Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Em tham khảo:
Tuổi thơ em gắn liền với những cánh diều bay cao trong gió, đem những ước mơ bé nhỏ ,đơn sơ nhưng tình cảm theo, gắn liền với những câu truyện cổ tích mà hằng đêm được nghe bà kể, gắn liền với những lúc đợi mẹ đi chợ về, với những đêm trung thu vui đùa cùng lũ bạn, với những hôm trời mưa, rủi nhau tắm mưa, những gốc đa đầu làng - nơi vui chơi của lũ giặc chúng em - nào là bắn bi, ném dép, nhảy dây, ... là những giờ học lý thú, những câu hát ru ngọt ngào của mẹ, giọng nói dịu dàng của thầy cô, những người bạn sách vở,... Tuổi thơ ai cũng vậy, dù thời gian có trôi qua nhanh thì những kỷ niệm đẹp đẽ đó vẫn không bao giờ phai nhòa.
Mùa thu năm ấy, gió to dữ dội. Căn nhà ta vừa dựng được vài tháng bị gió thổi tung mái tranh. Ta chỉ có thể đứng nhìn mấy lớp tranh bị gió cuốn đi, cái thì bay sang sông rải khắp bờ, cái thì bị cuốn lên ngọn cây, cái thì bị cuốn xuống rãnh mương đầy nước.
Lũ trẻ thôn nam khinh ta già yếu, chúng thi nhau cướp giật tranh ngay trước mặt ta. Mặc cho ta gào thét khan cả cả cổ, chúng nó vẫn cướp tranh rồi đi tuốt về hướng lũy tre. Ta đành chống gậy quay về, lòng ấm ức.
Trong chốc lát, gió không thổi nữa, nhưng mây đen ùn ùn kéo đến, trời tối đen như mực. Mưa ào ào trút xuống, càng lúc càng dày hạt. Trong nhà không có chỗ nào không dột, chiếc mền cũ mỏng tanh lạnh ngắt, lại bị con đạp rách. Mưa cứ tiếp tục rơi, mãi không dứt.Từ lúc hoạn nạn, ta vốn đã không ngủ được, bây giờ trời lạnh, mưa ướt lại càng khó ngủ hơn.
Ta chỉ mong sao có một ngôi nhà rộng muôn ngàn gian, lại vững chắc, để cho tất cả những kẻ nghèo, dân chúng lầm than trong thiên hạ có chỗ trú chân, nương thân. Than ôi ! nhưng đến bao giờ mới có được. Nếu được như vậy, cho dù lều nhà ta nát, một mình ta chịu chết rét, ta cũng không oán hận.
Đời Đường – Trung Quốc trong khoảng những năm 618-907 thi ca nghệ thuật phát triển vô cùng mạnh mẽ và thu được những thành tựu rực rỡ. Với hơn 2.300 thi sĩ và khoảng hơn 48.000 bài, thơ Đường được liệt vào hàng thơ ca ưu tú nhất của nhân loại. Trong số đó không thể không kể đến Đỗ Phủ (712- 770) nhà thơ giàu lòng yêu nước thương dân, được tôn vinh là "thi thánh". Tính hiện thực và tinh thần nhân đạo là chủ đề xuyên suốt trong thơ. Bài thơ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá là một trong những bài thơ như vậy.
Bài thơ này được xem là một trong những bài thơ hay nhất trong số 100 bài tiêu biểu của Đỗ Phủ được sáng tác vào những năm cuối đời sống ở Thành Đô. Cùng thời gian đó loạn An Lộc Sơn vẫn chưa dứt, bài thơ lấy gốc sâu xa từ điệu dân ca cổ. Đã có rất nhiều nhà thơ có cách viết thế ca này: Thu Phô ca (Lý Bạch), Trường hận ca (Bạch Cư Dị).
Mở đầu bài thơ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá như kể lại về trận gió thu. Đây không phải là cơn gió heo may mát lành mà đây là một trận bão tố, cơn lốc vào tháng tám Gió thét gào.
Tháng tám, thu cao, gió thét gào,
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta
Tranh bay sang sông rải khắp bờ,
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa
Mảnh thấp quay lộn vào mương sa.
Căn nhà lợp tranh yếu ớt bị cơn thu phong lật tung cuộn bay khắp nơi. Có tấm tranh bay rải khắp bờ sông. Có tấm bay tận rừng xa, có tấm rơi nơi mương nước… Việc lặp lại từ tranh đến 2, 3 lần chứng tỏ trận bão tố rất ghê gớm. Căn nhà được bạn bè giúp đỡ để nương thân qua ngày giờ đây tan thương.
Ngước nhìn từng tấm tranh theo gió bay đi mà lòng xót xa, bất lực. Tiếng thơ như lời than thở, khóc lóc cho cảnh sống khổ cực của thi nhân.
Sự đau đớn xót xa được thể hiện sâu sắc hơn ở khổ thơ kế tiếp. Nhà thơ phải chứng kiến sự phá phách căn nhà của mình cùng với trận bão tố mà nhà thơ gọi là "đạo tặc".
