K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

22 tháng 1 2021

Cái xứ sở lạ lùng trong câu ca dao trên đã chỉ ra sự khác biệt đến kinh ngạc so với những vùng đất quê hương Thuận Quảng: địa hình, địa thế cảnh quan tự nhiên cũng khác; mưa nắng, khí hậu thủy văn cũng lạ và đặc biệt là thú dữ - nhất là cọp và sấu lềnh khênh. Họ phải tiêu diệt sấu tiêu diệt cọp để làm chủ khai hoang.Nhưng họ sợ sấu sợ cọp. Họ tôn thờ gọi sấu là thần còn coi hổ là ông.

  
22 tháng 1 2021

Cái xứ sở lạ lùng trong câu ca dao trên đã chỉ ra sự khác biệt đến kinh ngạc so với những vùng đất quê hương Thuận Quảng: địa hình, địa thế cảnh quan tự nhiên cũng khác; mưa nắng, khí hậu thủy văn cũng lạ và đặc biệt là thú dữ - nhất là cọp và sấu lềnh khênh. Họ phải tiêu diệt sấu tiêu diệt cọp để làm chủ khai hoang.Nhưng họ sợ sấu sợ cọp. Họ tôn thờ gọi sấu là thần còn coi hổ là ông.

Đi lấy mật(Trích Đất rừng phương Nam, Đoàn Giỏi)Buổi sáng, đất rừng thật là yên tĩnh. Trời không gió, nhưng không khí vẫn mát lạnh. Cái lành lạnh của hơi nước sông ngòi, mương rạch, của đất ấm và dưỡng khí thảo mộc thở ra từ bình minh. Ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm giác như...
Đọc tiếp

Đi lấy mật

(Trích Đất rừng phương Nam, Đoàn Giỏi)

Buổi sáng, đất rừng thật là yên tĩnh. Trời không gió, nhưng không khí vẫn mát lạnh. Cái lành lạnh của hơi nước sông ngòi, mương rạch, của đất ấm và dưỡng khí thảo mộc thở ra từ bình minh. Ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm giác như là nó bao qua một lớp thủy tinh.

Tía nuôi tôi đi trước, bên hông lủng lẳng chiếc túi da beo, lưng mang cái gùi bằng tre đan đã trát chai, tay cầm chà gạc. Lâu lâu, ông vung tay lên một cái, đưa con dao rừng rất sắc phạt ngang một nhánh gai và dùng cái mẩu cong ở đầu lưỡi dao dài có đến sáu bảy tấc ấy lôi phăng nhánh gai chắn đường vứt ra một bên để lấy lối đi. Thằng Cò đội cải thủng to tướng, trong thúng đựng một vò nước, mấy gói cơm nắm và cái áo ướt mồ hôi nó vừa cởi ra cuộn lại, trên thúng úp chiếc nón lá rách. Tôi đã chen vào giữa, quảy tòn ten một cái gùi bé mà má nuôi tôi đã bơi xuồng đi mượn của nhà ai ngoài xóm bìa rừng từ chiều hôm qua. Con Luốc chạy tung tăng sục sạo trong các bụi cây.

Lần đầu tiên tôi theo tía nuôi tôi và thằng Cò đi “ăn ong” đây! Mấy hôm trước, má nuôi tôi đã kể tỉ mỉ cho tôi nghe cách gác kèo ong thế nào, nhưng tôi vẫn chưa hình dung được “ăn ong” ra sao. Những điều má nuôi tôi kể, trong các sách giáo khoa không thấy nói. Khoa học tự nhiên ở trường chỉ mới cho tôi một khái niệm chung chung về xã hội loài ong, ve những lợi ích của con ong, đại khái vậy thôi. Hiển nhiên từ những thời xa xôi thuở con người ăn lông ở lỗ cho đến ngày nay, người ta vẫn đi tìm lấy mật rừng bằng cách theo dấu đường bay của những con ong về tổ. Người ta phải khó nhọc lắm mới đưa được con ong rừng về nuôi thành con ong nhà, vì như thế, việc lây mật sẽ dễ dàng và bảo đảm hơn.

Trong kho tàng kinh nghiệm của những nhà nuôi ong trên thế giới ghi chép trong các sách vở mà tôi được nghe thấy giáo tôi kể, không thấy có nơi nào nói đến việc lấy mật bằng cách gác kèo như má nuôi tôi đã bảo cho tôi nghe vừa rồi.

- Thôi, dừng lại nghỉ một lát. Bao giờ thằng An đỡ mệt, ăn cơm xong hẵng đi! - Tía nuôi tôi ra lệnh cho chúng tôi như vậy.

Quả là tôi đã mệt thật. Tía nuôi tôi chỉ nghe tôi đằng sau lưng ông thôi mà biết chứ ông có quay lại nhìn
tôi đâu! Chúng tôi đã bơi xuồng đi từ lúc gà vừa gáy rộ canh tư. Thằng Cò thì coi bộ chưa thấm tháp gì. Cặp chân của nó như bộ giò nai, lội suốt ngày trong rừng còn chả mùi gì nữa là!

Tía nuôi tôi ngồi tựa lưng vào một gốc cây ngái, nhồi thuốc lá vào tẩu. Con chó săn trung thành bao giờ cũng ngồi bảo vệ bên chân chủ. Thằng Cò bưng vò nước ra, ngừa cổ kề miệng vào vò uống nước ừng ực. Bỗng nó đặt vò nước xuống, thúc vào lưng tôi

- Đố mày biết con ong mật là con nào?

Hỏi xong, nó đưa tay trỏ lên phía trước mặt. Tôi đảo mắt nhìn khắp nơi vẫn không thấy gì. Rừng cây im lặng quá. Một tiếng lá rơi lúc này cũng có thể khiến người ta giật mình. Lạ quá, chim chóc chẳng nghe con nào kêu. Hay vẫn có tiếng chim ở một nơi xa lắm, vì không chú ý mà tôi không nghe chăng?

Cao quá đầu tôi một với tay, có những chấm đen không nhúc nhích. Đó là ruồi xanh đang bay đứng. Óng ánh lướt những lá bông súng dưới vũng kia là con chuồn chuồn bay ngang với những cánh mỏng và dài. Bé như hạt khế, cứ lắc lư lắc lư từ đất nhoi lên và đáp vào một cành ngải khô trên đầu tía nuôi tôi là điệu bay của con mối cánh.

- Chịu thua mày đó! Tao không thấy con ong mật đâu cả.

Thằng Cò nghe tôi chịu thua, nó bèn vênh mặt lên cười, quay sang tôi:

- Bây giờ mày cứ nhìn kĩ vào khoảng cách giữa hai nhánh tràm cao kia! Ờ! Đúng rồi. Nhìn một chỗ trống ấy.

Đã lâu lắm mà sao tôi chưa thấy gì cả. Tôi vừa toan đứng dậy thì tía nuôi tôi đã đến cầm tay tôi trỏ lên:

- Đó, con thấy nó chưa?

- Thấy rồi!

