Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Em tham khảo nhé:
Khi học một văn bản truyền thuyết, cần lưu ý những đặc điểm của thể loại này:
Là loại truyện dân gian kể về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử thời quá khứ.
Nhân vật trong truyện là con người, loài vật, đồ vật được nhân hoá. Nhân vật thường có các đặc điểm khác lạ về lai lịch, phẩm chất, tài năng; thường gắn với sự kiện ịch sử và có công lớn đối với cộng đồng, được cộng đồng truyền tụng, tôn thờ
Cốt truyện là chuỗi các sự việc được sắp xếp theo một trình tự nhất định, có liên quan chặt chẽ với nhau. Truyện thường xoay quanh công trạng, kì tích của nhân vật mà cộng đồng truyền tụng, thường sử dụng các yếu tố kì ảo, hoang đường nhằm thể hiện tài năng, sức mạnh của nhân vật.
Truyện thể hiện thái độ, tình cảm và cách đánh giá của nhân dân đối với các sự kiện, nhân vật lịch sử.
THAM KHẢO:
Là loại truyện dân gian kể về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử thời quá khứ.Nhân vật trong truyện là con người, loài vật, đồ vật được nhân hoá. Nhân vật thường có các đặc điểm khác lạ về lai lịch, phẩm chất, tài năng; thường gắn với sự kiện ịch sử và có công lớn đối với cộng đồng, được cộng đồng truyền tụng, tôn thờCốt truyện là chuỗi các sự việc được sắp xếp theo một trình tự nhất định, có liên quan chặt chẽ với nhau. Truyện thường xoay quanh công trạng, kì tích của nhân vật mà cộng đồng truyền tụng, thường sử dụng các yếu tố kì ảo, hoang đường nhằm thể hiện tài năng, sức mạnh của nhân vật.Truyện thể hiện thái độ, tình cảm và cách đánh giá của nhân dân đối với các sự kiện, nhân vật lịch sử.
4. Khi tóm tắt một văn bản bằng sơ đồ, cần lưu ý:
Bước 1: Cần đọc kĩ văn bản cần tóm tắt, xác định văn bản gồm mấy phần hoặc mấy đoạn, mối quan hệ giữa các phần đó. Tìm từ khoá và ý chính của từng phần hoặc đoạn. Từ đó xác định nội dung chính của văn bản và hình dung cách vẽ sơ đồ.Bước 2: Tóm tắt văn bản bằng sơ đồ, dựa trên số phần hoặc số đoạn, xác định số ô hoặc số bộ phận cần có trong sơ đồ. Chọn cách thể hiện sơ đồ tốt nhấtBước 3: Kiểm tra lại sơ đồ đã vẽ, xem các ý chính của văn bản đã đủ và rõ chưa, cách thể hiện về các phần, đoạn, ý chính và quan hệ giữa chúng đã phù hợp chưa.Khi đọc một văn bản truyền thuyết, cần lưu ý những đặc điểm của thể loại này:
- Là loại truyện dân gian kể về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử thời quá khứ.
- Nhân vật trong truyện là con người, loài vật, đồ vật được nhân hoá.
- Cốt truyện là chuỗi các sự việc được sắp xếp theo một trình tự nhất định, có liên quan chặt chẽ với nhau.
- Truyện thể hiện thái độ, tình cảm và cách đánh giá của nhân dân đối với các sự kiện, nhân vật lịch sử.
Tham khảo ạ:
Những điều cần chú ý với văn bản truyền thuyết là:
Là loại truyện dân gian kể về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử thời quá khứ.Nhân vật trong truyện là con người, loài vật, đồ vật được nhân hoá. Nhân vật thường có các đặc điểm khác lạ về lai lịch, phẩm chất, tài năng; thường gắn với sự kiện lịch sử và có công lớn đối với cộng đồng, được cộng đồng truyền tụng, tôn thờ Cốt truyện là chuỗi các sự việc được sắp xếp theo một trình tự nhất định, có liên quan chặt chẽ với nhau. Truyện thường xoay quanh công trạng, kì tích của nhân vật mà cộng đồng truyền tụng, thường sử dụng các yếu tố kì ảo, hoang đường nhằm thể hiện tài năng, sức mạnh của nhân vật.Truyện thể hiện thái độ, tình cảm và cách đánh giá của nhân dân đối với các sự kiện, nhân vật lịch sử.Giới thiệu đôi nét về tác giả Tô Hoài
Bài học đường đời đầu tiên
- Tô Hoài sinh ra tại quê nội ở thôn Cát Động, Thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ trong một gia đình thợ thủ công. Tuy nhiên, ông lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam).
- Bước vào tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều công việc để kiếm sống như dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn,... nhưng có những lúc thất nghiệp.
