K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

8 tháng 9 2021

Tham khảo:

“Sáng tháng Năm” (viết tháng 5-1951) là bài thơ đặc sắc, một đỉnh cao sáng tác của Tố Hữu về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cho đến nay, có nhiều nhà thơ viết về Bác, nhưng “Sáng tháng Năm” của Tố Hữu vẫn đứng ở hàng đầu, với bút pháp không thể nhòa lẫn. Bài thơ đã trở thành hành trang tinh thần của biết bao cán bộ, chiến sĩ trong hai cuộc kháng chiến thần kỳ, trở thành tiếng hát ru con, ru cháu thiết tha của những người bà, người mẹ Việt Nam.

Là một cán bộ cao cấp của Đảng, có nhiều dịp được tiếp xúc và làm việc với Bác, lại là một nhà thơ có tài năng tiêu biểu của cách mạng, Tố Hữu đã biểu hiện những tình cảm thành kính, những suy tư sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hình ảnh Bác Hồ được Tố Hữu khắc họa hết sức chân thực. Bác là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc nhưng vô cùng giản dị, luôn luôn gắn bó, đồng cảm với nhân dân. Thiên tài lãnh đạo, trí tuệ trác tuyệt và lòng nhân ái mênh mông của Người đã dắt dẫn nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc.

So-498--Hinh-tuong-Bac-Ho-trong-Sang-thang-nam-cua-To-Huu---Anh-1
Bác Hồ trò chuyện với nhà quay phim Nguyễn Thế Đoàn cùng anh em ở chiến khu Việt Bắc.

Mở đầu bài thơ là niềm vui sướng của Tố Hữu khi được về thăm Bác vào một sáng tháng Năm – 1951 giữa núi rừng Việt Bắc tươi đẹp – căn cứ địa của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp: “Vui sao một sáng tháng Năm/ Đường về Việt Bắc lên thăm Bác Hồ/ Suối dài xanh mướt nương ngô/ Bốn phương lồng lộng thủ đô gió ngàn”.

Tiếp đó, nhà thơ mô tả khung cảnh nơi Bác làm việc: “Bác kêu con đến bên bàn/ Bác ngồi Bác viết nhà sàn đơn sơ/ Con bồ câu trắng ngây thơ/ Nó đi tìm thóc quanh bồ công văn/ Lát rồi chim nhé, chim ăn/ Bác Hồ còn bận khách văn đến nhà” (theo bản in đầu tiên của Tố Hữu – ĐNĐ). Ở Việt Bắc, Bác Hồ sinh hoạt như mọi người dân miền núi. Bác làm việc trong nhà sàn. Không có tủ đựng tài liệu, mọi công văn, giấy tờ phải đựng trong bồ (đồ dùng đựng thóc đan bằng tre nứa của đồng bào vùng cao). Con bồ câu trắng đâu chỉ “tìm thóc quanh bồ công văn”, mà từ lâu, nó đã thân thiết với Bác, và Bác cũng yêu quý bồ câu biết ngần nào. Cái tình của Bác không chỉ dành cho nhà thơ – “khách văn” của Người, mà còn bao trùm lên mọi cảnh vật. Bác không bao giờ thờ ơ hoặc xa lạ với mọi biểu hiện của cuộc sống.

Hình ảnh Bác Hồ được nhà thơ thể hiện như một người cha tôn kính và cực kỳ gần gũi với mọi người: “Bàn tay con nắm tay cha/ Bàn tay Bác ấm vào da vào lòng/ Bác ngồi đó, lớn mênh mông/ Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non…/ Bác Hồ, cha của chúng con/ Hồn của muôn hồn/ Cho con được ôm hôn má Bác/ Cho con hôn mái đầu tóc bạc/ Hôn chòm râu mát rượi hòa bình”. Bác vĩ đại. Bác trường tồn. Cho nên, nhà thơ đã dùng những hình ảnh kỳ vĩ, tươi đẹp, vĩnh hằng để ví với Bác: “Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non”! Bác vừa đẹp như một cụ già thuần hậu, chân chất Việt Nam, vừa như một ông tiên hiền từ luôn mang phước lành đến cho mọi người. Bác là linh hồn của cả dân tộc và kết tinh khí thiêng sông núi Việt Nam.