Tôi kêu khe khẽ. Ờ, phải rồi! Phải hết sức tinh mắt, thính tai mới tìm được những tay sứ giả của bình minh này. Một con... hai con... ba con... Rồi một đàn mười mấy bay nối nhau như một xâu chuỗi hạt cườm, trong những tầng xanh cây lá, có một cái chấm nâu đen cỡ đầu đũa vụt qua rất nhanh. Trên những ngọn tràm cao, đang lướt qua một đàn li ti như nắm trấu bay, phát ra những tiếng kêu eo... eo...

Chúng tôi giở những nắm cơm vắt ra. Ăn xong, bấy giờ bóng nắng mới bắt đầu lên. Gió cũng bắt đầu thổi rao rao theo với khối mặt trời tròn đang tuôn ánh sáng vàng rực xuống mặt đất. Một làn hơi đất nhè nhẹ toả lên, phủ mờ những bụi cây cúc áo, rồi nhè nhẹ tan dần theo hơi ấm mặt trời. Phút yên tĩnh của rừng ban mai dần dần biến đi. Chim hót líu lo. Nắng bốc hương hoa tràm thơm ngây ngất. Gió đưa mùi hương
ngọt lan ra, phảng phất khắp rừng. Mấy con kì nhông nằm vươn mình phơi lưng trên gốc cây mục, sắc da lưng luôn luôn biến đổi từ xanh hoá vàng, từ vàng hoá đỏ, từ đỏ hoá tím xanh,... Con Luốc động đậy cánh mũi, rón rén mò tới. Nghe động tiếng chân con chó săn nguy hiểm, những con vật thuộc loại bò sát bốn chân, to hơn ngón chân cái kia, liền quật chiếc đuôi dài chạy tứ tán. Con núp chỗ gốc cây thì biến thành màu xám vỏ cây. Con đeo trên tấm lá ngái thì biến ra màu xanh lá ngái.

Chúng tôi tiếp tục đi tới một cái trảng rộng. Giữa vùng cỏ tranh khô vàng, gió thổi lao xao, một bầy chim hàng nghìn con vọt cất cánh bay lên. Chim áo già màu nâu, chim manh manh mỏ đỏ bóng như màu thuốc đánh móng tay, lại có bộ lông xám tro điểm những chấm trắng chấm đỏ li ti rất đẹp mắt... Những con chim nhỏ bay vù vù kêu líu ríu lượn vòng trên cao một chốc, lại đáp xuống phía sau lưng chúng tôi.

- Chim đẹp quá, Cò ơi! — Tôi tặc lưỡi, kêu lên.

- Thứ chim cỏ này mà đẹp gì!

- Ở đây chim nhiều quá. [...]

- Thứ đồ bỏ, không ăn thua gì đâu. Mày mà gặp “sân chim” thì mày sẽ biết...

Nó nói một cách lơ là như vậy rồi cứ cắm cúi đội cái thúng đi. Tôi muốn hỏi về cái “sân chim”, nhưng vì tự ái và nghĩ nếu mình gặp cái gì cũng hỏi thì nó sẽ khinh mình dốt, bèn im im đi tới.

[...] Tôi chẳng hỏi gì thêm, cứ lặng thinh. Nó cũng không thèm chú ý đến vẻ mặt khó đăm đăm của tôi, cứ nắm tay tôi lôi đi, lại còn khoát tay ra hiệu bảo tôi đi thật khể Tôi nhìn theo ngón tay nó trỏ lên một kèo ong gác trên cây tràm thấp. Tổ ong kia rồi Sự mừng rỡ làm tôi quên phắt cái bực mình vừa qua. Tôi lại hỏi:

- Sao biết nó về cây này mà gác kèo?

- Thằng mau quên hé! Vậy chớ mấy bữa nay, má nói gì cho mày nghe đó? – Nó chành môi ra cười hì hì, trông cái miệng thấy ghét quá. 
Tôi ngước nhìn tổ ong như thúng, lúc nhúc không biết bao nhiêu ong, dân dần nhớ lại lời má nuôi tôi kể.

- ... Rừng thì mênh mông, biết bao nhiêu cây! Một cây còn biết bao nhiêu nhánh! Biết con ong sẽ đóng tổ
ở cây nào, nhánh nào? Có phải bạ chỗ nào nó cũng gởi mật đâu! Nhưng làm nghề nào rồi khắc phải thạo nghề ấy con ạ! – Má nuôi tôi đưa mắt trông ra những cánh rừng tràm lờ mờ khuất sau những bụi cây bình bát dại mọc quanh hè, ngẫm nghĩ một lúc rồi nói tiếp: – Gió thổi có hướng, cây tốt cũng có vùng. Chọn được vùng rừng tốt, biết rằng đến mùa xuân tràm sẽ kết nhiều hoa, mình mới định chỗ gác kẽo. Phải xem hướng gió, tính trước đường bay của ong mật. Đó là những chỗ “ấm”, cây dày, không bị ngọn gió thốc thẳng vào và ít khi có những dấu chân người đi bắt rắn, người đốn củi lội đến...

- Kèo là gì, hở má?

- Ờ, kèo cũng là nhánh tràm thôi. Nó to cỡ cô tay, mang nhiều nhánh con tua tủa vào quãng giữa. Mình chặt lây một khúc dài non thước tây, một đâu có cái nhánh con nhiều bóng năng kia! Con ong không thích đóng chỗ rợp. O những nơi đó, bao giờ mật dùng làm cái mấu. Chọn được vùng rồi, còn phải chọn cây nào vừa kín, vừa im, có ít cũng chua, dễ bị ẩm. Gác chiếc kèo chênh chếch lên cây tràm xong, phải “rửa” bớt những nhánh chung quanh để khi lấy mật khỏi vướng. Kèo chặt vào khoảng giữa tháng Mười một. Những cơn mưa muộn sẽ rửa hết mùi sắt ở hai đầu kèo bị dao rựa chặt, và nhánh kèo cũng đủ thời gian khô đi, cũ đi, giống với những nhánh khô khác trên cây. Kèo nào còn mùi sắt của con dao mới chặt thì con ong mật chúa kị, nó không bao giờ đóng tổ đâu...

- Coi bộ cũng không khó lắm hở má?

Má nuôi tôi vò đầu tôi, cười rất hiền lành. Tôi cũng cười theo. Bà đằng hắng, nói:

- Chẳng dễ đâu, con ạ! Nhiều người trở thành "dân ăn ong" đã năm mười năm trong nghề, vậy mà gác kèo xong tới mùa mật, mang gùi lên lưng vào rừng, lại mang gùi không trở về.

- Ủa! Tại sao vậy, má?

- Định không đúng chỗ, đoán sai hướng gió chứ sao! 