Trẻ con thôn nam khinh ta già không sức,
Nỡ nhè trước mặt xô cướp giật,
Cắp tranh đi tuốt vào luỹ tre
Môi khô miệng cháy gào chẳng được
Quay về, chống gậy lòng ấm ức.
Chiến tranh liên miên, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, loạn lạc. Đạo đức suy đồi đến cùng cực. Lũ trẻ hàng xóm không ai dạy dỗ, không chỗ học hành chúng ngang tàng kéo đến cướp tranh nhà Đỗ Phủ. Chúng không còn biết lễ giáo, lễ phép gì nữa. Chúng khinh nhà thơ "già yếu", trơ tráo lạnh lùng trước tiếng kêu than “Môi khô miệng cháy” của tác giả. Vậy là sau thiên tai, gia đình nhà thơ lại gặp nạn "Đạo tặc". Trước mắt nhà thơ là lũ quần đồng, hạ lưu, kẻ cướp. Đó chính là sản phẩm của một xã hội đang trên đà xuống dốc. Người người sống với nhau gian tham, xã hội thì đảo điên; tấm lòng nhà thơ đau đớn vô cùng, nhìn cuộc đời, con người trong xã hội mà lòng ấm sức, căm hận biết bao. Muốn gào lên, thét lên mà không nói thành lời.
Vậy là căn nhà bị gió phá, lũ đạo tặc phá. Nó làm sao đủ sức chống lại những trận cuồng phong, mưa rét đêm thâu. Trời mưa rả rích đêm thâu mà mái nhà bị gió thu phá nát. Gió lặng, mây đen phủ kín bầu trời. Mưa tầm tã suốt đêm thâu, nhà dột không ngủ được. Đoạn thơ nêu lên một hiện thực đau lòng và khốn khổ của nhà thơ trong đêm mưa.
Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt
Con nằm xấu nết đạp lót nát
Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu
Dày hạt mưa, mưa mưa chẳng dứt.
Tuổi già, sức yếu, bệnh tật… lại phải ngồi dưới mưa, trong thâm tâm Đỗ Phủ thương mình thì ít nhưng thương cho vợ con, gia đình thì nhiều. Nỗi đau như dồn nén lại thành một khối, trút một con người bất hạnh, đau khổ gần cả cuộc đời. Nhà thơ như thấy mưa lâu hơn, nhiều hơn, đêm như dài hơn và nỗi buồn thương không dứt.
Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê
Đêm dài ướt át sao cho trót?
Thật là phúc bất trùng lai, hoạ vô đơn chí. Tai hoạ với nhà thơ là một đêm thu trời mưa nhà dột. Thân già, sức yếu ngồi co ro trong mưa rét, nhìn vợ con đang nằm dưới mưa lòng sao không đau quặn. Cái nghèo nó đeo đẳng mãi, chăn cũ lâu năm con đạp rách, nhà dột… Sự cùng cực của một gia đình tàn tạ dưới thời loạn lạc, li tán.
Trong đêm mưa rét mất ngủ ấy, nỗi lòng nhà thơ vẫn tin yêu vào cuộc sống, chất nhân văn vẫn dâng trào lo cho đời cho dân cho nước.
Ước được nhà rộng muôn ngàn gian
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan
Gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn!
Than ôi! bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!
Trong nỗi đau thương phũ phàng của cuộc đời, con người ta rất dễ rơi vào sự khủng hoảng tinh thần. Đôi khi gục đầu cam chịu, than thân trách phận nhưng với Đỗ Phủ thì hoàn toàn khác, ông ngồi trong đêm mưa lạnh cóng, có người sẽ nghĩ rằng ông sẽ ước có mái lều, tấm chăn, bát cơm… cho vợ con và bản thân ông khỏi vất vả. Thật bất ngờ trong niềm mong ước của ông, ước mơ có một ngôi nhà kỳ vĩ: “Muôn ngàn gian” vô cùng vững chắc. Ngôi nhà ấy không phải để che cho ông và gia đình mà “Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan”. Ông thương cho những người nghèo khổ không chỗ trú thân, che nắng che mưa cho dân. Thật là một tấm lòng nhân hậu. Yêu thương bao la Thường xuyên lo cho dân nghèo, than thở đến nóng gan, cháy ruột” dù cuộc đời đầy rẫy nhưng vất vả, loạn lạc. Và vì vậy ông rất đồng cảm cho cảnh ngộ muôn dân tan nát gia đình vì chiến tranh, đói khổ vì nghèo túng, bệnh tật. Đau xót cho dân cho nước, ước mơ đất nước thái bình, nhân dân no ấm nên ông quên đi cái khổ cực của bản thân. Có thể nói Đỗ Phủ có tình thương lớn của một nhà nho chân chính sống và ứng xử theo phương châm “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Qua bài thơ trên ta thấy Đỗ Phủ mang nặng tấm lòng nhân ái bao la của một con người trải qua nhiều bất hạnh giữa thời loạn lạc. Ông mong mỏi, và khao khát hạnh phúc cho muôn dân. Bài thơ chất chứa chất nhân văn cao cả của bậc vĩ nhân quên đi bản thân mình mà lo cho dân cho nước.