- Từ năm 1954 trở đi, ông có điều kiện tập trung vào sáng tác. Tính đến nay, sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác.
- Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 2014 tại Hà Nội, hưởng thọ 94 tuổi.
Giới thiệu về tác phẩm “Dế Mèn phiêu lưu ký”
- Dế Mèn phiêu lưu ký là tác phẩm văn xuôi đặc sắc và nổi tiếng nhất của nhà văn Tô Hoài viết về loài vật, dành cho lứa tuổi thiếu nhi.
- Thuộc thể truyện đồng thoại
- Truyện gồm 10 chương, kể về những cuộc phiêu lưu của Dế Mèn qua thế giới muôn màu muôn vẻ của những loài vật nhỏ bé.
+ Chương 1: kể về bài học đường đời đầu tiên của Dế Mèn.
+ Chương 2: tới chương 9 kể về những cuộc phiêu lưu của Mèn, cùng người bạn đường là Dế Trũi.
+ Chương 10: kể về việc Mèn cùng Trũi về nhà và nghỉ ngơi, dự tính cuộc phiêu lưu mới.
Đoạn 2 nha ( Cho sửa tý nè )
Qua văn bản "Bài học đường đời đầu tiên" trích từ tác phẩm "Dế Mèn phiêu lưu kí" của Tô Hoài đã để lại trong em những cảm nghĩ khó quên về nhân vật Dế Mèn. Dế Mèn là một chàng dế thanh niên có vẻ đẹp cường tráng. Nhưng tích cách lại vô cùng kiêu căng và hốch hách nên chú đã gây ra cái chết của Dế Choắt để phải ân hận và rút ra bài học cho mình. Từ đó, em đã rút ra bài học cho bản thân là cần phải khiêm tốn, hòa nhã với mọi người và không được coi thường người khác để không phải nhận lại hậu quả.
Dế Mèn phiêu lưu kí là tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Tô Hoài dành cho thiếu nhi. Thông qua đó, tác giả thể hiện những khát vọng đẹp đẽ của tuổi trẻ. Bài học đường đời đầu tiên trích từ chương l của tác phẩm, kể về lai lịch Dế Mèn từ lúc còn nhỏ cho tới lúc chú rút ra bài học đầu tiên. Thông qua việc miêu tả hình dáng, lời nói, tâm trạng và những hành động nông nổi của Dế Mèn, tác giả muốn khuyên các bạn nhỏ không nên kiêu căng, tự mãn. Trước khi làm bất cứ việc gì đều phải suy nghĩ kĩ để tránh gây ra những điều có hại tới bản thân và người khác.
Bài văn có hai đoạn chính: đoạn một miêu tả hình ảnh Dế Mèn - một chàng dế thanh niên cường tráng. Đoạn hai là câu chuyện về trò đùa dại dột của Dế Mèn trêu chọc chị Cốc, dẫn đến cái chết thảm thương cho Dế Choắt. Bài văn thể hiện được nét đặc sắc của ngòi bút Tô Hoài trong nghệ thuật miêu tả và kể chuyện. Sau khi ra đời được vài ngày, Dế Mèn và mấy anh em chú đã được mẹ cho ra ở riêng, bắt đầu cuộc sống tự lập, đúng theo tục lệ lâu đời của họ hàng nhà Dế. để các con bớt khó khăn trong những ngày đầu, Dế mẹ đã chuẩn bị chu đáo cho từng đứa, từ cái hang cho đến mấy ngọn cỏ non đặt sẵn trước cửa. Thời gian đầu xa mẹ, Dế Mèn rất khoan khoái trước cuộc sống tự do. Chú chưa nghĩđến những chuyện xa xôi mà cho rằng sự ung dung, độc lập của mình là điều thú vị lắm rồi. Dế Mèn vun vén, sửa sang cái hang thành nơi ở thuận tiện và an toàn.
Cuộc sống cứ thế trôi đi trong vui vẻ, nhàn nhã. Chiều chiều, Dế Mèn cùng anh chị em hàng xóm quanh bờ ruộng tụ họp lại, vừa gảy đàn vừa hát một bài hát hoàng hôn chào tạm biệt ông mặt trời. Tối đến, cả họ nhà Dế tụ tập giữa bãi cỏ, uống sương đọng, ăn cỏ ướt... cùng nhau ca hát, nhảy múa linh đình tới sáng bạch... Ngày nào, đêm nào, sáng và chiều cũng ngần ấy thứ việc, thứ chơi... Đối với tuổi trẻ hiếu động và đầy khát vọng như Dế Mèn thì cuộc sống ấy dần dần trở nên nhàm chán.