Mắt tôi vẫn không rời tổ ong lúc nhúc trên cây tràm thấp kia. [...] Tôi ngồi nhìn lên kèo ong, thấy nó cũng giống như những tổ ong rừng vẽ trong sách vậy thôi. Nhưng có điều khác là không phải ngẫu nhiên mà nó đóng trên một cành cây nào đó. Chính tía nuôi tôi đã định sẵn cho chúng nó một nơi về đóng tổ... Theo như lời thầy giáo của tôi bảo, người La Mã xưa kia nuôi ong trong những cái tổ bằng đồng hình chiếc vại, có đục thủng nhiều hàng lỗ Mễ Tây Cơ) làm tổ nuôi ong bằng đất lô con vòng quanh miệng, quanh đáy. Người nung, , như một cái ống có hai cái loa hai đầu, giữa lưng ống đắp một hình đầu người nho nhỏ làm vật trang trí, dùng hai sợi thừng treo lên cành cây. Người Ai Cập nuôi ong trong những tổ bằng sành, hình ống dài, xếp chồng lên nhau, đặt trên bãi cỏ. Ở Phi châu người ta đục ruỗng một khúc thân cây, vít kín hai đầu, chỉ chừa một lỗ khoét nho nhỏ cho ong ra vào, treo lên bằng một đoạn dây nhỏ có mấu. Ở xứ Tây Âu, tổ ong lại lợp, bện bằng rơm đủ kiểu, hình thù khác nhau... Không có nơi nào, xứ nào có kiểu tổ
vùng U Minh này cả. 

Những con ong vẫn nối cánh nhau bay đi bay về trên tổ, trước mặt chúng tôi kia. Con nào cũng lượn một vòng tròn trước khi đáp xuống. Người ta bảo rằng đó là vũ điệu báo hiệu của loài ong.

[..] Chúng tôi ngồi ăn cơm dưới một bụi cây tràm râm mát. Bóng nắng nghiêng nghiêng rọi chếch xuống chỗ tôi ngồi. Mấy con gầm ghì sắc lông màu xanh đang tranh nhau với bầy vẹt mỏ đỏ, giành mô những quả chín trên cây bồ đề. Lâu lâu, vài ba trái quả vàng rụng rơi lộp bộp, lăn vào cạnh chân tôi như hòn bị. rừng phương Nam,

(Đoàn Giỏi, Đất rừng phương Nam, NXB Văn học, Hà Nội, 2015, tr. 148-159)

em hãy viết đoạn văn nêu cảm xúc suy nghĩ của mành sau khi đọc xong văn băn ''đi lấy mật''
 

1

Sau khi đọc xong "Đi lấy mật", em cảm thấy vô cùng ngưỡng mộ những người nông dân đi lấy mật ong rừng ở vườn U Minh. Họ đều là những người thạo nghề và đầy sáng tạo độc đáo trong cách nuôi ong khiến An không khỏi trầm trồ. Để "thuần hóa ong rừng" không phải chuyện đơn giản mà cần đòi hỏi cả kiến thức, kinh nghiệm và trải nghiệm. Đọc xong tác phẩm đã giúp em hiểu hơn về cuộc sống và công việc của những người dân ở vùng đất U Minh và trân trọng công sức lao động vất vả của họ.

5 tháng 1 2018

Sự có mặt của lưu dân Việt trước năm 1698 ở vùng đất Đồng Nai - Gia Định là cơ sở quan trọng cho việc các chúa Nguyễn thực hiện những kế hoạch của mình khi mở mang quốc gia về phía Nam.

Trong những lớp di dân đến khai khẩn, người Việt đến Đồng Nai khá sớm. Trong vốn văn hóa dân gian của người Việt, vùng đất Đồng Nai được nhắc đến trong nhiều ca dao. Tùy thuộc vào nội dung bài hay câu ca dao mà những thế hệ di dân thuở đầu phản ánh vùng đất Đồng Nai qua nhiều góc nhìn khác nhau, gắn liền với những sự kiện, chuyện tích liên quan...

Có lẽ, câu ca dao quen thuộc nhất, được nhiều người hay nhắc đến là:

Nhà Bè nước chảy chia hai

Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.

Câu ca dao này nhắc đến địa danh Nhà Bè - chuyện tích cảm động về nhân vật Thủ Huồng xưa làm bè ở ngã ba sông để làm từ thiện, tích đức. Nơi ngã ba sông ấy chia đôi đường để đi đến Gia Định hay Đồng Nai. Đất Đồng Nai như mời gọi những ai muốn đến, muốn về.

Xứ sở Đồng Nai của một thời, muôn ngàn khó khăn đối với những người di dân thuở khai khẩn, được thể hiện trong câu ca:

Đồng Nai xứ sở lạ lùng

Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um.

Thế nhưng, vùng đất rộng người thưa ấy qua một thời được khai khẩn đã trở thành vùng đất mới đầy hứa hẹn. Người di dân đến đây tìm được nguồn lợi và mưu cầu về một cuộc sống tốt hơn. Không những thế, xứ sở này được họ khai phá trở thành một nơi danh tiếng:

Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai

Ai về xin nhớ cho ai theo cùng.

hay:

Hết gạo thì có Đồng Nai

Hết củi thì có Tân Sài chở vô.

hoặc:

Đồng Nai gạo trắng nước trong

Ai đi đến đó thời không muốn về.

Vùng Đồng Nai trở nên danh tiếng khi trở thành vùng có nước ngon, gạo nhiều. Đồng Nai trở thành một nơi sản xuất lúa gạo lớn của cả vùng đất phương Nam, được nhắc đến trong câu: "Cơm Nai Rịa, cá Rí Rang". Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (năm 1820) có viết: "Bà Rịa là đầu trấn Biên Hòa, là đất có danh tiếng, nên các phủ phía Bắc có câu ngạn rằng: cơm Nai Rịa, cá Rí Rang, ấy là xứ Đồng Nai và Bà Rịa đứng đầu...".

Đồng Nai có con sông lớn, nước ngọt, trong xanh. Phát tích từ cao nguyên Langbian, sông Đồng Nai vượt qua bao thác ghềnh, núi đồi để hòa biển Đông. Những nơi dòng sông đi qua để lại nhiều cảnh quan thiên nhiên kỳ thú từ Cát Tiên đến thác Trị An, làng Tân Triều...

Đồng Nai nguồn mọi cao sang

Chảy xuống hai hàng, hàng Đại, hàng Sâm.

Hàng Sâm là một địa danh của thác Trị An, ngọn thác cuối cùng trên dòng chảy sông Đồng Nai. Thác Trị An gắn liền với những truyền thuyết lý thú.

Danh xưng Đồng Nai còn được nhắc đến như một đối sánh với đất kinh kỳ "Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai". Hình ảnh của sông Đồng Nai đi với chùa Thiên Mụ vang danh xứ Huế như một điều thề hứa vững chắc:

Bao giờ cạn nước Đồng Nai

Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền.

Hơn ba trăm năm có lẻ, Biên Hòa xưa - Đồng Nai nay, trải qua bao biến thiên lịch sử đã ghi lại nhiều dấu ấn trong diễn trình hình thành và phát triển. Trên vùng đất này, nhiều địa danh, di tích, vùng đất, con sông, bến nước, làng quê, cù lao... với tên gọi, đặc điểm riêng được nhắc đến nhiều trong những bài ca dao thân thuộc.