Biết mình sắp đi xa, nhất là đi tương đối lâu vì phải nhập ngũ năm thứ hai sau ngày đất nước thống nhất.
Thời đó, nghe tiếng đồn ở vùng Cao nguyên Đaklak giặc Phun-rô dữ lắm. Rồi cũng nghe tin có khi qua đến tận Cambodia, thì khó mà có ngày về lại để được tắm mình trên con sông quê. Tôi đã dành cho một buổi chiều để trầm mình trên sông Vu Gia quê tôi cho thỏa thích.
“… Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Tỏa nắng xuống dòng sông lấp loáng.
Chẳng biết nước có giữ ngày giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỷ niệm giữa dòng trôi
Hỡi con sông đã tắm mát cả đời tôi…”
Đó là những câu thơ trong bài thơ “Nhớ con sông quê hương” nỗi tiếng của nhà thơ Tế Hanh.
Tháng bảy là mùa giao quân đầu năm thứ hai sau năm 1975.
Con sông quê giòng chảy đã cạn, từ bờ tre ra mép nước xa hơn sáu mươi mét. Bây giờ bãi cát đã trở thành bãi lúa gieo, lúa đã trổ đòng, những hạt phấn trăng trắng bay tỏa mùi thơm. Tôi đi từng bước, từng bước để tận hưởng cái hương vị ngào ngạt của hương lúa nàng thơm. Dòng nước trong xanh, mát rượi, tôi thả hồn mình để nghe lưu luyến vào tận trong tâm khảm…
Lòng khe khẽ bài hát: “Gửi lại cho em” của nhạc sĩ Vũ Hoàng:
“… Vì quê hương hiến dâng cho cuộc đời
Chào thành phố chúng tôi lên đường
Cùng nhau ra đi nơi biên thùy căm thù giặc bước quân đi
Hàng me xôn xao vẫy chào tạm biệt nhé người thương
Gần nhau trong giây phút nầy nghe lòng rộn rã yêu thương
Dù mai xa cách phương trời đôi ta vẫn bên nhau từng ngày
Gửi lại em ước mơ bên giảng đường
Gửi lại em phố vui qua từng ngày
Gửi lại em tiếng yêu thương ngọt ngào…”
Bỏ lại sau lưng tôi đi vào quân ngũ, xa người thân yêu, xa gia đình, bạn bè yêu dấu. Nhất là xa Hội Thánh nơi mà tôi có nhiều kỷ niệm.
Rừng núi cao nguyên Đaklak thâm u, điệp trùng. Nơi tôi đóng quân nằm sâu trong rừng, xa vùng dân cư phải đi bộ suốt hai tiếng đồng hồ mới đến xóm nhỏ Eo-khanh. Nơi đây không có con sông nào đủ rộng, đủ sâu để cho tôi được trầm mình cho thỏa thích. Có chăng là những con suối nhỏ, nhưng mà nước thì trong veo chảy róc rách suốt ngày đêm.
Những ngày đầu đến đây, đơn vị tập trung cắt tranh, chặt tre nứa để làm lán trại. Bên cạnh đó là những đợt lùng sục truy quét bọn Phun-rô. Những đêm gác nơi rừng vắng cô tịch và rùng rợn, thế nhưng tâm hồn thơ vẫn cho tôi yêu đời:
Thanh thoát đêm thanh giọt sương rơi
Mây tan lồng lộng ánh sao trời
Non nước đẹp như thêu như vẽ
Hình ta sông núi dệt muôn nơi
Biết chăng em, đêm nay anh đứng
Trong lòng Tổ quốc dựng tương lai
Giữ cả màu xanh cho em nữa
Và quê hương trong ánh dương mai…
Rồi một ngày tôi cùng đơn vị hành quân vượt suối băng rừng suốt mấy ngày đêm để qua tận biên giới Cambodia để ém quân. Chờ một giờ G có lệnh sẽ cùng tất cả các đơn vị hiệp đồng binh chủng giải phóng nước bạn Khơ me. Lúc nầy thư qua lại với gia đình có ít hơn.
Chiến dịch đã mở ra, chiến trường ác liệt. Tôi phải hành quân chiến đấu suốt từ vùng Đông bắc sang Tây nam. Cuộc chiến nầy đã cuốn hút tất cả Quân binh chủng. Tôi nhớ khi cả đoàn quân tiến sâu vào Thủ đô Phnôm-Pênh, đạn pháo ngút ngàn, bầu trời đỏ lửa. Nhưng dù cuộc chiến có tàn khốc đến đâu, thì quê hương luôn là nỗi nhớ của tôi, nhất là nhớ đến con sông quê da diết.
Nhớ quê, lúc thì nhớ con mương chảy dọc cánh đồng có bầy vịt con lông vàng chiêm chiếp bơi lội. Con mương làm sạch đôi chân lấm bùn trước khi vào lớp học. Con mương ấy đã từng chở những chiếc thuyền giấy của tôi cập những bến bờ mơ ước. Không biết người ấy nhiều lần tôi muốn hỏi, có phải con mương dẫn nước về đây, ngang qua nhà người con gái mà tôi thầm thương trộm nhớ; thế mà sao, em không một lần hiểu được ánh mắt của tình tôi?
