Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Mờ sáng ngày 16-9-1950, ta mở cuộc tấn công vào căn cứ điểm Đông Khê, mở màn cho chiến dịch.
- Sáng 18-9-1950, ta tiêu diệt Đông Khê, uy hiếp Thất Khê thị xã Cao Bằng bị cô lập; hệ thống phòng ngự của địch trên đường số 4 bị lung lay.
- Quân Pháp ở Cao Bằng được lệnh rút theo đường số 4, đồng thời lwucj lượng của chúng ở Thất Khê cũng được lệnh tiến đánh Đông Khê để đón cánh quân từ Cao Bằng xuống, rồi cùng rút về xuôi.
- Quân ta mai phục chặn đánh địch trên Đường số 4, hai cánh quân Cao Bằng và Thất Khê bị thiệt hại nặng nên không liên lạc được với nhau. Đến Thất Khê bị uy hiếp, quân Pháp buộc phải rút về Na Sầm, rồi Lạng Sơn và đến ngày 22-10 thì rút khỏi Đường số 4.
Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu từ ngày 13-3-1954 đến hết ngày 7-5-1954 và được chia làm 3 đợt:
- Đợt 1 (từ ngày 13 đến 17-3-1954): quân ta tiến công tiêu diệt căn cứ Him Lam và toàn bộ phân khu Bắc (Độc Lập, Bản Keo).
- Đợt 2 (từ ngày 30-3 đến 26-4-1954): quân ta đồng loạt tấn công vào các cao điểm phía đông khu trung tâm Mường Thanh. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, nhất là đồn A1, C1. Vùng vây khép chặt, dần dần đừng tiếp tế bằng hàng không bị cắt đứt.
- Đợt 3 (từ ngày 1-5 đến 7-5-1954): quân ta đồng loạt tấn công vào trung tâm Mường Thanh và phân khu phía Nam, chiều ngày 7-5 quân ta đánh vào Sở chỉ huy địch. Đến 7h30 ngày 7-5 lá cờ “Quyết chiến, quyết thắng” bay trên nóc hầm Đờ Cát-tơ-ri. Chiến dịch toàn thắng.
- Tại Bắc Kạn, ngay từ đầu, quân dân ta chủ động kịp thời phản công và tiến công địch, tiến hành bao vây, chia cắt, cô lập chúng, tổ chức đánh tập kích vào những nơi địch chiếm đóng, phục kích trên đường từ Bắc Kạn đi Chợ Mới, Chợ Đồn. Vừa chặn đánh địch, ta vừa bị mất khẩn trương di chuyển các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ các công xưởng, kho tàng từ nơi địch uy hiếp, chiếm đóng đến nơi an toàn.
- Ở hướng Đông, quân ta phục kích chặn đánh địch trên Đường số 4, cản bước tiến của chúng, tiêu biểu là trận đánh phục kích trên đường Bản Sao - đèo Bông Lau ngày 30 - 10 - 1947.
- Ở hướng Tây, quân ta phục kích chặn đánh nhiều trận trên sông Lô. Cuối tháng 10 -1947,5 tàu chiến địch có máy bay hộ tống từ Tuyên Quang đi Đoan Hùng lọt vào trận địa phục kích của ta (tại Đoan Hùng). Đầu tháng 11 - 1947, 2 tàu chiến và 1 ca nô địch từ Chiêm Hóa về thị xã Tuyên Quang đã lọt vào trận địa phục kích của ta (tại Khe Lau, ngã ba sông Lô và sông Gâm).
- Phối hợp với cuộc chiến đấu ở Việt Bắc, quân dân ta trên các chiến trường toàn quốc hoạt động mạnh, góp phần kiềm chế quân địch.
- Cuộc chiến đấu liên tục 75 ngày đêm đã kết thúc bằng cuộc rút chạy của đại bộ phận quân Pháp khỏi Việt Bác. Căn cứ địa Việt Bắc biến thành “mồ chôn giặc Pháp”. Cơ quan đầu não kháng chiến được bảo toàn. Bộ đội chủ lực của ta ngày càng trưởng thành.
* Diễn biến chiến dịch Biên giới thu đông (1950)
- Sáng 16 - 9 - 1950, ta tấn công vào căn cứ điểm Đông Khê, mở màn cho chiến dịch.
- Sáng 18 - 9, quân ta tiêu diệt Đông Khê, uy hiếp Thất Khê, thị xã Cao Bằng bị cô lập. Hệ thống phòng ngự của địch trên đường số 4 bị lung lay.
- Pháp một mặt cho quân đánh lên Thái Nguyên nhằm giảm bớt sự chú ý của ta. Thất Khê cũng được lệnh đánh Đông Khê để đón quân từ Cao Bằng xuống (cuộc “hành quân kép”).