“Ôi cái tên kính yêu Hồ Chí Minh!”. Tên Bác trở thành niềm tin yêu thiêng liêng, tạo nên sức mạnh thần kỳ của quân và dân ta. Từ anh bộ đội nơi chiến trận đến anh thợ quân giới, từ những anh chị dân công hỏa tuyến đến các em học sinh ở hậu phương… tất cả mọi người, mỗi khi nhớ đến Bác, nghĩ về Bác, lại càng chiến đấu giỏi, sản xuất hăng say, công tác và học tập tốt. Tiết tấu ở khổ thơ này dồn dập, lôi cuốn, tạo nên niềm phấn chấn, làm tăng giá trị khẳng định: “Các anh chị, các em ơi, có phải/ Mỗi khi lòng ta xao xuyến rung rinh/ Môi ta thầm kêu: Bác Hồ Chí Minh! / Và mỗi trận, mỗi mùa vui thắng lợi/ Đôi mắt Bác hiện lên cười phấn khởi/ Ta lớn cao lên, bay bổng diệu kỳ/ Trên đường dài, hai cánh đỡ ta đi”. Bác cho ta sức mạnh, niềm tin, xua tan những dao động nhất thời của mỗi người. Mỗi ánh mắt vui cười và lời khen ngợi, động viên của Bác đều làm cho chúng ta thêm phấn khởi và trưởng thành. Bác cao cả nhường ấy, nhưng Bác luôn luôn ở bên cạnh chúng ta. Chỗ nào có ta, là nơi ấy có Bác. Bác và ta gắn bó, không thể tách rời. Thật là: “Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta/ Ta bỗng lớn ở bên Người một chút”.

Tiếng nói Bác Hồ là lời Tổ quốc. Tố Hữu biểu hiện tình cảm kính yêu Bác qua giọng nói dịu hiền, ấm áp của Người: “Giọng của Người không phải sấm trên cao/ Thấm từng tiếng, ấm vào lòng mong ước/ Con nghe Bác, tưởng nghe lời non nước/ Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau”. Bác Hồ thấu hiểu và đồng cảm với mọi tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Bởi vì, suốt đời, Bác “chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” (“Hồ Chí Minh – Toàn tập”, tập IV, NXB Sự thật, Hà Nội, 1984, tr. 100). Nhà thơ hồi tưởng khi Bác đọc “Tuyên ngôn Độc lập” ngày 2-9-1945, Bác có hỏi: “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?”. Câu nói chân tình, khiêm nhường của Bác khiến đồng bào cả nước vô cùng xúc động, cảm thấy không có gì ngăn cách giữa vị lãnh tụ tối cao với mọi người dân bình thường. Ở Bác Hồ có sự kết hợp hài hòa truyền thống văn hiến của dân tộc ta, từ Lý Thái Tổ, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung… với nền văn minh hiện đại của thế giới. Một chính khách Tây Âu trong lần gặp Bác ở Pháp vào đầu những năm 20 của thế kỷ trước, đã tiên đoán: “Nguyễn Ái Quốc là con người của nền văn minh tương lai”! Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận định: “Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh hoa và khí phách của dân tộc, lương tâm của thời đại” (Phạm Văn Đồng – “Tổ quốc ta, nhân dân ta, sự nghiệp ta và người nghệ sĩ”, NXB Văn học, Hà Nội, 1973, tr. 255). Đấy là những nhận định rất chí lý, sâu sắc.

