Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Bài 1:
-Năm 221 TCN:
+Thời Chiến Quốc
+Nhà Tần
-Năm 618 SCN:
+Nhà Tùy
+Nhà Đường
-Năm 1644 SCN:
+Nhà Minh
+Nhà Thanh
Bài 2:
Chọn đáp án C,D,E
Sen Phùng, Chippy Linh, Phạm Thị Thạch Thảo, Nguyễn Diệu, Vương Soái, NHOK NHÍ NHẢNH, Trần Thọ Đạt, Anh Ngốc, Thiên Thiên, Bình Trần Thị, Kudo Shinichi, Dương Nguyễn, Mai Nguyễn, Võ Đông Anh Tuấn, Hà Trần, Trần Hoàng Nghĩa, Nhật Linh, Võ Đông Anh Tuấn, Phan Thùy Linh, Đặng Thị Cẩm Tú,...
Đây là lịch sử 7 mà bạn, với lại mình cũng muốn trả lời lắm mà quyển lịch sử 6 bỏ đâu rồi đó xin lỗi nha @Vũ Đức Hưng
+ Kinh tế - xã hội:
- Giai cấp thống trị phương Đông là địa chủ, quý tộc, ở phương Tây thế lực thống trị gồm quý tộc, tăng lữ, lãnh chúa. Chúng câu kết với nhau rất chặt và bóc lột nông nô tàn bạo và khắc nghiệt hơn so với phương Đông.
- Giai cấp bị trị: Nông dân tá điền (phương Đông) so với nông nô (phương Tây) có phần dễ chịu và ít khắt khe hơn.
- Mâu thuẫn giữa hai giai cấp cơ bản trong chế độ phong kiến phương tây nặng nề và gay gắt hơn phương Đông. Điều này lí giải sự sụp đổ sớm của chế độ phong kiến phương Tây (tồn tại 10 thế kỉ) và sự tồn tại lâu dài của chế độ PK phương Đông (hơn 2500 năm).
+ Chính trị và tư tưởng.
Chế độ quân chủ phương Đông xuất hiện sớm hơn ở phương Tây khoảng 1000 năm.
Sự chuyển biến từ chế độ phân quyền sang tập quyền ở phương Đông (thời Tần Thủy Hoàng) và A-sô-ka diễn ra sớm. Trong khi đó ở phương tây sự tập quyền diễn ra chậm trễ (thế kỉ XIV) và nhà vua được sự giúp đỡ của thị dân mới dẹp được sự cát cứ của các lãnh chúa.
Cơ sở lí luận cho chế độ phong kiến phương Đông và phương tây là các tôn giáo có sẵn từ trước. tuy nhiên, sự can thiệp của tầng lớp tăng lữ phương tây vào hệ thống chính trị là rõ ràng và chặt chẽ hơn. Trong khi đó, ở phương Đông tầng lớp này không mang tính công khai và rất ít nơi trở thành giai cấp thống trị.
vạn lí trường thành là 1 trong những công trình liến trúc nổi tiếng và đồsộ ở trung quốc.Công trình này dài khoảng 6.276Km.vạn lí trường thành do vị vua đầu tiên tần thủy hoàng bát những người lao đông khỏe mạnh làm nên.bởi vậy nơi đây đã có nhiều người bỏ mạng vì kiến trúc này.
Hồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử đặc biệt đang còn gây nhiều tranh cãi. Nhưng tôi thấy ông là một con người tài năng, có tầm nhìn chiến lược, ....đặc biệt về cuộc cải cách lớn của ông có ý nghĩa rất lớn mặc dù còn một số hạn chế nhất định. Có thể ông sinh ra nhầm thời nếu nhà Minh không xâm lược nước ta thì có lẽ chính sách của ông và đường lối xây dựng đất nước sẽ đạt nhiều thành tựu êaf đưa nước ta sang một giai đoạn mới. Việc để mất nuớc là do ông chưa thu phục được lòng dân cả dân tộc không đoàn kết để chống kẻ thù xâm lược vì vậy cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Minh của nhà Hồ thất bại và Hồ Quý Ly bị bắt đem về Trung Quốc. Vì vậy, chúng ta cần có cái nhìn đánh giá khách quan hơn về nhân vật này.