- Nước Đồng Nai sóng dồi lên xuống

Cửa Đồng Môn mây cuốn cánh buồm xuôi.

- Ngó lên Châu Thới có đám mây bạch

Ngó xuống Rạch Cát thấy con cá trạch đỏ đuôi.

- Trà Phú Hội, nước Mạch Bà

Sầu riêng An Lợi, chuối già Long Tân

Cá buôi sầu huyết Phước An

Gạo thơm Phước Khánh, tôm càng Tam An...

Những bài ca dao ấy là một phần trong di sản văn hóa của cộng đồng các dân tộc sinh sống trên mảnh đất này giúp chúng ta hiểu biết thêm về Đồng Nai hiện nay.

5 tháng 1 2018

Buổi đầu khai hoang đất Đồng Nai, một vùng đất mà vào thế kỷ XVIII được tác giả Phủ Biên tạp lục miêu tả là "Từ cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, cửa Đại, cửa Tiểu toàn là rừng rậm hàng nghìn dặm” đó là xứ sở hoang vu:

Đồng Nai xứ sở lạ lùng

Dưới sông sấu lội trên giồng cọp um.

Cái xứ sở lạ lùng trong câu ca dao trên, cũng như một số câu ca dao khác, đã chỉ ra sự khác biệt đến kinh ngạc so với những vùng đất quê hương Thuận Quảng: địa hình, địa thế cảnh quan tự nhiên cũng khác; mưa nắng, khí hậu thủy văn cũng lạ và đặc biệt là thú dữ - nhất là cọp và sấu lềnh khênh. Trong khi đó, người đi khai hoang Thuận Quảng vào đây vốn chỉ sở đắc những trình độ kỹ thuật nông nghiệp lạc hậu, công cụ lao động thô sơ; đi lại trên sông rạch chủ yếu bằng ghe nan, xuồng nhỏ; để chống với thú dữ thì roi gậy, dao, búa, bẫy, rọ và khá hơn là có chút ít võ nghệ... Nói chung, vào buổi đầu khai hoang, tương quan giữa con người và tự nhiên, nói riêng ở đây là giữa con người với thú dữ - tiêu biểu là cọp và sấu, là chưa nghiêng hẳn về bên nào: một mặt, họ phải diệt sấu, săn cọp để làm chủ rừng hoang sông rạch và mặt khác, họ sợ sấu, sợ cọp. Tình trạng trong tâm thức của họ có tính chất bi kịch là do sự mâu thuẫn giữa đòi hỏi tất yếu của lịch sử và việc chưa đủ khả năng thực tế để thỏa mãn những đòi hỏi ấy. Do chưa có đủ khả năng diệt thú dữ nên họ lập miễu thờ cọp, tôn cọp làm "Sơn quân chi thần Hổ", "Chúa xứ sơn lâm", "Thần Hổ" gọi cọp bằng ông, coi sấu là thần, sợ loài sấu "thành quỉ"... Các truyện kể về việc Bầu cọp làm Hương cả biểu hiện thành nghi lễ "Bầu Ông" khá phổ biến ở các đình làng Đồng Nai đã cho thấy khía cạnh này của tâm lý người dân khai hoang.

a) Loại truyện này, về cơ bản là giống nhau trong hầu hết các trường hợp và chúng chỉ khác nhau ở các yếu tố chủ định về tên người, tên đất. Chúng tồn tại như một thần tích về cọp và dẫn đến điều cấm kỵ là ở các thôn làng ấy tuyệt nhiên không có ai cả gan đứng ra làm Hương cả. Nói cách khác, tập hợp các truyện Ông Cả Cọp là một môtip truyện dân gian đã được hình thành trên tâm thức tôn trọng luật lệ sơn lâm: Chúng tôi đến đây lập nghiệp, nhưng chúng tôi biết là "rừng nào cọp ấy" nên xin ông cứ làm chủ, làm cả và chúng tôi chỉ là kẻ bậc dưới, mong ông hiểu cho mà đừng làm hại. Đó là tâm thức của lớp lưu dân mới đặt chân đến vùng đất hoang vu đến nỗi "con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng kinh".

Một quan niệm phổ biến trong dân gian Nam bộ đặc biệt là ở vùng Long Thành - Nhơn Trạch là người ta phân biệt hổ ra hai loại:“cọp” và "hạm". Cọp là loại hổ mà theo sự xác tín, là trên trán của nó có chữ "nhâm" (?); đó là "hổ thần": không bao giờ ăn thịt người. Trong thực tế, phổ biến hơn hết, hổ thần được thờ là "bạch hổ" (cọp trắng). Truyện Ông Tăng chủ, đệ tử của Phật Thầy Tân An, đã nhờ bạch hổ đi trừ con hạm ở núi Bà Đội Om (An Giang) là một truyện tiêu biểu cho quan niệm này. Hạm là từ dùng để chỉ những con hổ ăn thịt người, đó là thứ cọp đã thành ma quỉ, thành tinh. Người ta cũng cho rằng, cọp là chúa xứ sơn lâm với khả năng nghe được tất cả những lời nói của dân chúng trong vùng. Nói cách khác, người ta tin rằng bất cứ ai nói lời xúc phạm đến cọp thì đều bị cọp trừng trị. Lại có một điều xác tín khác: cọp khi đã ăn thịt một người nào đó, thì vong hồn của nạn nhân đó bị cọp khống chế để trở thành "ma trành" có nhiệm vụ mách bảo những điều tốt xấu cho cọp, làm cho những con cọp này trở nên tinh quái đặc biệt. Các mảnh truyện kể về con "cọp ba móng" ở miền Đông Nam bộ hồi chín năm kháng chiến đều khẳng định điều này. Nói cách khác, trong dân gian người ta đã gán cho cọp những thuộc tính “siêu đẳng”: hoặc thần thánh hoặc ma quái. Và trong cuộc đối đầu giữa người và cọp đa phần đều sợ cọp, chỉ có những con người đặc biệt gan dạ mới đánh cọp.

Truyện cử cọp làm Hương cả là một cách biểu hiện của việc thờ cọp; còn việc đánh cọp đó là những mẫu chuyện vừa thực vừa hư. Sau đây là loại truyện đánh cọp rất đời: Sự tích Ông Bò - Ông Hứa:

Ông Bò dẫn gia đình đến khai hoang khoảnh rừng nay thuộc Tân cang - Phước Tân (Biên Hòa), nhưng năm nào cũng vậy, ruộng rẫy của ông cũng bị cọp phá hoại. Năm nọ, trước khi đi cày cấy, Ông Bò làm lễ cúng và hứa rằng nếu vụ mùa thu hoạch được tốt đẹp thì ông sẽ tạ lễ cho cọp cô con gái đương thì của ông. Quả nhiên năm đó ruộng của ông không bị cọp phá nên bội thu. Như đã khấn hứa, ông dẫn con gái ra dâng cho cọp. Chúa cọp dẫn lũ cọp ra "nhận" lễ vật. Vô phước cọp gặp phải cô gái võ nghệ cao cường, đánh chết cọp chúa và đuổi lũ cọp kia chạy vào rừng.