Chẳng bao lâu, Dế Mèn đã thành một chàng Dế thanh niên cường tráng. Đoạn văn tả hình dáng, tính nết Dế Mèn chứng tỏ tài quan sát tinh tế của nhà văn Tô Hoài: Đôi càng tôi mẫm bóng. Những cái vuốt ở chân, ở khoeo cứ cứng dần và nhọn hoắt. Thỉnh thoảng, muốn thủ sự lợi hại của những chiếc vuốt, tôi co cẳng lên, đạp phanh phách vào các ngọn cỏ... Dôi cánh... dài kín xuống tận chấm đuôi. Mỗi khi tôi vũ lên, đã nghe tiếng phành phạch giòn giã. Lúc tôi đi bách bộ thì cả người tôi rung rinh một màu nâu bóng mỡ soi gương được và rất ưa nhìn. Đầu tôi to và nổi từng tảng, rất bướng. Hai cái răng đen nhánh lúc nào cũng nhai ngoàm ngoạp như hai lưỡi liềm máy làm việc. Sợi râu tôi dài và uốn cong một vẻ rất đỗi hùng dũng... Cứ chốc chốc tôi lại trịnh trọng và khoan thai đưa cả hai chân lên vuốt râu.
Qua việc miêu tả ngoại hình Dế Mèn, tác giả đã cho chúng ta thấy phần nào tính nết của chú. Dế Mèn biết mình có ưu thế về sức khoẻ nên chú thích bắt nạt các con vật nhỏ bé xung quanh, cà khịa với tất cả mọi bà con trong xóm. Chú ta đã quát mấy chị Cào Cào ngụ ở đầu bờ khiến mỗi khi thấy Dế Mèn đi qua, các chị phải núp khuôn mặt trái xoan xuống dưới nhánh cỏ, chỉ dám đưa mắt lên nhìn trộm. Tệ hơn nữa, thỉnh thoảng Dế Mèn còn ngứa chân đá anh Gọng Vó lấm láp vừa ngơ ngác dưới đầm lên.
Những chi tiết trên giúp người đọc hình dung ra một chú Dế Mèn mới lớn với vẻ đẹp ngoại hình và những nét chưa đẹp trong tính cách. Nét đẹp của Dế Mèn là có thân hình cường tráng, tính tình hiếu động, biết ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực. Bên cạnh đó, Dế Mèn còn có những nhược điểm tất yếu củatuổi mới lớn như coi trọng hình thức, kiêu ngạo, hung hăng, hay gây gổ, bắt nạt những con vật yếu đuối, thích làm bộ, ra oai với mọi người. Đoạn văn kể về quan hệ giữa Dế Mèn và Dế Choắt cũng là một đoạn văn hay và nhiều ý nghĩa giáo dục.
Cái tên Dế Choắt là do Dế Mèn đặt ra với thái độ mỉa mai, chế giễu. Dế Mèn nhìn Dể Choắt bằng con mắt khinh thường và cho rằng Dế Choắt thật xấu xí: Cái chàng Dế Choắt, người gầy gò và dài lêu nghêu như một gã nghiện thuốc phiện. Dã thanh niên rồi mà cánh chỉ ngắn ngủn đến giữa lưng... Đôi càng bè bè. nặng nề... Râu ria gì mà cụt có một mẩu và mặt mũi thì lúc nào cũng ngẩn ngẩn, ngơ ngơ. Dế Mèn nói năng với Dế Choắt rất trịch thượng, kẻ cả. Tuy bằng tuổi nhưng Dế Mèn gọi Dế Choắt là chú mày và lên giọng dạy đời: ôi thôi, chú mày ơi! Chú mày có lớn mà chẳng có khôn. Khi nghe Dế Choắt than thở về sự ốm yếu của mình và muốn Dế Mèn đào giúp cho cái ngách thông qua hang Dế Mèn phòng khi bất trắc thì Dế Mèn lại giận dữ, mắng chửi Dế Choắt như mưa: - Hức! Thông ngách sang nhà ta? Dễ nghe nhỉ! Chú mày hôi như cú mèo thế này, ta nào chịu được. Thôi, im cái điệu hát mưa dầm sùi sụt ấy đi. Đào tổ nông thì cho chết!
Đúng như Dế Mèn tự nhận: Ngẫm ra thì tôi chỉ nói lấy sướng miệng tôi. Dế Mèn không muốn nghe ai và cũng chẳng cần để ý rằng có ai nghe mình nói hay không. Dế Mèn đâu có thông cảm với khó khăn của bạn. Qua hành động và lời nói của Dế Mèn với Dế Choắt, ta thấy Dế Mèn là kẻ kiêu ngạo, coi nhẹ tình nghĩa xóm giềng và thiếu tình thương đồng loại. Thường thường, tuổi mới lớn có nhiều tính tốt và cũng có không ít tật xấu. Dế Mèn cũng vậy. Chú hay nghĩ ra những trò nghịch ngợm ranh mãnh, có khi gây hậu quả đáng tiếc. Lúc thấy bóng chị Cốc đậu trước cửa hang, Dế Mèn nảy sinh ý định rủ Dế Choắt trêu chọc chị. Khi Dế Choắt tỏ ra nhát gan từ chối thì Dế Mèn quắc mắt quát: Sợ gì? Mày bảo tao sợ cái gì? Mày bảo tao còn biết sợ ai hơn tao nữa?