Tôi dấn thân vào cuộc chiến trên xứ người, đất nước Chùa Tháp với rất nhiều sông suối, kênh rạch và ao hồ. Tôi đã từng tắm mát dưới dòng sông Sê-ra-pốc, hay trên con sông Mê-Kông hùng vĩ. Rồi cũng có đôi lần về bơi lội trên mặt biển hồ Tông-lê-sáp. Nó là một cái hồ lớn của đất nước Chùa Tháp và là lá phổi của xứ sở Khơ me. Hồ cung cấp một lượng cá lớn cho đất nước. Nhưng không làm sao tôi quên được con sông Vu Gia quê tôi.
Sông quê tôi có nhiều kỷ niệm, từ thuở ấu thơ đã được cha mẹ dẫn đi tắm sông. Con sông nầy lại có trên bờ hai đầu thượng du và trung du hai nhà thờ Tin Lành đang tọa lạc. Bây giờ lại mọc thêm một nhà thờ Tin Lành nữa ở bờ bên kia.
Ngày ấy tôi cùng Mục sư Phan Phụng Phúc đi “dậm rung rúc” để tìm con cá con tôm bé bỏng để cải thiện đời sống. Thời kỳ Chế độ tập trung bao cấp, gia đình Mục sư cũng nhận phần đất để canh tác như bao nhiêu người dân khác. Dậm rung rúc là tiếng địa phương mà người dân quê tôi chỉ về người đi bắt con cá con tôm bằng cách đưa cái rung rúc bằng cái rổ khổng lồ bán nguyệt, rổ đan bằng nan tre già có một cái cáng tre cột chặt vào bên mặt cắt bằng. Và một dụng cụ khác không thể thiếu đó là cái bàn dậm, cần làm bằng một đoạn tre dài khoảng tám mươi centimet và cũng có cái nẹp vòng cung bán nguyệt cột chặt vào đoạn tre đó. Chủ nhân thực hiện cũng đơn giản, mỗi khi đi bắt cá tôm. Họ chỉ cần đưa cái rung rúc ra xa tầm tay với và ấn sâu xuống mặt nước, cho vừa chạm tới đáy, sau đó đưa cái bàn dậm xuống sát chân mình một cách nhẹ nhàng. Phải thật êm ái, không gây tiếng động, để cá tôm không phát hiện mà chạy thoát. Sau đó vừa kéo cái rung rúc vào người, vừa lấy chân đạp đạp và đưa cái bàn dậm tới chỗ cái rung rúc. Xong rồi, thì cất cái rung rúc ấy lên, có con cá, con tôm thì chúng nằm gọn trong đó tha hồ mà bắt. Thật là vui, ông nói với tôi: “Mình cũng sẽ đánh lưới người cũng như vậy, sẽ đem về cho Chúa nhiều cá lắm anh Thư ký nhỉ?”. Tôi vui lắm và rất hứng khởi mỗi khi được đi cùng Mục sư ở dọc bến sông nầy.
Có lần cùng đồng đội bơi xuồng độc mộc của người dân bản xứ Khơ me, đi ngược dòng sông Mê-Kông, nhìn dòng nước trong xanh thật thỏa thích. Mắt tôi nhìn sắc xanh của màu nước: xanh da trời trên cao, xanh ve chai dưới đáy. Tôi mơ màng nhớ đến những chuyến đò ngang trên quê tôi mỗi mùa qua Cồn bẻ bắp hái dưa, màu xanh áo ai đang phất phơ trước mũi thuyền. Đặc biệt nhìn màu xanh ngút ngàn của ngững nương dâu, tôi chợt nhớ những câu thơ trong Chinh phụ:
“… Càng trông lại mà càng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai!”