Truyện kể, sau hôm đó, ông Bò chở lúa và đưa cả nhà bỏ ruộng nơi ấy mà đi, không dám ở lại. Do sự tích này, mà vùng đất này có tên là "Ông Bò Ông Hứa". (1)

Sự tích Ông Bò Ông Hứa, khá giống với truyền thuyết về địa danh Mồ Thị Lư ở U Minh (2) khiến cho nhập ra rằng đây là môtip truyện dân gian có phần định hình trong truyện kể về cọp ở Nam bộ; và qua đó đã hé thấy sự nhập nhằng giữa việc diệt cọp và việc tôn thờ cọp, coi cọp là một thú dữ linh thính. Tính chất huyền hoặc như vậy cũng thể hiện rõ trong sự tích kể về nguồn gốc của Am Chư vị ở chùa Hóc Ông Che (Hiển Lâm tự, Hóa An Biên Hòa):

Thuở nọ, nguyên đây là một khu rừng rậm rạp, đầy thú hoang, chim chóc tụ về dày đặc. Ở đó, có một con cọp hung dữ làm hại rất nhiều người, nhưng nó quá khôn lanh nên không ai trừ khử được. Khu rừng thâm u lại càng hoang vắng hơn và chẳng mấy ai dám léo hánh vào đó.

Thuở đó, ở vùng Tân Khánh - Bà Trà (nay thuộc Bình Dương) là người giỏi võ nghệ có tiếng và ở Tân Ninh (Dĩ An) cũng có một thầy võ ở miệt dưới theo quê vợ, lập nghiệp ở đây. Cả hai tâm đầu ý hợp, kết nghĩa làm anh em, thân thiết như ruột thịt. Do vậy, đám học trò của họ cũng qua lại luyện tập võ thuật, luyện bùa gồng, phù phép triệu âm binh, âm tướng phòng khi hữu sự. Võ bùa là một môn võ thời thượng hồi đó...

Khi biết được con cọp dữ hại người ở Hóc Ông Che, thì hai ông thầy võ quyết đưa đồ đệ đến đó để tìm cọp mà giết đặng giúp dân. Họ chia làm ba cánh sạt rừng đi sâu vào trong lùng cọp. Người và thú đánh nhau từ sáng cho đến mịt tối không phân thắng bại. Đám học trò bị yếu sức bị dạt ra. Còn lại hai thầy võ quần nhau với cọp: tay vung roi miệng hô thần chú gọi âm binh âm tướng trợ lực đến quá khuya...

Sáng hôm sau, dân chúng kẻ dao người gậy nổi mõ inh ỏi cùng đám học trò xông vào trợ lực. Nhưng hỡi ôi, khi vào đến nơi, hai ông thầy võ bị cọp vồ nằm chết trên vũng máu, bên xác con cọp dữ.

Tục truyền, các âm binh âm tướng mà hai thầy võ gọi đến trợ lực, vì chủ chết bất đắc kỳ tử chưa kịp thu hồi lại được nên bơ vơ vất vưởng nơi rừng hoang, hiển lộng làm kinh hãi đến người đời. Vì vậy, về sau, tổ khai ơn chùa Hiển Lâm, đã lập am để thờ gọi là Am chư vị. Nay vẫn còn. (1)

Nói chung, truyện đánh cọp ở Đồng Nai có tính chất thực hiện như một ký sự lịch sử không thấy truyền tụng nhiều, ngoài chuyện diệt cọp Ba Móng hồi chín năm chống Pháp mà đại thể đều lồng trong một sự kiện huyền hoặc. Điều này có khác với tập hợp truyện kể về những người tài nghệ đánh cọp khá phổ biến ở Nam bộ. (2)

Ngoài các loại truyện kể liên quan đến cọp nói trên, ở Đồng Nai cũng có loại truyện kể về Thần cọp tu. Đó là truyện kể về cặp hổ vằn, gọi là Thần hổ, ở núi Chứa Chan, truyện cọp nhường hang đá/ thạch động cho vị thiền sư khai sơn chùa Chơn Tiên, truyện cọp đến nghe các nhà sư tụng kinh vào các dịp rằm ngươn ở Đá Chồng, Định Quán... Nói chung, đây là các mẩu truyện lạ mà qua đó, dường như chúng được khuôn đúc từ quan niệm "thiên nhân tương ứng", theo đó người đạo cao đức rộng thì cả quỉ thần và họng hổ đều kính phục.

Ở một hướng khác, các câu truyện này cũng còn tồn tại quan niệm coi cọp và người có cùng một kiểu thức như nhau, cùng "đồng nhất lý": người có kẻ lành người dữ, cọp cũng con hiền con ác. Tuy nhiên, quan niệm trên được thể hiện rõ rệt hơn là ở loại truyệnBà Mụ Trời. Cốt truyện của các dị bản khác nhau thuộc đề tài này đều khá gần với truyện Bà Mụ Trời ở Tân Chánh được Lương Văn Lựu kể lại trong Biên Hòa sử lược toàn biên (quyển II, trang 282 - 287). Đại thể:

"Một hôm trời vừa sẫm tối, trăng lên. Dưới ánh đèn dầu chai trong nhà, Bà Mụ Trời đang dùng cơm, thình lình có con cọp rón rén đi vào, cúi đầu phủ phục trước mặt. Bà thất sắc, toan bỏ chạy thì bị một con khác xông vào, ngoạm nhẹ thân Bà, nhắc đặt lên lưng con cọp đang nằm. Bà hoảng sợ, chới với, do trực giác tự nhiên, bà vội với tay ôm chầm tới trước thì vừa lúc cọp chậm rãi đứng dậy, thong dong đi ra cửa.

(...) Bà lão điếng hồn, ngất nằm sấp trên lưng cọp, hai tay vẫn ôm ghì trước cổ. Qua một đoạn đường rừng, cọp lớn nằm mọp xuống, thả bà trên một bãi cỏ có dấu dày xéo, ngọn nằm rạp xuống. Lần lần, bà tỉnh lại, nhận thấy gần đó có một con cọp khác đang thở mạnh gầm gừ và lạ thay, bên cạnh lại có bao mo cau đựng dụng cụ hộ sanh của bà. Trông thấy bà, cọp bỗng dứt tiếng rên gầm và cúi đầu phủ phục. Nhờ ánh trăng, bà nhận ra đó là con cọp cái, bụng to đang mấp máy cử động bên trong. Bà hội ý nhớ ra và hiểu đó là cọp cái đang chuyển sanh và cọp đực đã tìm rước bà. Bà yên trí, bớt lo sợ và vội tìm cách đỡ sanh. Bà đã áp dụng như con người sản phụ: cắt rún, chôn nhau, vắt chanh vào mắt, móc miệng lấy nhớt và để cọp con nằm trên lá khô.