Dế Mèn khoác lác nói với Dế Choắt: Giương mắt ra xem tao trêu con mụ Cốc đây này, rồi véo von ngâm bài ca dao nói về chị Cốc nhưng cố sửa đi đôi chút cho ý thêm nặng. Lúc chị Cốc nổi nóng thì Dế Mèn nhanh chân chui tọt vàotrong hang sâu thật an toàn, lên giường nằm khểnh bắt chân chữ ngũ đắc ý về trò nghịch của mình. Chỉ tội cho Dế Choắt trốn không kịp, bị chị Cốc mổ cho mấy nhát vào lưng gãy cả xương.
Nghe tiếng kêu thảm thiết của Dế Choắt, Dế Mèn sợ hãi nằm im thin thít. Lúc này, Dế Mèn mới biết thế nào là sợ. Đợi đến lúc chị Cốc đi rồi, Dế Mèn mới mon men bò sang hang Dế Choắt. Thấy Dế Choắt nằm thoi thóp thì hốt hoảng quỳ xuống, nâng đầu Choắt, thực sự hối hận về trò nghịch dại dột của mình:Tôi hối lắm! Tôi hối hận lắm! Cái chết oan của Dế Choắt đã thức tỉnh lương tâm Dế Mèn. để chuộc lại lỗi lầm, Dế Mèn đã chôn cất Dế Choắt chu đáo. Sau chuyện đó, Dế Mèn đã đau xót, ân hận, tự trách mình nông nổi, ngông cuồng và cũng từ đấy chú cố gắng sửa mình để trở thành người tốt.
Bài học đầu tiên mà Dế Mèn rút ra qua câu chuyện với Dế Choắt là: Ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn cũng mang vạ vào mình. Nhà văn mượn lời nhắc nhở của Dế Choắt để gửi tới các bạn đọc nhỏ tuổi lời khuyên không nên kiêu căng, tự mãn. Ngay từ nhỏ, chúng ta phải rèn luyện nhân cách để sau này trở thành người tử tế và hữu ích.
Đoạn trích trên đây tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả loài vật rất sinh động của nhà văn Tô Hoài. Bằng bút pháp nhân hoá đặc sắc, tác giả đã tạo cho nhân vật Dế Mèn một tính cách vừa rất riêng vừa rất chung. Dế Mèn đã trở thành nhân vật tiêu biểu với đầy đủ những nét đáng yêu và cả những tật xấu thường tình của tuổi mới lớn. Đọc truyện, chúng em tìm thấy ở Dế Mèn hình bóng của chính mình và càng suy ngẫm, càng thấm thìa những bài học quý giá mà nhà văn Tô Hoài đã khéo léo lồng vào trong đó.
Thánh gióng ( Sự kiện chính )
- Sự ra đời kì lạ và lớn lên của Thánh gióng ( Bà mẹ ướm chân vào vết chân to , Thánh Gióng lên 3 tuổi vẫn không biết đi biết nói )
- Giặc xâm chiếm , Thánh Gióng lớn nhanh như thổi ( Vua cho tìm người đánh giặc , nghe tin Gióng liền gọi Sứ Giả lại kêu làm giáp sắt ,....Thánh Gióng ăn nhiều nhà không có gạo liền kêu gọi bà con góp gạo nuôi Gióng)
- Gióng đánh tan giặc
- Gióng bay lên trời
Em thích câu chuyện Thánh Gióng vì câu chuyện nói về người anh hùng đánh giặc cứu nước
Sự tích Hồ Gươm
- Giặc Minh xâm chiếm nước Nam . Đức Long Quân cho nghĩa quân mượn gươm đánh tan giặc
- Người chài tên Thận 3 lần kéo được lưỡi gươm . Chàng tham gia nghĩa quân
- Lê Lợi tìm được chuôi gươm nạm ngọc
- Lưỡi gươm và chuôi gươm vừa như in . Lê Thận tặng cho vua
- Vua đánh tan giặc
C. Khả năng quan sát tinh tế ; ngôn ngữ trong sáng, gần với cuộc sống.
Chúc bạn học tốt!!!