Chinh phụ ngâm
Ngày ấy tôi chưa có người yêu, thế nhưng tôi vẫn yêu nàng, một tình yêu đơn phương thầm lặng. Nhà nàng ở bên kia sông Vu Gia, còn tôi ở bên nầy. Nàng lên đò, rời bến sau mỗi buổi chợ mai, tôi nhìn nàng mà chẳng biết câu gì để nói. Để rồi về mỗi đêm thao thức, thương nhớ đến nàng nhưng đành ôm mối tình câm. Bây giờ tôi đang ở chiến trường, vừa nhận được thư gia đình nói quê mình chiếc cầu xây đã gần xong, nối hai bờ qua bến lấp sông quê rồi đó. Chắc chắn ngày tôi về sẽ không còn chuyến đò ngang ấy nữa, nơi con sông bên lở bên bồi để rồi mỗi mùa nước lũ mang phù sa bồi đắp cho đôi bờ. Và cũng không còn chuyện nhắc lại trăm năm thương hải tang điền…
Con sông quê… lại một lần nữa ở một vùng hạ lưu. Thầy Quản nhiệm mới, mới về Hội Thánh đã làm lễ Báp têm cho cho bao tân tín hữu. Con sông sâu, nước chảy xiết, Thầy và tôi tìm một chỗ vịnh để cử hành lễ. Tôi đã từng dìu các cụ lớn tuổi xuống bờ để nhận Thánh lễ Báp têm. Quên sao được, khi xong mọi việc Thầy rủ tôi bơi ra xa bờ, tôi cố theo mà làm sao bì kịp một chuyên gia bơi lội như Thầy. Vì Thầy từ khi nhỏ đã biết bơi lội rồi. Một con người tài hoa ở cái đất Hạ Nông – Điện Bàn biết bơi lội nhưng cũng biết leo rừng. Thật tuyệt vời…
Nhớ con sông quê… Nhớ xa hơn một chút…
Thập niên hai mươi của thế kỷ trước, cũng trên con sông nầy. Khi Tin Lành đã truyền đến vùng Đại Lộc – Quảng Nam thì đồng bào có một số người trở lại tin nhận Chúa. Ngày ấy tín hữu không đông như bây giờ, mà khi làm nhà thờ thì trẻ già lớn bé đều háo hức. Mọi người đều dâng công góp của để xây dựng nhà Chúa. Thuở ấy tín hữu kẻ đội thúng xuống sông xúc cát, người xúc sạn, kẻ chèo ghe đưa vật liệu vào bờ, người dùng trâu bò kéo đưa về chỗ tập kết. Trên sông Vu Gia nầy, có những chuyến người ra đi về nguồn đốn cây, cưa gỗ tốt, rồi đóng bè mà đưa về xuôi, để làm cột, làm kèo, đòn tay hoặc vách ván.
Ôi! Con sông quê như vậy mà vô cùng lợi ích cho Hội Thánh.
Rồi cũng con sông nầy, ngược dòng những chuyến hàng được quyên góp để cứu trợ cho Hội Thánh, anh em vùng cao người Dân tộc ở Làng Yều và Hội Thánh A-Chom 2.
Chỉ một lần về phép năm ngày khi còn đóng quân ở Đaklak. Tôi đã lập nên chiến công vô tiền khoáng hậu, đó là tôi đã chinh phục được tình yêu của nàng. Ánh trăng mười sáu vằng vặc trên bến sông quê, tôi nắm tay nàng, môi mấp máy, giọng run run tiếng không rõ lời:
-Anh thật lòng yêu em.
Nàng vẫn im lặng ngã đầu vào ngực tôi. Tôi chỉ còn lắp bắp mấy tiếng:
-Anh cảm ơn Chúa và cảm ơn em!
Năm ngày phép vội vàng trôi nhanh, tôi phải vào lại đơn vị. Vậy là suốt hơn năm năm, tôi phải vùi đầu vào cuộc chiến ở cái đất nước Chùa Tháp nầy. Tôi gửi về em lá thư với mấy dòng thơ từ Prếch-Vihia:
“… Quê em đó Non Tiên ngàn yêu dấu
Núi chập chùng che giấu một dòng sông
Đường gập ghềnh cheo leo vờn gió thoảng
Lúa non chiều thơm ngọt tựa môi em…
… Quê em đó Non Tiên ngàn ca khúc
Chúa xuân về ban hạnh phúc đôi ta
Nhớ không em, ngày tháng mãi trôi qua?
Non Tiên hỡi! Tình ta trong sáng quá!…
Bao năm trên xứ người, khi làm Nghĩa vụ Quốc Tế chiến đấu trên đất bạn, nhưng tôi vẫn không quên hình ảnh con sông quê. Nơi đó tôi được sinh ra và lớn lên trong một gia đình tin kính Chúa. Nơi đó tôi được hầu việc Chúa qua các đời Mục sư Truyền đạo.
Con sông quê rất cần cho tất cả mọi người. Nó là một trục giao thông thuận tiện cho việc buôn bán giao thương. Có câu ca dao xứ Quảng:
“…Ai về nhắn với bạn nguồn
Mít non gửi xuống cá chuồn gửi lên…”
Sự trao đổi giao lưu sản phẩm là cần thiết cho người dân quê tôi. Con sông quê, nó làm cho ta được mát mẻ khi những ngày nắng hạn. Nó cho ta thỏa thích nước uống mà không cần mua. Nó là nguồn nước vô tận cung cấp cho biết bao hàng cừ xe gió đưa nước về tưới muôn vạn cánh đồng. Nó là biển nước mênh mông cho các trạm thủy lợi thỏa mãn làm xanh ngát cánh đồng cho hai vụ lúa đơm bông.
Thế nhưng trong Kinh Thánh Cựu ước có đề cập đến con sông đó là: “Có một con sông làm vui thành Đức Chúa Trời”. Và Tân ước có nói chắn chắn: “… Phàm ai uống nước nầy vẫn còn khát mãi, nhưng uống nước ta sẽ cho, thì chẳng hề khát nữa. Nước ta cho sẽ thành một mạch nước trong người đó, văng ra cho đến sự sống đời đời.” Phúc âm Giăng 4: 1-15. Trong một lần Chúa Giê-su kêu gọi dân chúng rằng: “Nếu người nào khát hãy đến cùng ta mà uống. Kẻ nào tin ta thì sông nước hằng sống sẽ chảy từ trong lòng mình, y như Kinh Thánh đã chép vậy.”Phúc âm Giăng 7: 37-38.