Dưới ngòi bút của Tố Hữu, hình tượng Bác Hồ hiện lên với vẻ đẹp của con người Việt Nam tự nghìn xưa: “Bác Hồ đó, chiếc áo nâu giản dị/ Màu quê hương bền bỉ đậm đà”. Trước những thách thức gay go, dữ dội của cuộc kháng chiến, Bác vẫn ung dung, bình thản, sáng suốt và quyết đoán xử lý thành công mọi tình huống, bởi vì Người nắm bắt được quy luật của lịch sử. Người từng nói: “Hết mưa là nắng hửng lên thôi” (Bài “Trời hửng” – “Nhật ký trong tù”, bản dịch) và “Phải chăng khổ tận, đến ngày cam lai” (Bài “Cảm ơn người tặng cam” – 1946). Cho nên, tinh thần lạc quan cách mạng, lòng thiết tha yêu đời và đầy tự tin – là một phẩm chất tuyệt vời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bác Hồ đó, ung dung châm lửa hút/ Trán mênh mông, thanh thản một vùng trời/ Không gì vui bằng mắt Bác Hồ cười/ Quên tuổi già, tươi mãi tuổi đôi mươi”.

Đến đây, hình tượng Bác Hồ rực sáng và lớn lao vô hạn qua trí tưởng tượng mãnh liệt của nhà thơ: “Người rực rỡ một mặt trời cách mạng/ Mà đế quốc là loài dơi hốt hoảng/ Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người”. Tố Hữu đã sáng tạo thành công hình tượng lãnh tụ chân thực và độc đáo: Bác Hồ tượng trưng cho chân lý, cho nhân đạo, văn minh và sức mạnh bách chiến bách thắng của quân dân ta, tượng trưng cho cái đẹp và cái cao cả – đối lập một trời một vực với cái xấu xa, thấp hèn và khiếp nhược của kẻ thù.

Cuối bài thơ, Tố Hữu một lần nữa thể hiện lòng kính yêu Bác, niềm tự hào và tin tưởng của quân dân ta vào sự lãnh đạo thiên tài của Hồ Chủ tịch: “Người là Cha, là Bác, là Anh/ Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ/ Người ngồi đó với cây chì đỏ/ Vạch đường đi, từng bước, từng giờ…/ Không gì vinh bằng chiến đấu dưới cờ/ Đảng chói lọi Hồ Chí Minh vĩ đại”.

Bác Hồ là thế đó! Hình tượng Bác Hồ trong “Sáng tháng Năm” lung linh, kỳ diệu, nhưng lại vô cùng bình dị, sáng trong. Ở ngoài đời, cũng như trong thơ Tố Hữu, Chủ tịch Hồ Chí Minh có sức cảm hóa lớn lao đối với mọi trái tim, khối óc của dân tộc ta và nhân loại tiến bộ. Bác Hồ sống mãi trong lòng mỗi chúng ta. Và, mỗi lần đọc lại bài thơ “Sáng tháng Năm”, chúng ta lại được đến bên Người, để: “Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn”; và hơn thế nữa: “Ta bỗng lớn ở bên Người một chút”!

9 tháng 9 2021

THAM KHẢO:

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Bác không chỉ đáng yêu mà còn rất đáng kính bởi Bác là người mang đến tự do cho dân tộc. Ở con người Bác, ta còn học tập được nhiều điều đặc biệt là lối sống giản dị.

Bác Hồ là người giản dị như thế nào chắc mỗi chúng ta đều biết. Trước hết Bác giản dị trong đời sống sinh hoạt. Không chỉ trong những năm tháng khó khăn mà ngay khi đã là một vị chủ tịch nước trong bữa ăn của Bác cũng rất giản dị: “chỉ có vài ba món đơn giản, khi ăn Bác không để rơi vãi, ăn xong cái bát bao giờ cũng sạch sẽ”. Trong cách mặc của Bác cũng rất giản dị, phù hợp với hoàn cảnh, với con người Bác. “Bộ quần áo kaki, bộ quần áo nâu, đôi dép cao su, chiếc đồng hồ Liên Xô” là những đồ vật giản dị gắn liền với cuộc đời Bác. Dù là một vị chủ tịch nước nhưng Bác không hề giống như những vị vua thời phong kiến, không có long bào, không có lầu son gác tía, mà nơi ở của Bác là ngôi nhà sàn vài ba phòng đơn giản, có vườn cây, ao cá để Bác được lao động sau những giờ làm việc căng thẳng.

