đánh liền bị vợ tôi nắm ngay được gậy. Sau một hồi giằng co, du đẩy, nhà tôi vật nhau với hắn và lẳng hắn ngã nhào ra thềm.
c/ Kết bài:
- Tôi rất thương vợ và sợ hãi nghĩ đến cảnh tù tội.
4/ Kể theo lời cai lệ: CỨU CHÚNG CON VỚI, CỤ LÝ ƠI!
a/ Mở bài:
- Chúng con bị đòn đau, cứu chúng con với, cụ lý ơi!
b/Thân bài:
- Con mụ Dậu xin tha cho thằng chồng đau ốm khỏi bị trói đánh.
- Con vừa quát vừa đấm mụ ta mấy cái rồi sấn đến để trói thằng chồng.
- Con ranh ấy già lẽ cãi lại con, con tát bốp rồi cứ nhảy vào để trói, đánh chồng nó.
- Mụ Dậu nghiến răng chửi con rồi túm cổ, dúi con ngã chỏng quèo, nhưng con vẫn thét trói vợ chồng chúng.
- Liền đó, người nhà cụ ứng cứu. Anh ấy giơ gậy chực đánh nhưng bị con mụ ghê gớm ấy nắm ngay được gậy. Sau một hồi giằng co, du đẩy, vật nhau, con quỷ cái lẳng anh ấy ngã nhào ra thềm.
c/ Kết bài:
- Con cầu xin cụ trả mối hận này giúp chúng con.
5/ Kể theo lời chị Dậu: CĂM GIẬN KHÔN NGUÔI
a/ Mở bài:
- Sợ chồng tôi bị trói, bị đánh nên tôi hết lời van xin.
b/Thân bài:
- Cai lệ vừa quát vừa đấm tôi mấy bịch rồi sấn đến trói chồng tôi.
- Tôi liều mạng cự lại thì bị cai lệ tát bốp rồi hắn cứ nhảy vào cạnh chồng tôi để trói, đánh.
- Tôi nghiến răng chửi hắn rồi túm cổ hắn, dúi hắn ngã chỏng quèo, mặc cho hắn thét trói chúng tôi.
- Tên người nhà lý trưởng giơ gậy chực đánh liền bị tôi nắm ngay được gậy. Sau một hồi giằng co, du đẩy, tôi vật nhau với hắn và lẳng hắn ngã nhào ra thềm.
c/ Kết bài:
- Tôi vẫn không nguôi giận bọn cai lệ bất nhân.
Tham khảo
húng ta phải biết sống lạc quan, đừng bao giờ cảm thấy bản thân mình bất hạnh, ông trời sinh ra ta, có một cơ thể hoàn hảo, có một gia đình hạnh phúc, để chúng ta gặp nhau, thế là quá đủ rồi. Chúng ta phải vui lên, sống thay cho những đứa trẻ không được thấy mặt trời, sống thay cho những ai thực sự bất hạnh, phải vui lên, đừng buồn vì bất cứ thứ gì.
Người ta thường nói: “Ông trời không cho ai tất cả, cũng không lấy đi của ai tất cả hết”. Nhưng tôi đôi khi cảm thấy bất lực khi có cảm giác ông trời đang muốn nhấn chìm tôi giữa dòng người bất tận. Sự bất lực khi bản thân quá yếu kém, đó là bất lực khi tôi không có ý chí phấn đấu. bất lực khi tôi cảm thấy bản thân quá bế tắc. Trong cuộc sống, tôi vẫn may mắn hơn so với rất nhiều người, có những cô bé, cậu bé phải trải qua cả nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần, không có điều kiện để đến trường, phải đấu tranh với định kiến xã hội, với sự xa lánh của bạn bè, nỗi bất lực của bản thân khi có những khiếm khuyết trên cơ thể. Tôi hiểu được điều ấy từ một câu chuyện, câu chuyện quen thuộc nơi giảng đường, câu chuyện về cậu bé viết bằng chân qua cuốn sách “Tôi đi học” của thầy giáo ưu tú Nguyễn Ngọc Ký.
“Tôi đi học” là những trang nhật ký đầy nỗ lực của thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký, là lời khẳng định, không gì là không thể, chỉ cần ta có quyết tâm, có ý chí, biết đấu tranh và một con mắt nhìn đời lạc quan.