Vâng! Con sông có tầm ảnh hưởng lớn là như thế. Cho nên có người đã ra đi ở nước ngoài mà cứ nhớ đau đáu về con sông quê. Dù họ đã trải qua bao biến cố đau thương trong cuộc chiến, ở phía bên nầy hay phía bên kia. Nhưng mỗi khi có người về thăm quê họ vẫn có lời nhắn, khi họ chưa có điều kiện về thăm. Để xoa dịu phần nào nỗi nhớ day dứt như nỗi nhớ quê qua bài thơ: Nhắn Người Về Quê của Vũ Qúy Hão trích từ Báo Linh Lực số 138:
“… Quên đi cơn ác mộng dài
Hãy đem về Mỹ cành mai tươi hồng
Hái dùm mấy cánh phượng hồng
Để anh tô đẹp trong lòng Nhớ Quê…”
Còn tôi, khi viết bài nầy như là một hồi ức để sống lại với nỗi nhớ quê. Nỗi nhớ quê gắn liền với trách nhiệm lớn lao của một người con xứ Quảng, một Cơ-đốc-nhân đó là phải truyền rao Danh Chúa. Chỉ có Chúa mới là Đấng làm thỏa mãn cho con người nỗi khao khát thuộc thể lẫn thuộc linh. Bài thơ: “Nhớ Quê” xin được trích lại sau đây khi nó được đăng ngày 14 tháng 8 năm 2013 ở Trang mạng Tin Lành Toàn cầu HộiThánh.Com và ở Sống Đạo Online ngày 10 tháng 7 năm 2014 Xin được sẻ chia:
“Nhớ Quê”… Ta nhớ quê nhà
“Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương…”
Nhớ từng lối hẻm con đường
Nhớ mương nước chảy nhớ vườn ngô xanh.
Nhớ đồi sim tím, bãi tranh
Nhớ con nghé ngọ loanh quanh đàn cò
Nhớ mẹ vò vỏ sớm hôm
Nhớ tô canh ấm, râu tôm ruột bầu.
Nhớ cha mưa nắng dãi dầu
Nhớ đồng sâu cạn con trâu đi cày
Nhớ ơi! Ta nhớ những ngày…
Nhớ khi bắt bướm, chuồn bay mất rồi!
Nhớ từng động chuối bờ lau
Nhớ cây khế ngọt, nhà sau bếp chồ
Nhớ ngày khói lửa binh đao
Nhớ hôm ly loạn, nao nao lòng người!
Nhớ ơi! Ta nhớ nào nguôi…
Nhớ nhà thờ Chúa tường vôi úa tàn!
Nhớ rồi lại nhớ sang trang
Nhớ nhà thờ Chúa đàng hoàng hơn xưa.
Nhớ chuông thời khắc giao thừa
Nhớ con dân Chúa cũng vừa nguyện kinh
Nhớ nhiều, nhiều lắm sanh linh!
Nhớ người dân Việt quê mình chưa tin.
Nhớ sao nói hết nỗi niềm…
Nhớ truyền danh Chúa, lặng im sao đành!
Nhớ ân huệ Chúa… trung thành
Nhớ quê… Ta nhớ…Tin Lành truyền rao.
Tế Hanh đã ra đi mãi mãi. Giờ thì ông sẽ về với sông nước của quê hương
"Tôi sẽ về sông nước của quê hương
Tôi sẽ về sông nước của tình thương"
Mình ấn tượng nhất câu "Tôi nhớ cả những người không quen biết". Mình thấy câu thơ lãng mạn lắm cơ. Ông có một trái tim biết yêu biết nhớ lắm.
Nói đến những cuộc chia tay thì với nhiều người chỉ nhớ người thân, người quen, hoặc bạn bè.
Còn nhớ người không quen biết thì khá là lãng mạn và tinh tế nữa.
Một lần nữa mong ông sẽ được yên nghỉ bên sông nước của quê hương, của tình thương
"Một mảnh tình riêng,ta với ta"
tác phẩm: "Qua Đèo Ngang"
tác giả: Bà Huyện Thanh Quan
Sự khác nhau của cụm từ "ta với ta" ở bài thơ "Bạn đến chơi nhà" của Nguyễn Khuyến và bài thơ "Qua Đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan:
Hai câu kết của 2 bài thơ ''Bạn đến chơi nhà'' và ''Qua đèo Ngang'' của 2 tác giả đều đặt ở cuối bài nhưng về ý và tình hoàn toàn đối lập nhau.
+ Đối với Nguyễn Khuyến, cụm từ ''Ta với ta'' là sự bùng nổ về ý và tình trong việc tiếp bạn. Không cần phải có mâm cao, cỗ đầy, cao lương, mỹ vị mà giữa họ chỉ có 1 tấm lòng, một tình bạn chân thành, thắm thiết, tri âm, tri kỉ, thể hiện niềm vui trọn vẹn trong tâm hồn. ''Ta với ta'' là Bác, là Mình, tuy hai mà một. Họ đã đạt tới đỉnh cao của bữa tiệc tình bạn. Họ vui sướng sống trong tình bạn đẹp.