Cọp cái trườn đến liếm con ra chiều âu yếm, rồi cúi mọp trước mặt bà như tỏ dấu cám ơn. Sau đó, cọp đực lại cõng bà và mang mo đựng đồ nghề về trả lại tại nhà.

Đêm đi lần vào khuya, mà người nhà bà Mụ và hàng xóm còn thức, chong đèn ngồi bàn tán thì chợt bà lão lộ diện, đem vào không khí vui mừng. Bà thuật lại mọi việc. Nghe xong đám đông đều cười, ai cũng tỏ vẻ hoan hỉ, sau một buổi tối khủng khiếp... chuyện tàn, đèn tắt, mọi người đều đi ngủ.

Sáng ra, người nhà thức trước. Vừa mở cửa ra, bỗng nhìn thấy ngay trước một ***** rừng nằm sóng sượt, mình còn đầy máu tươi. Lại một phen bàn tán. Rốt lại, cùng đoán là cọp đền ơn cho bà Mụ. Về sau, ai cũng quyết vậy vì thỉnh thoảng, trong nửa tháng hoặc vài tháng, qua đêm thâu, sân bà tiếp nhận nào nai, nào hươu bị vồ chết, cả heo nhà cũng có”.

Kết quả điều tra thực tế cho thấy rằng truyện Bà Mụ Trời (hay thường gọi là Bà Mụ Cọp) phổ biến khá rộng rãi ở các thôn làng Đồng Nai. Cốt truyện, về cơ bản, đều giống nhau và chỉ khác tên người và địa điểm. Xu hướng phổ biến trong hầu hết các trường hợp là sự khẳng định đây là chuyện có thật, thậm chí có người xác định Bà Mụ Cọp trong truyện mà người ấy vừa kể là "bà cố ngoại của vợ mình". Nói cách khác, truyện Bà Mụ Cọp tồn tại trong tâm thức người dân Đồng Nai như một "ký ức lịch sử" hơn là sáng tạo một hư cấu theo một môtip đã định hình và phổ biến mang tính chất vừa thần kì vừa ngụ ngôn minh dụ cho quan niệm về y đức và tinh thần trọng ân nghĩa. Truyện đề xuất một chuẩn mực ứng xử đầy khoan dung, hàm chứa một đạo lý rất dung dị và cũng rất cao đẹp.

Nói chung, truyện kể về cọp ở Đồng Nai, là một chùm truyện đa dạng mà nội dung của chúng là một pha trộn giữa yếu tố thực và ảo. Do đó, một mặt, chúng phản ánh các kỳ tích lớn lao của công cuộc chinh phục tự nhiên hoang dã và mặt khác, lại vẫn chứa cái tâm thức của con người thời mở cõi: Vừa muốn vươn lên làm chủ thiên nhiên vừa bị thiên nhiên đe dọa, thắng bại chưa phân định. Trong sự nhập nhằng của cuộc đấu tranh để tồn tại đó, truyện kể về cọp cũng đã biểu lộ lời giải đáp cho câu hỏi: Tồn tại như thế nào?. Ở các câu chuyện đời ấy đã đề xuất ra phương hướng cơ bản cho đạo làm người. Đó là điểm đặc sắc của tập hợp truyện kể về cọp mà không tìm thấy trong truyện kể về sấu - một trong hai đối thủ của những người khai hoang.

b) Về truyện đánh sấu, Huỳnh Văn Nghệ kể lại trong truyện Sấu Đỏ mũi. Nội dung truyện tóm tắt như sau:

Thuở ấy, ở làng Bình Hóa, huyện Thủ Đồn Sứ (tức Tân Uyên - xưa thuộc Biên Hòa, nay thuộc tỉnh Bình Dương) có một thanh niên tên là Năm Hải. Hồi ấy, sông Đồng Nai có rất nhiều sấu đến nỗi muốn tắm giặt phải tốn công phu rào bến thành cái "bến chuồng” nhỏ hẹp, không được bơi lội tự do. Gà, vịt, chó, heo bị sấu bắt thịt hàng ngày. Dân chúng ai cũng oán sấu, nhưng nhiều người dầu bị sấu làm hại cũng không dám oán trách lại còn làm thịt gà vịt để cúng thần sấu.

Hôm nọ, người vợ mới cưới của Năm Hải vừa mới về nhà chồng thì bị sấu bắt trong lúc chị đang ngồi trên cầu rửa bát. Năm Hải hận sấu khôn cùng nên thề là quyết giết cho bằng được con sấu ăn thịt vợ mình mới thôi. Anh đi rèn lưỡi câu, lao, búa để đánh nhau với sấu và anh nghĩ ra cách dùng vịt để câu sấu. Bằng cách ấy, Năm Hải đã giết hàng trăm con sấu, nhưng chưa diệt được con sấu đã ăn thịt vợ mình nên chưa hả dạ...

Bỗng một hôm, Năm Hải gặp được con sấu đỏ mũi rất to. Nó vừa mắc câu thì lôi xuồng anh chạy như thuyền buồm gặp gió to. Anh càng phóng lao vào nó thì nó càng vùng vẫy như điên làm cho cả khúc sông nổi sóng. Anh cố sức ghì sấu lại gần để dùng búa mà chém. Sấu bị đau điếng, vừa giẫy chết, vừa dùng đuôi quật đắm xuồng và bứt đứt dây câu mà chạy. Năm Hải liều chết phóng theo, một tay nắm lấy đuôi nó, một tay dùng ngọn lao cuối cùng của anh mà đâm sâu vào tim sấu. Máu sấu trào ra đỏ sông. Mấy lần nó cố dìm anh xuống tận đáy sông thì mấy lần anh cố kéo nó trồi lên mặt nước. Anh vừa đuối hơi kiệt sức thì đồng bào từ hai bờ sông đã bơi xuồng ra tiếp cứu kịp thời, kéo được con sấu lên bờ...

Mổ bụng con sấu ra, anh Năm Hải bỗng thấy đôi vòng và đôi hoa tai đám cưới của vợ anh còn nguyên trong ấy. Anh khóc kể rất thảm thiết, rồi tổ chức một đám tang, đem chôn những di tích ấy thành một nấm mồ cho vợ anh.

Truyện Sấu đỏ mũi, trong chừng mực nào đó khá gần với truyện con sấu hung dữ ở Vũng Gấm (nay thuộc vùng Phước An, Nhơn Trạch) được Trương Quốc Dung chép trong Thối thực ký văn, viết hồi đầu thế kỷ XIX: Con sấu này rất to lớn, thường quật đuôi làm lật thuyền để bắt người ăn thịt. Người người qua lại khúc sông này đều sợ. Tục truyền, hôm con sấu ăn thịt một ông Tư Bộ nọ, và từ đó, nó trở thành một thứ "ma trành": oan hồn của người bị ăn thịt đã bị nó khống chế buộc làm "trợ thủ" giúp nó trở thành khôn lanh đặc biệt trong việc hại người. Con sấu này hung dữ đến mức thời ấy đã có lời tụng rằng: "dữ như cọp Vườn Trầu, ác như sấu Vũng Gấm".Dị bản của truyện kể về con sấu Vũng Gấm này là truyện kể về địa danh: Sông Ông Kèo, hiểu nơi đó, là nơi hoạt động của con sấu (gọi là Ông) chuyên “kèo” (lôi) người đi ghe xuồng té xuống sông để ăn thịt.