 

Trong việc làm Bác cũng thể hiện sự giản dị của mình. Việc gì làm được thì Bác không cần ai giúp đỡ nên số người giúp việc cũng ít, chỉ đếm trên đầu ngón tay. Bác làm việc rất cần cù, cả đời Bác không ngày nào nghỉ ngơi, từ những công việc hàng ngày đến việc cách mạng vì dân vì nước.

Không những vậy trong quan hệ với mọi người Bác cũng rất giản dị. Từ việc đi thăm nhà tập thể công nhân, viết thư cho một đồng chí hay nói chuyện với các cháu miền Nam hoặc đi thăm và tặng quà cho các cụ già mỗi khi Tết đến. Trong lần về quê, khi mọi người kéo đến rất đông Bác đã cùng mọi người ngồi trước cửa nhà nói chuyện. Dù là một vị chủ tịch nước nhưng ta không hề thấy Bác cao sang xa vời mà luôn gần gũi thân thiết.

Có thể nói, Bác Hồ chính là tấm gương sáng ngời cho một nếp sống giản dị mà chúng ta cần phải học tập và làm theo.

9 tháng 9 2021

Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, một trong số những người thân cận và gần gũi với Hồ Chí Minh nhất chính là Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Ông có nhiều bài viết và sách về Hồ Chủ tịch, bằng vốn hiểu biết và lòng kính yêu chân thành dành cho Bác, và một trong số những bài viết hay và sâu sắc nhất về Bác của Phạm Văn Đồng phải kể đến Đức tính giản dị của Bác Hồ, tập trung thể hiện vẻ đẹp nhân cách của vị lãnh tụ vĩ đại bậc nhất của dân tộc.

Đức tính giản dị của Bác Hồ là một bài viết rõ ràng, luận điểm chặt chẽ, dẫn chứng và lý lẽ mà tác giả nêu ra vô cùng thuyết phục, điều đó không chỉ hấp dẫn độc giả mà còn giúp cho người đọc có những bài học bổ ích, từ đó càng thêm kính yêu Bác Hồ vĩ đại. Đầu tiên đức tính giản dị của Bác thể hiện rất rõ nét trong sự thống nhất giữa đời sống chính trị và phong cách sống thanh bạch của Bác. Tác giả nêu ra vấn đề cần nghị luận là "sự nhất quán giữa đời hoạt động...Hồ Chủ tịch", như vậy ta có thể thấy rằng trong câu dẫn ra vấn đề này có hai vế đối lập với nhau, "đời hoạt động chính trị lay trời chuyển đất" ứng với "đời sống bình thường vô cùng giản dị và khiêm tốn". Tuy là đối lập nhưng chúng lại bổ sung cho nhau, làm nổi bật lên sự hài hòa giữa phẩm chất cách mạng và phẩm chất đời thường của Bác. Sau đó Phạm Văn Đồng đã đưa ra một lời bình rất sâu sắc về nét phẩm chất tốt đẹp ấy của Bác rằng: "Rất lạ lùng, rất kì diệu...Bác Hồ vẫn giữ nguyên phẩm chất cao quý của một chiến sĩ cách mạng, tất cả vì dân, vì nước, vì sự nghiệp lớn, trong sáng, thanh bạch, tuyệt đẹp". Cách đưa ra vấn đề như vậy vừa ngắn gọn, rõ ràng, sâu sắc và đặc biệt làm làm nổi bật được chủ đề của cả văn bản - đức tính giản dị của Bác Hồ.