- Cách miêu tả rất sinh động,hấp dẫn
- Khả năng quan sát tinh tế; ngôn ngữ trong sáng, gần với cuộc sống
Tham khảo:
bài học đường đời đầu tiên dế mèn rút ra chính là sự trả giá cho những hành động ngông cuồng thiếu suy nghĩ.bài học ấy thể hiện qua lời khuyên chân tình củadế choắt: ” Ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn rồi cũng mang vạ vào mình đấy”. Đó cũng là bài học cho chính con người.
- Thời điểm xuất hiện văn bản là thứ Bảy ngày 1/9/1018, nơi xuất hiện là @baodanang.vn. Bài viết được viết nhân dịp kỉ niệm 73 năm ngày Quốc Khánh 2/9/1945.
- Thông tin chính mà văn bản cung cấp là thuật lại quá trình chuẩn bị, soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam. Thông tin được nêu rõ ràng, cụ thể nhất trong phần (2) của văn bản.
- Những mốc thời gian được nhắc đến trong văn bản và tương ứng với sự việc:
Mốc thời gian | Sự việc tương ứng |
Ngày 4/5/1945 | Hồ Chí Minh rời Pác Bó về Tân Trào. |
Ngày 22/8/1945 | Hồ Chí Minh rời Tân Trào về Hà Nội (ở tại nhà 48 Hàng Ngang) |
Ngày 26/8/1945 | Chủ trì cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng |
Ngày 27/8/1945 | Tiếp các bộ trưởng mới tham gia Chính phủ |
Ngày 28- 29/8/1945 | Bác làm việc tại 12 Ngô Quyền tập trung soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. |
Ngày 30-31/8/1945 | Góp ý và sửa chữa lần cuối bản Tuyên ngôn Độc lập |
14h ngày 2/9/1945 | Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại vườn hoa Ba Đình trước hàng chục vạn đồng bào. |
- Tác dụng của phần sa pô:
+ Thu hút người đọc, xác định chủ đề của bài viết
+ Tóm tắt nội dung bài viết
+ Vừa thể hiện phong cách của tác giả vừa chứng minh tính thời sự
+ Những yếu tố đó có tác dụng thuật, trình bày lạị sự kiện theo trật tự thời gian, theo thứ tự từ trước đến sau, từ mở đầu đến diễn biến và kết thúc, thu hút người đọc vào thông tin đưa ra
- Việc thuật lại các sự kiện đầy đủ chi tiết, giúp người đọc nắm được những thông tin quan trọng trong quá trình trình soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập của dân tộc. Hiểu được một nội dung lịch sử trọng đại của dân tộc Việt Nam.
TL:
Tác phẩm văn xuôi nghệ thuật trong chương trình phổ thông 2000, bắt buộc
Tác phẩm văn xuôi nghệ thuật trong chương trình phổ thông 2021, tự chọn
+Lớp 7 đến lớp 9
-Một thứ quà của lúa non: Cốm (Thạch Lam)
-Mùa xuân của tôi (Vũ Bằng)
-Sài gòn tôi yêu (Minh Hương)
-Nhật kí trong tù (Hồ Chí Minh)
-Vũ trung tùy bút, Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (Phạm Đình Hổ)
-Người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ)
+ Lớp 10 đến lớp 12
-Chức phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ)
-Thượng kinh kí sự (Lê Hữu Trác)
-Việc làng (Ngô Tất Tố)
-Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân)
- Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
+Kí, tản văn (lớp 6,7; lớp 8, 9 không có tác phẩm nào)
– Cây tre Việt Nam (Thép Mới)
– Cõi lá (Đỗ Phấn)
– Cô Tô (Nguyễn Tuân)
– Lòng yêu nước (I. Ehrenburg)
– Một lít nước mắt (Kito Aya)
– Người ngồi đợi trước hiên nhà (Huỳnh Như Phương)
– Những năm ở tiểu học (trích Hồi kí Nguyễn Hiến Lê)
– Thẳm sâu Hồng Ngài (Tống Lam Linh)
– Thương nhớ mười hai (Vũ Bằng)
– Tôi ăn Tết ở Côn Lôn (Khuông Việt)
– Trưa tha hương (Trần Cư)
-…
+Kí (lớp 10, 11 và 12)
– Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
– Cơm thầy, cơm cô (Vũ Trọng Phụng)
– Đi trên đường Hà Nội (Đỗ Chu)
– Người lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân)
– Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm (Đặng Thuỳ Trâm)
– Quyết định khó khăn nhất (Trích Điện Biên Phủ – Điểm hẹn lịch sử – Võ Nguyên Giáp)
– Sống để kể lại (G. Marquez)
- Thần linh ơi, ta có các già làng (Trung Trung Đỉnh)
– Thủ tục làm người còn sống (Minh Chuyên)
– Thượng kinh kí sự (Hải Thượng Lãn Ông)
– Trong giông gió Trường Sa (nhiều tác giả)
– Việc làng (Ngô Tất Tố)
-…
Bảng thống kê tác phẩm trong chương trình Ngữ văn phổ thông cũ 2000 và mới 2021
Chương trình Ngữ văn 2000 bắt buộc với một vài tác giả đại diện còn chương trình mới 2021 tự do lựa chọn với nhiều tác phẩm của tác giả trong và ngoài nước. Chương trình cũ không phân định theo thể loại tác phẩm nhưng chương trình mới lại chỉ rõ và định hướng cho thầy và trò đọc hiểu kí gồm 2 loại: kí tự sự (nhật kí, hồi kí,du kí, kí sự, phóng sự…) và kí trữ tình (tùy bút, tản văn, bút kí…).