Truyện Sấu mũi đỏ, cũng như truyện Sấu Vũng Gấm (hay sự tích địa danh sông Ông Kèo) là truyện kể mà về cơ bản khá gần vớisự tích Ông Luồng ở sông (Tiên Thủy) (Bến Tre) mà Trịnh Hoài Đức đã có chép trong Gia Định Thành thông chí (1). Điều đó cho thấy rằng ở xứ sở lạ lùng hồi buổi đầu khẩn hoang: "Dưới sông sấu lội, trên giồng cọp um" đó, truyện kể về việc diệt các con sấu dữ ăn thịt người ta là một mẫu đề dân gian phổ biến chung rộng cho cả vùng, ở đó, tính chất hiện thực được thể hiện ở các yếu tố chỉ định về địa danh, nhân danh của từng câu chuyện và làm cho truyện đậm tính chất kí sự lịch sử mặc dù yếu tố huyền hoặc, bắt nguồn từ quan niệm vong hồn kẻ chết oan không được siêu thoát (còn vương vấn trên trần gian thành một thứ ma quỉ cô độc gieo rắc những điều bất tường cho thế nhân), là cơ sở định hướng cho sự ảo hóa các truyện này.

Nói tóm lại, truyện kể về đánh cọp diệt sấu là một tập hợp truyện phản ánh về công tích kỳ vĩ của buổi đầu chinh phục tự nhiên hoang dã của những tập đoàn lưu dân ở vùng đất mới cách nay trên dưới 300 năm. Ở thời điểm đó, những quan niệm làm cơ sở định hướng cho sự ảo hóa trong các sáng tác tự sự dân gian này không phải là tư duy thần thoại hồn nhiên mà là thuyết thiên nhân tương ứng, là quan niệm "duy hồn" đượm màu sắc nhân quả luân hồi của Phật giáo dân gian. Đó cũng là những quan niệm bàng bạc trong các truyện kể về đề tài thế sự.

5 tháng 1 2019

Cái xứ sở lạ lùng trong câu ca dao trên đã chỉ ra sự khác biệt đến kinh ngạc so với những vùng đất quê hương Thuận Quảng: địa hình, địa thế cảnh quan tự nhiên cũng khác; mưa nắng, khí hậu thủy văn cũng lạ và đặc biệt là thú dữ - nhất là cọp và sấu lềnh khênh. Họ phải tiêu diệt sấu tiêu diệt cọp để làm chủ khai hoang.Nhưng họ sợ sấu sợ cọp. Họ tôn thờ gọi sấu là thần còn coi hổ là ông.

5 tháng 1 2019

Sự có mặt của lưu dân Việt trước năm 1698 ở vùng đất Đồng Nai - Gia Định là cơ sở quan trọng cho việc các chúa Nguyễn thực hiện những kế hoạch của mình khi mở mang quốc gia về phía Nam.

Trong những lớp di dân đến khai khẩn, người Việt đến Đồng Nai khá sớm. Trong vốn văn hóa dân gian của người Việt, vùng đất Đồng Nai được nhắc đến trong nhiều ca dao. Tùy thuộc vào nội dung bài hay câu ca dao mà những thế hệ di dân thuở đầu phản ánh vùng đất Đồng Nai qua nhiều góc nhìn khác nhau, gắn liền với những sự kiện, chuyện tích liên quan...

Có lẽ, câu ca dao quen thuộc nhất, được nhiều người hay nhắc đến là:

Nhà Bè nước chảy chia hai

Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.

Câu ca dao này nhắc đến địa danh Nhà Bè - chuyện tích cảm động về nhân vật Thủ Huồng xưa làm bè ở ngã ba sông để làm từ thiện, tích đức. Nơi ngã ba sông ấy chia đôi đường để đi đến Gia Định hay Đồng Nai. Đất Đồng Nai như mời gọi những ai muốn đến, muốn về.

Xứ sở Đồng Nai của một thời, muôn ngàn khó khăn đối với những người di dân thuở khai khẩn, được thể hiện trong câu ca:

Đồng Nai xứ sở lạ lùng

Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um.

Thế nhưng, vùng đất rộng người thưa ấy qua một thời được khai khẩn đã trở thành vùng đất mới đầy hứa hẹn. Người di dân đến đây tìm được nguồn lợi và mưu cầu về một cuộc sống tốt hơn. Không những thế, xứ sở này được họ khai phá trở thành một nơi danh tiếng:

Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai

Ai về xin nhớ cho ai theo cùng.

hay:

Hết gạo thì có Đồng Nai

Hết củi thì có Tân Sài chở vô.

hoặc:

Đồng Nai gạo trắng nước trong

Ai đi đến đó thời không muốn về.

Vùng Đồng Nai trở nên danh tiếng khi trở thành vùng có nước ngon, gạo nhiều. Đồng Nai trở thành một nơi sản xuất lúa gạo lớn của cả vùng đất phương Nam, được nhắc đến trong câu: "Cơm Nai Rịa, cá Rí Rang". Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (năm 1820) có viết: "Bà Rịa là đầu trấn Biên Hòa, là đất có danh tiếng, nên các phủ phía Bắc có câu ngạn rằng: cơm Nai Rịa, cá Rí Rang, ấy là xứ Đồng Nai và Bà Rịa đứng đầu...".

Đồng Nai có con sông lớn, nước ngọt, trong xanh. Phát tích từ cao nguyên Langbian, sông Đồng Nai vượt qua bao thác ghềnh, núi đồi để hòa biển Đông. Những nơi dòng sông đi qua để lại nhiều cảnh quan thiên nhiên kỳ thú từ Cát Tiên đến thác Trị An, làng Tân Triều...

Đồng Nai nguồn mọi cao sang

Chảy xuống hai hàng, hàng Đại, hàng Sâm.

Hàng Sâm là một địa danh của thác Trị An, ngọn thác cuối cùng trên dòng chảy sông Đồng Nai. Thác Trị An gắn liền với những truyền thuyết lý thú.

Danh xưng Đồng Nai còn được nhắc đến như một đối sánh với đất kinh kỳ "Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai". Hình ảnh của sông Đồng Nai đi với chùa Thiên Mụ vang danh xứ Huế như một điều thề hứa vững chắc:

Bao giờ cạn nước Đồng Nai

Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền.

Hơn ba trăm năm có lẻ, Biên Hòa xưa - Đồng Nai nay, trải qua bao biến thiên lịch sử đã ghi lại nhiều dấu ấn trong diễn trình hình thành và phát triển. Trên vùng đất này, nhiều địa danh, di tích, vùng đất, con sông, bến nước, làng quê, cù lao... với tên gọi, đặc điểm riêng được nhắc đến nhiều trong những bài ca dao thân thuộc.