Đánh giá nhân vật lịch sử Hồ Quý Ly : Cần xem xét về nhân vật Hồ Quý Ly trong bối cảnh lịch sử nước Đại Việt nửa cuối thế kỉ XIV, những biểu hiện về sự suy sụp của nhà Trần, xã hội rối loạn để hiểu và nêu được nhận xét về Hồ Quý Ly (trong tình trạng đất nước khủng hoảng, ông đã mạnh dạn khởi xướng và tiến hành thực hiện cuộc cải cách trên nhiều mặt nhằm đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, cuộc cải cách có nhiều mặt tiến bộ) từ đó rút ra nhận xét Hồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử có tài năng, có hoài bão, có đóng góp cho xã hội vào nửa cuối thế kỉ XIV. Hạn chế và sai lầm lớn nhất của ông là để đất nước rơi vào ách đô hộ của nhà Minh do đường lối kháng chiến sai lầm và cũng do những hạn chế trong cuộc cải cách của ông.
An Nam tứ đại khí là bốn kì quân,công trình nghệ thuật nổi tiếng của thời Lý‐Trần trong đó có tháp Báo Thiên và Chuông Quy Điền
Tháp Báo Thiên: được xây vào năm 1057. Tháp cao khoảng 70m, nằm trong khuân viên của chùa Sùng khánh, phường Báo Thiên nên gọi là tháp Báo Thiên
Chuông Quy Điền: được xây dựng vào tháng hai 1080, để đúc được cái chuông này vua đã phải sử dụng hơn 7,3 tấn đồng nhưng khi đức xong lại không sử dụng được nên vua đã sai người mang ra khu ruộng sau chùa. nghe nói vì khu ruộng thấp trũng, có nhiều rùa đến ở nên đã gọi chuông đó là Quy Điền.
ngắn gọn thôi......
- tả về công trình Chùa một cột :
Ngôi chùa có kết cấu bằng gỗ, trong chùa đặt tượng Phật bà Quan Âm để thờ. Năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho mở rộng kiến trúc khu chùa có thêm hồ Linh Chiểu. Về sau, quy mô chùa Một Cột chỉ còn lại ngôi chùa nhỏ trên cột đá như hình ảnh hiện nay. Thực dân Pháp trước khi rút khỏi Hà Nội đã cho nổ mìn phá chùa. Tuy nhiên, chùa đã được trùng tu cơ bản như trước. Chùa Một Cột hiện nay bao gồm đài Liên Hoa hình vuông, chiều dài mỗi cạnh 3 m, mái cong, dựng trên cột cao 4 m (không kể phần chìm dưới đất), đường kính 1,2 m có cột đá là 2 khúc chồng lên nhau thành một khối. Tầng trên của cột là hệ thống những đòn gỗ làm giá đỡ cho ngôi đài ở trên. Đài Liên Hoa có mái ngói, bốn góc uốn cong, trên có Lưỡng long chầu nguyệt. Trong quan niệm người Việt, rồng luôn là con vật linh thiêng, biểu tượng cho quyền uy, sức mạnh. Và hình ảnh "Lưỡng long chầu nguyệt" trên các mái đình đền, chùa chiền, không chỉ biểu tượng cho sức mạnh thần thánh mà còn ẩn trong đó những giá trị nhân văn, phản chiếu trí tuệ, ước vọng của con người và nền văn minh cổ xưa. Ngày nay không có những cánh sen trên cột đá như đã nói đến trong bia văn thời nhà Lý, nhưng ngôi chùa dựng trên cột vươn lên khỏi mặt nước vẫn là kiến trúc độc đáo, gợi hình tượng một bông sen vươn thẳng lên khỏi ao. Ao được bao bọc bởi hàng lan can làm bằng những viên gạch sành tráng men xanh. Kiến trúc chùa xây dựng gần với kiến trúc nhà Hậu Lê.
.