Sau phần đưa ra vấn đề cần nghị luận, tác giả tiếp tục đưa ra những dẫn chứng xác đáng để chứng minh đức tính giản dị của Bác, điều đó thể hiện trong đời sống thường nhật, trong lời nói và bài viết. Đầu tiên, trong đời sống thường ngày Phạm Văn Đồng bằng sự thân cận, gần gũi và sự hiểu biết của mình đã dẫn ra những dẫn chứng vô cùng xác đáng và chân thực bằng cách vừa chứng minh vừa giải thích và bình luận xen kẽ. Trong bữa cơm và đồ dùng, thì "bữa cơm chỉ có vài ba món", "lúc ăn Bác không để rơi vãi một hột nào", "cái bát bao giờ cũng sạch và thức ăn còn lại đều được sắp xếp tươm tất". Từ đó có thể thấy rằng Bác có lối sống vô cùng đạm bạc và giản dị, lời bình "Ở việc làm nhỏ đó...người phục vụ", cho thấy Bác là người rất biết quý trọng thành quả lao động của nhân vân và công sức của những người phục vụ mình. Về ngôi nhà của Bác "vẻn vẹn chỉ có vài ba phòng", và lúc nào cũng chan hòa ánh sáng, phảng phất hương thơm của hoa vườn, thể hiện lối sống yêu và gần gũi chan hòa với thiên nhiên, cùng tâm hồn thanh bạc và tao nhã của Người. Trong làm việc, công tác Bác là người "suốt đời làm việc, suốt ngày làm việc", Bác làm từ những việc lớn đến việc nhỏ, những việc Bác có thể tự làm thì không cần đến sự giúp đỡ của người khác. Có thể thấy rằng Hồ Chủ tịch là một người tận tụy, cần mẫn, yêu lao động. Không chỉ vậy trong mối quan hệ với mọi người Bác cũng thể hiện là một người rất thân thiện và gần gũi, giản dị, viết thư cho một đồng chí, nói chuyện với các cháu thiếu nhi, rồi thì đặt tên cho các anh lính gác, đi thăm tập thể công nhân,... Cuối cùng tác giả Phạm Văn Đồng đã nêu ra một lời nhận định, giải thích về cội nguồn của đức tính giản dị của Bác rất hay và sâu sắc "Nhưng chớ hiểu lầm rằng Bác sống khắc khổ theo lối nhà tu hành thanh cao như nhà hiền triết ẩn dật. Bác sống giản dị, thanh bạch như vậy bởi vì Người sống sôi nổi phong phú đời sống và cuộc đấu tranh gian khổ ác liệt của quần chúng nhân dân. Đời sống vật chất giản dị càng hòa hợp với đời sống tâm hồn phong phú, với những tư tưởng tình cảm, với những giá trị tinh thần cao đẹp nhất".

Luận điểm tiếp theo của tác giả là sự giản dị của Bác thông qua lời nói và bài viết "vì muốn cho nhân dân hiểu được, nói được và nhớ được", sử dụng phương pháp lập luận chứng minh theo hướng nhân quả. Phạm Văn Đồng đã đưa ra dẫn chứng cụ thể chính là trích đoạn lời nói, bài viết của Bác với chân lý giản dị gần gũi, thân thuộc trong bản Tuyên ngôn độc lập "Không có gì quý hơn độc lập tự do", "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một ... không bao giờ thay đổi", mang sức mạnh vô địch, chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

Đức tính giản dị của Bác Hồ là một bài viết thấm đẫm tình cảm chân thành, lòng kính yêu của tác giả đối với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Thông qua bài viết ta có thể thấy rõ được đức tính giản dị tốt đẹp của Bác được thể hiện qua nhiều phương diện từ đời sống hàng ngày, đến lời nói, bài viết của Bác, thông qua các luận điểm rõ ràng, dẫn chứng lý lẽ đầy sức thuyết phục. Để lại cho độc giả những cảm xúc sâu sắc, khơi gợi nỗi nhớ tha thiết và tấm lòng kính yêu Bác trong tâm hồn mỗi độc giả.