Tôi hỏi bạn, nếu một ngày, bạn bị đau tay, làm gì cũng bất tiện, bạn có cảm thấy bực bội không? Thế nhưng, có một Nguyễn Ngọc Ký sau một lần ốm đã phải mang “đôi tay nặng trịch, không còn đủ sức nhấc nó lên nữa”. Nếu một ngày, bạn bị những người xung quanh nhìn bằng con mắt dò xét, bạn có khó chịu không? Thế nhưng có một Nguyễn Ngọc Ký đã phải nghe những lời trêu đùa của lớp bạn: “Ký què!” rồi những lần bị bạn bè cười vào mặt. Bạn thường mơ về một tương lai đẹp đẽ ra sao? Nhưng có một Nguyễn Ngọc Ký chỉ ước “đôi tay được trở lại bình thường, dù chỉ đôi phút…”
“Tôi đi học” là cuốn sách 39 chương nhật ký mà thầy giáo ưu tú kể lại về tuổi thơ bất hạnh nhưng cố gắng vươn lên đến chiếc ghế đại học để truyền động lực cho bạn đọc. Hầu hết mọi người chỉ biết đến câu chuyện về cậu bé viết bằng chân, chứ ít ai biết đến những ngày tháng mà Nguyễn Ngọc Ký phải sống buồn tủi, phải nhờ đến những người xung quanh giúp đỡ, những cố gắng của một đứa trẻ để được bằng bạn bằng bè. Ít ai biết rằng, Nguyễn Ngọc Ký viết rất hay vẽ đều rất đẹp, học không chỉ đều mà còn giỏi… Đó là kết quả của sự đấu tranh bằng tinh thần, nghị lực, bằng khát khao và hy vọng.
Năm lên bốn tuổi Nguyễn Ngọc Ký bị bệnh bại liệt, hai tay không cử động được nữa. Lúc bấy h quê cậu bé Nguyễn Ngọc Ký bị giặc pháp chiếm đóng . Khi hòa bình lập lại, cậu quyết tâm đi học . Nhờ sự giúp đỡ của thầy cô, bạn bè, sự tin tưởng của gia đình cậu dùng đôi chân của mình thay thế đôi tay và đến lớp học đều đặn. Tôi chắc chắn rằng mọi người sẽ rất xúc động khi đọc những dòng tâm sự trong câu chuyện Những ngày mon men đến lớp, những ngày tập viết, bài tập thủ công 10 điểm.. của tác giả. Đối với 1 cậu bé bình thường việc cầm bút tập viết hay dùng kéo cắt thủ công đã khó, thế mà Nguyễn Ngọc Ký dùng đôi chân của mình để tập viết và cầm kéo để cắt thủ công thực sự là điều mà mọi ng không nghĩ rằng có thể làm được. Điều ngạc nhiên hơn là Nguyễn Ngọc Ký còn dùng chân để vẽ hình trong toán học . Với đôi chân chỉ cần cặp chiếc thước kẻ 1 đường thẳng đã khó, huống hồ phải kẻ những đường ngang dọc lắt léo trong toán học đòi hỏi thật chính xác, hay dùng compa vẽ hình tròn. Bằng ý chí và nghị lực phi thường cậu đã vẽ được những hình khá chuẩn xác. Để rồi vượt lên trên tất cả những khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua từ lớp vỡ lòng đến tốt nghiệp trung học. Nguyễn Ngọc Ký luôn là học sinh giỏi, được thầy yêu bạn mến.
Tôi được biết đến cuốn tự truyện nay qua 1 người bạn. Cuốn sách này đã cho tôi hiểu rõ hơn về quá trình vượt khó, vươn lên để hoàn thành chặng đường đầy chông gai ấy. Cuốn sách mỏng nhưng lại chứa đựng rất nhiều câu chuyện đầy cảm động, để ta biết rằng không chướng ngại gì có thể ngăn cản ước mơ của một con người mạnh mẽ và quyết tâm, nhất là khi họ lại có được tình thương và sự ủng hộ không ngừng của bạn bè thầy cô, gia đình và xã hội.
Mong mọi người biết trân quý sự may mắn nếu chúng ta có một thân thể lành lặn, và hãy chia sẻ, cảm thông, giúp đỡ với những người không được may mắn ấy!
Và hãy cố gắng thực hiện ước mơ của mình, bởi không gì có thể ngăn ta, chỉ cần có một quyết tâm sắt đá, ý chí kiên cường và con mắt nhìn đời một cách lạc quan. “Đủ mạnh mẽ để vượt qua khó khăn”, ” Đủ lạc quan để luôn mỉm cười và cám ơn cuộc đời”