Một vài tác phẩm hay được chọn lại giúp thầy trò có cơ hội đọc hiểu văn bản kí đầy đủ và sâu sắc hơn. Theo chủ quan, chúng tôi thấy chương trình Ngữ văn phổ thông cũ và mới đều thống nhất mục đích môn học và chọn thể kí giàu màu sắc văn chương. Tác phẩm kí mang tới cho học sinh nhiều tri thức phong phú về vẻ đẹp ngôn từ và các giá trị văn học, giá trị nhân văn. Để giỏi tiếng mẹ đẻ, nói lời hay ý đẹp, để hiểu cuộc sống và con người, trước hết, chúng ta cần biết đọc và cảm nhận tác phẩm văn xuôi nghệ thuật như những tờ hoa ngôn từ.
Đọc hiểu tác phẩm kí thế nào
Chúng tôi xin thống nhất gọi tên tác phẩm tự sự - trữ tình gồm kí tự sự (nhật kí, hồi kí, du kí, kí sự, phóng sự…) và kí trữ tình (tùy bút, tản văn, bút kí…) là tác phẩm kí.
Tiếp nhận tác phẩm kí không dễ như tác phẩm thơ, kịch hay truyện. Trong chương trình Ngữ văn hiện hành, ở lớp 11, thầy cô giáo và học sinh được học khái lược về 4 thể loại tác phẩm văn học là thơ, truyện, kịch và văn nghị luận (tiết 49,112,113, phân phối chương trình) với một số đặc điểm khái lược và yêu cầu đọc hiểu tác phẩm theo loại thể.
Thể kí chưa có bất cứ gợi dẫn đọc hiểu nào, chưa có tài liệu giảng thể loại kí nào cho thầy cô Ngữ văn phổ thông. Thực tế, không ít thầy cô hướng dẫn trò phân tích như truyện, chỉ quan tâm đến chi tiết, sự việc mà xem nhẹ cảm xúc trữ tình. Cách làm phổ biến nhất theo sách hướng dẫn, theo bài soạn mẫu hoặc câu hỏi sách giáo khoa. Sự lúng túng về lí luận văn học và dạy học sinh của giáo viên Ngữ văn phổ thông đó rất có thể là nguyên nhân làm học trò đã chán văn lại càng thêm sợ đọc tác phẩm kí?
Thể loại kí giàu chất văn chương và báo chí, chất tự sự và trữ tình rất cuốn hút nhưng phần nhiều thầy trò đọc và phân tích, đánh giá cũng rất tùy hứng. Với những trích đoạn, thời gian ít, cùng với hiểu biết về thể loại còn hạn chế của thầy và trò; với vốn tri thức liên môn, đa ngành ít ỏi, khả năng liên tưởng, tưởng tượng theo trang kí vì thế khá chật vật, khó có thể hiểu hết các tầng ý nghĩa của văn bản. Vốn ngôn ngữ tiếng Việt cũng ảnh hưởng đến việc cảm nhận vẻ đẹp ngôn ngữ của kí.
Trong bài viết này, chúng tôi không đi sâu từng bài (chương trình hiện hành) mà chỉ xin nêu vài gợi ý cách tiếp cận giúp thầy cô và học trò đọc hiểu và bình giá tác phẩm kí nói chung một cách hiệu quả hơn. Đó là nghệ thuật trần thuật tự sự, nghệ thuật bộc lộ cảm xúc, nghệ thuật ngôn từ và sự sáng tạo của phong cách cá nhân.
a. Bút pháp trần thuật linh hoạt
Đặc trưng căn bản của thể kí là trần thuật. Tự sự, kể chuyện của truyện có cốt truyện và tuân theo mạch truyện nhưng thể loại kí lại kể theo chủ quan người viết thành ra khi đọc hiểu kí, chúng ta vừa phải theo mạch diễn biến sự việc vừa theo liên tưởng của tác giả.