+ Bà Huyện Thanh Quan, cụm từ ''Ta với ta'' khắc sâu nỗi buồn của người khách li hương khi bà đứng trên đỉnh Đèo Ngang lúc chiều tà. ''Ta với ta'' chỉ một mình bà đối diện với chính lòng mình giữa không gian bao la, rộng lớn, mây, trời, non, nước. Bà cô đơn, trơ trọi hoàn toàn, không một ai sẻ chia.
Xuân Về, là một bức tranh 3D sống động của làng quê Bắc bộ những năm đầu trong thập niên 30 của thế kỷ trước.Mới
Bước vô chiêm ngưỡng bức tranh quê của thi sĩ Nguyễn Bính ta gặp ngay:
Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng.
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong.
Mùa xuân giờ đã về trên từng bờ cây ngọn cỏ,trên đôi má của những cô gái xuân thì: “Với trên màu má gái chưa chồng” .Mà gái chưa chồng ở đây chính là “cô hàng xóm” đang ở “bên hiên hàng xóm”. Cô gái ấy có thấy thi sĩ đang nhìn mình để thấy Xuân Về hay không? Sao cô lại: “ngước nhìn giời” với đôi mắt trong”. Phải chăng chính là “đôi mắt trong” của cô hàng xóm ấy cộng thêm “màu má” ửng hồng khi gió đông thổi về. Cho thi sĩ của chúng ta “Đã thấy xuân về”.
Thi sĩ đưa ta vào chiêm ngưỡng kỹ hơn bức họa của mình. Bằng khung cảnh sống động trong khổ thơ sau:
Từng đàn con trẻ chạy xun xoe,
Mưa tạnh, giời quang, nắng mới hoe.
Lá nõn, nhành non, ai tráng bạc?
Gió về từng trận, gió bay đi...
Xuân về, tết đến ở các làng quê Bắc bộ, ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh đám trẻ với khuôn mặt tươi rói theo mẹ theo chị đi chợ tết hoặc đi xem hội làng hội xuân. Để tô điểm thêm cảnh xuân tác giả miêu tả “mưa tạnh, giời quang, nắng mới hoe”. Nắng mới hoe là nắng sớm, nắng xuân ấm áp sau khi mưa bụi vừa tạnh trả lại bầu trời quang đãng.
Lúc này mới thấy điểm nhấn của mảnh ghép chính của bức tranh: Lá nõn, nhành non. Dấu hiệu của xuân thật sự chính là đây. Lá nõn là mầm lá mới nhú, nhành non là nhành cây vừa mới nảy lộc chưa kịp cứng cáp. Và một phát giác lý thú của thi sĩ khi nhìn thấy “lá nõn, nhành non” dưới nắng mới sau cơn mưa vừa tạnh, đã phải thốt lên câu hỏi: “ai tráng bạc”. Chẳng có ai tráng bạc lên chúng, có chăng là cái lấp lánh của mầm cây mới cựa mình thức dậy dưới ánh “nắng mới hoe” và còn sót lại chút mưa bụi bám vô những giọt li ti long lanh để thi sĩ thấy như “ai tráng bạc” đấy thôi. Mảnh ghép bức tranh thêm sống động ở câu cuối “gió về từng trận, gió bay đi…” gió xuân mà tác giả cảm nhận nó về “từng trận” rồi bay đi cũng “từng trận” phải chăng gió đã nô đùa quá trớn trên những “lá nõn nhành non” của thi sĩ!
Còn đây là khổ thơ làm điểm nhấn cho bức họa Xuân Về của thi sĩ:
Thong thả dân gian nghỉ việc đồng,
Lúa thì con gái mượt như nhung.
Đầy vườn hoa bưởi, hoa cam rụng,
Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ vòng.
Xuân về cũng là lúc những công việc đồng áng của nhà nông tạm xong. Người dân gác lại mọi việc để đón xuân, vui tết. Xuân về “lúa thì con gái mượt như nhung”. Đây chính là lúc cây lúa bước vào thời kỳ chuẩn bị “ngậm đòng” cây lúa có màu xanh mát dịu làm nao lòng những người con xa quê. Không chỉ có cây lúa, mà mảnh ghép này còn có “đầy vườn hoa bưởi, hoa cam” nhưng là chúng đã “rụng” xuống. chứ không hẳn là còn trên cây. Cho dù hoa bưởi hoa cam ấy đã rụng thì vẫn “ngào ngạt hương bay” hương bay xa còn nhờ từng trận gió về và đi kia nâng cánh, để cho lũ bướm dập dìu về nô đùa trong vườn mà ở đây thi sĩ dùng hình ảnh chúng “vẽ vòng”.
Phải chăng hình ảnh “đầy vườn” hoa rụng, còn có ẩn ý trái đã kết, cánh hoa rụng xuống bướm vẽ vòng, chính là biểu hiện vòng tuần hoàn của trời đất, của cây cối, hoa sau khi khoe hương sắc thì nhường chỗ cho trái ngon quả ngọt lớn lên.