18 tháng 10 2021

Em tham khảo 1 bài nhé:

Mở bài

-Dẫn dắt được vào vấn đề hợp lí.

-Trích dẫn được nội dung cần chứng minh ở đề bài, đánh giá khái quát vấn đề.

Thân bài

a) Giải thích:

-Giải nghĩa từ ngữ: “đọc”(tìm hiểu, suy ngẫm), “câu thơ hay”(có giá trị nội dung, nghệ thuật), “bắt gặp”(phát hiện ra, đồng cảm), “tâm hồn”(con người tinh thần bên trong con người)

-Khái quát ý nghĩa: Câu nói khẳng định: Tìm hiểu thơ, người đọc sẽ thấy được con người bên trong –con người tinh thần của nhà thơ.

-Đọc Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến, ta gặp một con người luôn đề cao và trân trọng tình bạn tri kỉ, một con người có tâm hồn thanh cao, gắn bó với cuộc sống đồng quê, cũng là một con người thâm trầm, hóm hỉnh.

b) Chứng minh vấn đề:

1. Tâm hồn con người trân trọng tình bạn tri kỉ:

-Niềm vui bất ngờ khi có bạn hiền đến thăm khi mình đã từ quan về quê ở ẩn(Phân tích câu 1)

Bài thơ đã khơi dậy trong ta niềm xúc động trước tấm chân tình của nhà thơ Nguyễn Khuyến:

Một chút nhẹ nhàng tự nhiên hóm hỉnh được tác giả mở đầu bằng câu thơ:

Đã bấy lâu nay, bác tới nhà

Câu thơ như một lời chào hồ hởi thân mật vừa bộc lộ nỗi vui bất ngờ vừa tỏ ý trân trọng, quý mến bạn. Đã bấy lâu nay có nghĩa là một thời gian dài, một thời gian nhà thơ không gặp bạn, giờ đây có dịp gặp nhau làm sao mà không xúc động, không vui mừng cho được. Từ lúc cáo quan về vui sống với cảnh điền viên, ông chỉ biết lấy thiên nhiên làm bạn. Trái tim ông gửi trọn cho đất nước quê hương, nên tâm hồn luôn khắc khoải u hoài. Trong những giây phút ấy mà không ai không muốn có một người bạn để tâm sự, để an ủi. Người bạn đó đã đến với ông - Còn nỗi vui mừng nào hơn. Chính nỗi vui mừng, bất chợt mà Nguyễn Khuyên đã thốt ra lời bông đùa với bạn một cách dí dỏm cho thoả lòng trông đợi.

 

-Tình cảm gắn bó sâu nặng thể hiện trong mong muốn tiếp đãi bạn hiền và lời đùa vui hóm hỉnh (Phân tích 6 câu thơ tiếp theo)

Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa/Ao sâu nước cả, khôn chài cá/Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà/Cải chửa ra cây, cà mới nụBầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa/Đầu trò tiếp khách, trầu không có.

Mới nghe qua, ta thấy dường như nhà thơ tỏ ý làm tiếc rằng đã lâu lắm rồi bạn mới tới nhà vậy mà không có một thứ gì để tiếp, bạn để thết đãi bạn cả: chợ thì xa, người nhà trẻ con đều đi vắng cả, ao thì sâu mà nước lớn, nên không chài bắt được cá; vườn rộng thênh thang thì khó mà bắt được gà. Đến một cây cải, mớ cà hoặc một quả bầu, một trái mướp cũng không sẵn; thậm chí một miếng trầu để tiếp khách cũng không có. Tác giả đang phân trần, giải thích sự thiếu sót của mình. Thực ra đây chỉ là cách nói cường điệu như vậy mà đã đùa với bạn, vừa tỏ thái độ nhớ mong chờ đợi bấy lâu mà thôi. Và qua những lời trần tình ấy ta cũng hiểu được cuộc sống của tác giả ở làng quê: đạm bạc, giản dị, luôn gắn bó với nông thôn.