Đọc Cốm của Thạch Lam, sự việc không đơn thuần là những hạt cốm xanh, gói trong lá sen xanh mà là cả cội nguồn cánh đồng thơm mùi nếp, đến bàn tay khéo léo, rồi đến cách làm, cách thưởng thức, và cả những giá trị và ý nghĩa của thứ quà quê mang hương sắc xứ sở.
Sự biến đổi từng chi tiết nhỏ trong Mùa xuân của tôi trong cảm thức của người con dù xa Hà Nội lâu năm vẫn hiện lên thật đẹp. Tả tháng giêng và mùa xuân bắc Việt, Vũ Bằng như cùng người đọc đang đi, đang nhìn, đang chạm tay vào và cảm giác da thịt cũng chạm vào màu sắc, nhiệt độ bên ngoài đến nội tâm bên trong. Màu sông xanh, núi tím, mưa riêu riêu, gió lành lạnh, đường xá sạch; tiếng nhạn, tiếng trống, tiếng hát và hình ảnh con người tháng giêng mùa xuân không chỉ rất gần gũi, chân thật mà rất mềm mại, tinh tế…
Nhà văn Lê Hữu Trác, thầy thuốc giỏi cuối thế kỉ XVIII, đã ghi lại chân xác theo diễn biến sự việc vào Kinh thành chữa bệnh cho ấu chúa Trịnh Cán. Bút pháp kí sự và tài quan sát, chọn lọc các sự việc, chi tiết tai nghe mắt thấy đã giúp tác giả hoàn thành tập Thương Kinh kí sự nổi tiếng.
Ông vua phóng sự Bắc kì Vũ Trọng Phụng và bậc thầy tùy bút Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố, Tam Lang, Võ Phiến, Trúc Chi, Mai Thảo, Nguyễn Trung Thành… đều biết cách quan sát, chọn lọc sự việc, chi tiết và miêu tả, trần thuật linh hoạt kết hợp với bộc lộ cảm xúc, cảm nhận tinh tế và chân thực.
Khi đọc hiểu tác phẩm kí, nhất thiết ta không sa vào chi tiết, liệt kê chi tiết rồi nhận xét bình giá như đọc hiểu truyện mà cần chú ý không gian hiện thực 4D như thật qua liên tưởng và xúc cảm của người viết. Bạn đọc sẽ không chỉ thấy rất cụ thể và chính xác từng sự việc, sự vật được trần thuật mà còn thấy từng thứ hiện ra theo câu văn và con chữ đẹp quyến rũ và lôi cuốn. Đọc kí, nhất là tùy bút, bút kí, độc giả khó cưỡng nổi sự lôi cuốn của sự việc là thế. Bút pháp biến hóa trần thuật liên tưởng tạt ngang tạt dọc, mở thứ này, mở luôn thứ khác để mong thỏa mãn trí tò mò khám phá của bạn đọc đã mang đến sức sống lâu bền cho thể loại kí.
b. Bút pháp trữ tình độc đáo
Giống thơ, tác phẩm kí chọn bày tỏ trực tiếp cảm xúc, giãi bày xúc cảm khi miêu tả việc và con người. Nếu nhà nho Phạm Đình Hổ, Nguyễn Dữ, Lê Hữu Trác tỏ rõ thái độ, cảm tình khen hay chê theo góc quan sát của mình thì nhà văn hiện đại viết kí lại trần thuật sự việc bằng cảm xúc, để người đọc cảm thấu thật ấn tượng về điều tác giả muốn.
Nếu phân tích tác phẩm kí chỉ loay hoay chọn chi tiết tả thực để chỉ ra nhà văn kể được những gì thì chưa ổn. Người viết trải gan ruột khi trần thuật nên đọc hiểu tác phẩm rất cần nắm cho được cảm quan và xúc cảm qua tâm trạng, qua tâm thế rất cá nhân của nhà văn. Nỗi nhớ quê và con người xứ Bắc trong Mùa xuân của tôi (Vũ Bằng) thật êm dịu và tha thiết; cảm xúc giàu chất thơ của Thạch Lam hay nhiều nỗi niềm chán ghét trong Cơm Thầy cơm cô (Vũ Trọng Phụng); niềm vui dạt dào phơi phới giàu chất thời sự trong Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (Nguyễn Tuân); cảm xúc thiết tha, trầm mặc trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường); niềm riêng dung dị, nhẹ nhàng và rất đời thường trong tập Đó đây (Trúc Chi)…
Tác giả kí có thể bằng các giác quan của mình, làm cho sự việc, sự vật dù đen tối vẫn toát lên niềm tin, dù khốc liệt ào ào toát lên sự lạc quan, hi vọng. Không bám cốt truyện như tự sự, người viết kí viết bằng nhiệt tình, hi vọng để làm lây lan sang người đọc cảm hứng sôi nổi, thiết tha và mãnh liệt.