Một mảnh ghép của bức tranh cũng sống động không kém xuất hiện:
Trên đường cát mịn, một đôi cô,
Yếm đỏ, khăn thâm, trẩy hội chùa.
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc,
Tay lần tràng hạt miệng nam mô
Xuân Về tết đến, trên khắp các ngả đường làng luôn dập dìu các cô các chị ăn mặc thật đẹp để tham gia trảy hội. hoặc đi chùa cầu may. Yếm đỏ, khăn thâm là những trang phục truyền thống của các thôn nữ ở những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ 20.
Đường làng không chỉ có các cô mà còn có các “Bà già tóc bạc” chống cây gậy trúc đi chùa. ở đây tác giả đã để cây “gậy trúc dắt” bà già đi, Bởi bà còn bận “tay lần tràng hạt,miệng nam mô”. Một hình ảnh rất thi vị. Cây gậy đi trước ắt hẳn nó là người dẫn đường. Nhưng không phải ai cũng quan sát kỹ để nhận ra điều ấy.
Bốn mảnh ghép với bốn mảng màu sắc khác nhau, đã được thi sĩ Nguyễn Bính ghép vô bức tranh Xuân Về hoàn hảo. Xuân Về có đôi má ửng đỏ của cô gái chưa chồng, xuân về có đám trẻ xun xoe nô đùa trong xóm, Có “lá nõn nhành non ai dát bạc” Xuân Về có cánh đồng lúa đang thì con gái, có đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng, hứa hẹn một mùa trái ngọt phía trước, “Xuân Về” có các cô Thôn nữ bên các bà già tóc bạc đi chùa cầu may.
Bài thơ “Xuân Về” đã ra đời cách nay gần 80 năm. Nhưng những hình ảnh về phong cảnh làng quê thì vẫn như vừa mới viết đây thôi! Xuân về bây giờ ta vẫn gặp những đôi má ửng hồng, của các cô thôn nữ chưa chồng. Xuân về vẫn gặp bầy trẻ ríu rít, theo bà, theo mẹ đi chợ tết, hoặc đi xem hội. Đặc biệt những “lá nõn nhành non” thì càng không thể không gặp. Xuân về vẫn nhiều lắm những cây gậy trúc dắt các cụ đi chùa đầu năm. Duy chỉ có “Yếm đào mỏ quạ đã biệt tăm” thay vào đó là những tà áo dài tha thướt, hoặc những cánh áo hoa dịu dàng của các cô thiếu nữ hôm nay, trên khắp các ngả đường thôn quê hôm nay dù còn “cát mịn”, đường gạch hay đã “bê tông hóa”
Xuân Về, là một bức tranh 3D sống động của làng quê Bắc bộ những năm đầu trong thập niên 30 của thế kỷ trước.
Bước vô chiêm ngưỡng bức tranh quê của thi sĩ Nguyễn Bính ta gặp ngay:
Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng.
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong.
Mùa xuân giờ đã về trên từng bờ cây ngọn cỏ,trên đôi má của những cô gái xuân thì: “Với trên màu má gái chưa chồng” .Mà gái chưa chồng ở đây chính là “cô hàng xóm” đang ở “bên hiên hàng xóm”.
Bài " Người Lái Đò" ; " Nghe Thầy Đọc Thơ " ; " Thầy Và Chuyến Đò Xưa"; " Cô ơi" ; " Không Đề" ;...............
Còn nhìu lắm! Bn tham khảo nha! ~(^_^)~
1. Lời ru của thầy
Mỗi nghề có một lời ru
Dở hay thầy cũng chọn ru khúc này
Lời ru của gió màu mây
Con sông của mẹ đường cày của cha
Bắt đầu cái tuổi lên ba
Thầy ru điệp khúc quê nhà cho em
Yêu rồi cũng nhớ yêu thêm
Tình yêu chẳng có bậc thềm cuối đâu!
Thầy không ru đủ nghìn câu
Biết con chữ cũng đứng sau cuộc đời
Tuổi thơ em có một thời
Ước mơ thì rộng như trời, ngàn năm
Như ru ánh lửa trong hồn
Cái hoa trong lá, cái mầm trong cây
Thầy ru hết cả mê say
Mong cho trọn ước mơ đầy của em.
Mẹ ru em ngủ tròn đêm
Thầy ru khi mặt trời lên mỗi ngày
Trong em hạt chữ xếp dày
Đừng quên mẹ vẫn lo gầy hạt cơm
Từ trong vòm mát ngôi trường
Xin lời ru được dẫn đường em đi
(Con đường thầy ngỡ đôi khi
Tuổi thơ lăn một vòng bi tới rồi!)
Hẳn là thầy cũng già thôi
Hóa thân vào mỗi cuộc đời các em
Thì dù phấn trắng bảng đen
Hành trang ấy đủ thầy đem theo mình
lục bát hử hay 5 chữ,4 chữ 1 dòng??
EM KO PHẢI LM NGHỀ MAY VÁ
HẠNH PHÚC NÀY ĐƯNG XÉ NÓ RA