- Nước Đồng Nai sóng dồi lên xuống

Cửa Đồng Môn mây cuốn cánh buồm xuôi.

- Ngó lên Châu Thới có đám mây bạch

Ngó xuống Rạch Cát thấy con cá trạch đỏ đuôi.

- Trà Phú Hội, nước Mạch Bà

Sầu riêng An Lợi, chuối già Long Tân

Cá buôi sầu huyết Phước An

Gạo thơm Phước Khánh, tôm càng Tam An...

Những bài ca dao ấy là một phần trong di sản văn hóa của cộng đồng các dân tộc sinh sống trên mảnh đất này giúp chúng ta hiểu biết thêm về Đồng Nai hiện nay.

30 tháng 10 2016

– Hai câu đầu: khẳng định chủ quyền của dân tộc

+ “Sông núi nước Nam, vua Nam ở” khẳng định rất rõ ràng về việc chủ quyền, đất nào thì vua ấy. Một sự độc lập và có chủ quyền riêng về chính trị, quân sự.Đó là sự thật hiển thiên không ai, không một thế lực nào được xâm phạm vào lãnh thổ chủ quyền của dân tộc ấy. Đó thể hiện một chân lí của cuộc đời

+ “ Vằng vặc sách trời chia xứ sở” trong đời sống tinh thần của mỗi người dân đất Việt từ xưa đến này trời là một vị tối thượng có thể sắp đặt mọi chuyện của nhân thế – tất cả do trời định. Vậy đất nước Nam này đã được trời ghi được định phận ở sách trời – có nghĩa là không ai có thể phủ nhận và đi lại ngược lại đạo lý mà trời đã định.Một việc đã vằng vặc như vậy thể hiện đó như là một chân lí của trời đất, càng nhấn mạnh thêm lần nữa về chủ quyền lãnh thổ của dân tộc.

Vậy việc tuyên bố chủ quyền dựa vào việc trời định, chân lí của đất trời, dựa trên lẽ phải tất lẽ, không thể chối cãi, không thể phủ nhận.

– Hai câu cuối: Sự một một quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ ấy

+ “Giặc dữ cớ sao phạm đến đây” lời hỏi tội lũ giặc cớ sao sang xâm phạm, làm những điều xấu xa, phi nghĩa và sao lại dám trái với đạo trời, đã làm trái với những gì trời định.

+ “Chúng mày nhất định phải tan vỡ” đó là lời cảnh báo trước những việc mà lũ giặc đã làm – gieo gió thì gặp bão. Điều không thể tránh khỏi đối với những kẻ xấu xa, lũ làm việc bất nhân, tàn bạo mà phải gánh chịu. Không chỉ vậy câu thơ còn khẳng định ý chí quyết tâm sắt đá bảo vệ chủ quyền của đất nước đến cuối cùng mà còn tạo nên được niềm tin tất thắng mai sau.

– Nhận xét bố cục: Bố cục chặt chẽ giống như một bài nghị luận. Hai câu đầu đã nêu ra chân lí và hai câu sau nếu ra vấn đề có tính hệ quả cho chân lí đó.

 

Nghệ thuật: Dùng từ Hán Việt.

30 tháng 10 2016

Nghệ thuật và nội dung của bài Sông Núi nước Nam:

1.Nghệ thuật :

- Thể thơ thất ngôn tứ nguyệt,nhịp 4/3,giọng đanh thép hùng hồ

2.Nội dung

- Lời khẳng định chủ quyền lãnh thổ của một đất nước

- Ý chí kiên quyết bảo vệ Tổ quốc,bảo vệ dân tộc

 

26 tháng 4 2018

Mọi ngưòi giúp mik vs 

Dựa vào kiến thức đã học ở bậc tiểu học, hãy xác định quan hệ từ trong các câu dưới đây:(1) Nội dung thơ Xuân Hương toát ra từ đời sống bình dân, hằng ngày và trên đất nước nhà. Xuân Hương nói ngay những cảnh có thực của núi sông ta.(2) Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương, người đẹp như hoa, tính nết hiền dịu.(3)...
Đọc tiếp

Dựa vào kiến thức đã học ở bậc tiểu học, hãy xác định quan hệ từ trong các câu dưới đây:

(1) Nội dung thơ Xuân Hương toát ra từ đời sống bình dân, hằng ngày và trên đất nước nhà. Xuân Hương nói ngay những cảnh có thực của núi sông ta.

(2) Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương, người đẹp như hoa, tính nết hiền dịu.

(3) Bởi tôi ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn lắm.

(4) Mẹ thường nhân lúc con ngủ mà làm vài việc của riêng mình. Nhưng hôm nay mẹ không tập trung vào việc gì cả.

b) Trả lời các câu hỏi sau:

(1) Các quan hệ từ ở các câu trên liên kết những từ ngữ hay những câu nào với nhau?

(2) Trong bốn ví dụ (1,2,3,4) có sử dụng từ trên đây, ở ví dụ nào, quan hệ từ dùng để biểu thị:

- Quan hệ sở hữu

- Quan hệ nhân quả

- Quan hệ so sánh

- Quan hệ tương phản

3
12 tháng 10 2016

Quan hệ từ:" và"=> liên kết từ

Quan hệ từ: của=> liên kết từ=> quan hệ sở hữu

Quan hệ từ: như=> liên kết nối bổ ngữ với tín từ=> quan hệ so sánh

Quan hệ từ: bởi.....nên=> liên kết nỗi giữa 2 vế của câu ghép=> nguyên nhân dẫ đến kết quả

Quan hệ từ: và, giống ý trên

Quan hệ twfL nhưng=> liên kế câu=> tương phản

Quan hệ từ: mà=> liên kết nỗi 2 cụm từ

Quan hệ từ: của, giống ý trên

5 tháng 10 2016

giúp tôi vớikhocroikhocroikhocroi

QT
Quoc Tran Anh Le
Giáo viên
26 tháng 12 2023

Nhà văn đã sáng tạo ra hình ảnh chiếc tàu ngầm dựa trên cơ sở hiện thực:

- Tác phẩm Hai vạn dặm dưới đáy biển của Véc-nơ ra đời năm 1870.

- Khi đó, tàu ngầm đang được thử nghiệm ở mức độ sơ khai.

27 tháng 12 2016

Phieu hoc tap 1:

(1)ve thien nhien,hien tuong.

(2)dua vao nhung su viec trog thuc te,cs cua con nguoi xung quanh.

(3)giup ta biet cach van dung tu nhien,thien nhien,thien van,...de du doan ap dung vao cs

Phieu hoc tap so 2:

(1)ve lao dong,san xuat

cau 2,3 deu giong nhu phieu hoc tap 1

29 tháng 12 2016

Viết dấu đi bạn

20 tháng 3 2022

câu d là ghi ra giấy thi thành phần trạng ngữ trg đoạn thơ trên nha, ghi vôi nên nhầm

 

 

20 tháng 3 2022

ko ai giúp e trog lúc thi đou em à