 

-Lời khẳng định tình bạn tri kỉ vượt qua mọi thứ vật chất tầm thường (Câu cuối)

Bác đến chơi đây, ta với ta...

Câu thơ bộc lộ thật rõ nét tình cảm chân thành của tác giả đối với bạn. Đó là một tình cảm thiêng liêng cao quý. Quan hệ bạn bè ở đây được xây dựng trên cơ sở vững chắc là tình cảm yêu thương chân thật không màng đến vật chất. Bác đến chơi đây không có gì cả, chỉ có ta với ta khiến ta nhớ đến câu kết trong bài  Qua đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan khi đứng trước cảnh đèo ngang hoang vắng cô liêu, đang mang nặng một nỗi u buồn, niềm suy tư khôn cả, không thể tâm sự cùng ai, nên bà tự quay về với lòng mình “ta với ta”. Còn “ ta với ta” mà nhà thơ Nguyễn Khuyến sử dụng nhằm chỉ nhà thơ và người bạn tuy hai mà một, tuy một mà hai, nó gắn bó quyện chặt vào nhau, không gì chia cắt được. Ở đây chỉ có ta với ta nhưng lại có tất cả. Bởi vì tình bạn giữa ta với ta mới là cao quý, nó không đòi hỏi bất kì một điều kiện vật chất nào cả, thậm chí cả một miếng trầu làm đầu câu chuyện để tiếp bác cũng không. Qua đó ta mới thấy nghệ thuật trào lộng của Nguyễn Khuyến thật là hóm hỉnh nhẹ nhàng mà tế nhị sâu sắc.

 

2. Tâm hồn một con người có nếp sống thanh cao, gắn bó với lao động, với đồng quê:

-Từ quan về quê sống cuộc sống giản dị, thanh bần.

-Giới thiệu với bạn về những thứ cây nhà lá vườn do tự tay mình làm ra...

-Dùng ngôn ngữ bình dân chửa ra cây, vừa rụng rốn....,

3. Tâm hồn của một bậc cao nhân, vừa đùa vui hóm hỉnh, vừa thâm trầm sâu xa:

-Sau lời chào là những câu thơ ẩn chứa nụ cười hóm hỉnh, tất cả đều có nhưng lại chẳng có thứ gì để có thể thết đãi bạn quý... Cả miếng trầu cũng không có.

-Bài thơ mang ý nghĩa sâu sắc về một tình bạn cao đẹp, vượt qua tất cả hoàn cảnh, thời gian, địa lí, vượt qua mọi thứ vật chất tầm thường... Bài thơ thể hiện tài năng của nhà thơ, cũng thể hiện trí tuệ, sự uyên bác của một nhân cách lớn .

c) Đánh giá:

1. Đánh giá về nghệ thuật thể hiện: thể thơ thất ngôn bát cú, ngôn ngữ giản dị nhiều khẩu ngữ, kết cấu độc đáo bất ngờ ở câu kết...

2. Nội dung: Đọc bài thơ ta bắt gặp vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ Nguyễn Khuyến: một con người uyên bác, một nhà thơ lớn, sống thanh cao, giản dị , trọng tình nghĩa. Ông là một tác giả lớn trong nền văn học trung đại Việt Nam.

3. Đánh giá chung về vấn đề cần nghị luận:

-Thơ ca, nghệ thuật là nơi người nghệ sĩ giãi bày tâm tư, cảm xúc, rung động trước cuộc đời.

-Tác phẩm biểu hiện tâm hồn nhà thơ, vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ là cội nguồn tạo nên vẻ đẹp, giá trị tác phẩm.

-Đọc thơ hay, gặp gỡ tâm hồn người nghệ sĩ, người đọc thơ được thanh lọc, hoàn thiện tâm hồn mình.

Kết bài:

-Đánh giá khái quát lại vấn đề.

-Bộc lộ tình cảm, suy nghĩ của bản thân về vấn đề vừa làm sáng tỏ.