Khi đọc hiểu thể kí, chúng ta cần phân tích theo cảm hứng bi kịch, cảm hứng anh hùng, cảm hứng lịch sử, cảm hứng đời thường hay cảm hứng châm biếm, hài hước… Mỗi tác phẩm kí đều được viết theo cảm hứng chủ đạo đó, cho nên, phân tích, bình giá tác phẩm nào cũng nên dựa theo dòng cảm xúc chi phối ngòi bút tác giả. Mặt khác, nhà văn viết kí ít chịu tác động ngoại cảnh xã hội nên cảm hứng sáng tác luôn dạt dào và tự do.
Vì thế, phân tích tác phẩm kí vừa phải chú ý nghệ thuật trần thuật vừa phải xem xét cảm hứng được bộc lộ, giãi bày qua mỗi sự việc, sự vật.
c. Đọc diễn cảm văn bản
Hàng chục năm nay, phương pháp đọc diễn cảm vẫn được xem như chìa khóa tiếp nhận tác phẩm văn học. Văn bản kí giàu cảm xúc, được viết bằng cảm xúc, bằng rung động tâm hồn nhà văn. Mỗi từ, mỗi câu, mỗi chi tiết, hình ảnh đều chất chứa sắc điệu tình điệu tạo nên giọng điệu và âm hưởng của mỗi câu văn. Thầy cô rất nên hướng dẫn các trò đọc diễn cảm, đọc đúng cảm xúc, đúng nhịp văn theo dòng chuyển động của cảm xúc tác giả. Lúc sôi nổi ào ào trong thạch trận sông Đà, lúc nhẹ nhàng sâu lắng con đò đi giữa đôi bờ như nỗi niềm cổ tích (Nguyễn Tuân); khi trìu mến, êm êm, cảnh mùa xuân dìu dịu, trong veo nhớ thương (Vũ Bằng); khi tả dòng Hương Giang, Hoàng Phủ Ngọc Tường chọn ngôn từ để bày tỏ nhiều cảm xúc hỗn hợp đan xen ở thời điểm và không gian khác nhau. Đọc nhật kí, hồi kí là sống với tác giả thật nên người ta xúc động thật.
Nếu không nhập tâm, không hóa thân vào cảnh và tình của văn bản kí, đọc giả khó có thể thấu hiểu được những dòng chữ được chắt chiu, chọn lựa để diễn tả chính xác nhất niềm thương nhớ và cung bậc bức xúc trước một sự việc, sự vật và con người đã làm nhà văn day dứt, suy tư.
Đọc đúng thì hiểu đúng và hiểu đúng thì đọc đúng! Thầy cô nên đọc mẫu và giúp trò đọc diễn cảm để cảm nhận hết vẻ đẹp tiếng Việt và ý nghĩa nhân sinh của tác phẩm kí.
d. Nghệ thuật ngôn từ tinh diệu và phong cách nhà văn
Tác phẩm văn học là tác phẩm nghệ thuật ngôn từ được chế tác bởi người nghệ sĩ ngôn từ. Đọc hiểu tác phẩm kí, chúng ta dễ dàng cảm nhận và bình giá phương thức biểu đạt của ngôn ngữ hình ảnh, sống động và giàu chất nghệ thuật. Nhiều biện pháp tu từ, nhiều thủ pháp gọt giũa được người viết tài hoa sử dụng tạo nên chất văn xuôi lãng mạn bay bổng của ngôn ngữ kí.
Sự khác biệt của mỗi tác phẩm kí chính là năng lực ngôn ngữ và tài năng huy động ngôn ngữ sáng tạo làm nên phong cách nhà văn. Chúng ta cần thiết phải đọc thêm những sáng tác khác của nhà văn và cả các tác giả khác để có cơ sở khi cảm nhận cái hay cái đẹp của nghệ thuật dùng từ, tạo câu và sở trường ngôn ngữ của mỗi tác phẩm.
Giá trị thẩm mĩ, tình điệu cảm hứng và giá trị nhận thức của mỗi tác phẩm kí đều là kết quả quá trình trải nghiệm cuộc sống, thai nghén đề tài và thể hiện sáng tạo bằng lối nghĩ, cách viết và tài năng, tâm huyết của người cầm bút.
Đọc tác phẩm kí rất thú, rất say nhưng để cảm nhận được hết vẻ đẹp giàu sang của hiện thực và ngôn từ của tác phẩm đòi hỏi nhiều nỗ lực của độc giả. Trong nhà trường phổ thông, thầy cô Ngữ văn rất cần tìm hiểu, suy nghĩ và trao đổi để cùng học sinh từng bước chiếm lĩnh trọn vẹn những giá trị của tác phẩm kí ngàn năm vẫn hấp dẫn của văn học Việt Nam.
^HT^