- Quân ta mai phục chặn đánh địch trên Đường số 4, hai cánh quân Cao Bằng và Thất Khê bị thiệt hại nặng nên không liên lạc được với nhau. Thất Khê cũng bị uy hiếp, quân Pháp buộc phải rút về Na Sầm, rồi Lạng Sơn và đến ngày 22 - 10 thì rút khỏi Đường số 4.
- Sau hơn một tháng chiến đấu quân ta đã giành được nhiều kết quả to lớn, kế hoạch Rơve của Pháp bị phá sản.
-16/9/1950, chiến dịch bắt đầu, ta tiến công cụm cứ điểm Đông khê. Sáng ngày 18/9/1950, ta tiêu diệt hoàn toàn cụm cứ điểm Đông khê, đẩy địch vào tình thế nguy khốn: Thất Khê bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập, thế phòng thủ trên đường số 4 lung lay.
- Mất Đông khê, quân pháp buộc phải rút khỏi Cao Bằng bằng kế hoạch ‘’hành quân kép”: một cánh quân đánh lên Thái nguyên để thu hút chủ lực của ta, một cánh quân khác từ Thất khê tiến lên chiếm lại Đông khê để đón quân từ Cao Bằng về.
- Đoán trước ý định của địch, quân ta mai phục, kiên nhẫn chờ đánh quân tiếp viện. Từ 1 đến 8/ 10/1950, quân ta liên tục chặn đánh địch, diệt gọn 2 binh đoàn, làm sụp đổ hoàn toàn kế hoạch rút quân của địch.
- Từ 10 đến 22/10/1950, địch phải rút khỏi đường số 4: Thất Khê, Na Sầm, Đồng đăng, lạng Sơn, Đình Lập. Đến 23/10/1950 chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi.
Tham khảo :
*Diễn biến chính của Chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950
- 16-9-1950. ta mở màn chiến dịch bằng trận đánh Đông Khê một cứ điểm quan trọng trên đường số 4
- Đến ngày 18/9/ 1950 ta chiếm được Đông Khê, Thất Khê bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập.
- Pháp phải rút khỏi Cao Bằng theo đường số 4 và cho quân từ Thất Khê lên chiếm lại Đông Khê và đón quân từ Cao Bằng rút về.
- Đoán được ý định của địch, ta chủ động mai phục, chặn đánh địch nhiều nơi trên đường số 4, khiến cho hai cánh quân này không gặp được nhau.
- Pháp rút lần lượt khỏi Thất Khê, Na Sầm.LS…Đến ngày 22/10/1950 đường số 4 được giải phóng
*Kết quả của Chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950:- Loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8.000 tên địch
- Khai thông được 750km từ Cao Bằng về Đình Lập
- Giải phóng với 35 vạn dân
- Chọc thủng hành lang Đông – Tây, thế bao vây của địch đối với căn cứ Việt Bắc bị phá vỡ
- Kế hoạch Rơve bị phá sản
*Ý nghĩa của Chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950:- Đường liên lạc của ta với các nước XHCN được khai thông.
- Chiến dịch Biên Giới đã chứng minh sự trưởng thành của Bộ đội ta qua 4 năm kháng chiến.
- Qua chiến dịch này ta đã giành được thế chủ động trên chiến trường chính Bắc Bộ.
- Mở ra bước phát triển mới của cuộc kháng chiến .
refer:
* Diễn biến:
- Ngày 16 - 9 - 1950, quân ta mở đầu chiến dịch đánh vào Đông Khê với mục đích cô lập Cao Bằng, uy hiếp cứ điểm Thất Khê và phá thế trận phòng thủ của Pháp trên đường số 4.
- Ngày 18 - 9 - 1950, Đông Khê thất thủ, Pháp điều động quân đội từ Bắc Bộ lên thực hiện cuộc “hành quân kép”:
+ Một cánh đánh từ Thất Khê lên nhằm chiến lại Đông Khê, mở lại đường số 4.
+ Một cánh tiến công từ Cao Bằng xuống gặp nhau ở Đông Khê.
- Ngày 22 - 10 - 1950, Pháp rút chay, đường số 4 được giải phóng. Chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi.
* Kết quả:
- Loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8 nghìn tên địch.
- Giải phóng một vùng biên giới Việt - Trung từ Cao Bằng tới Đình Lập.
- Chọc thủng hành lang Đông - Tây của Pháp.
- Kế hoạch Rơve bị phá sản.
* Ý nghĩa:
- Khai thông con đường liên lạc giữa Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa.
- Mở ra bước phát triển mới trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Tham khảo
Diễn biến:
- Ngày 16/9/1950, quân ta mở đầu chiến dịch đánh vào Đông Khê.
- Ngày 18/9/1950, Đông Khê thất thủ, Pháp điều động quân đội từ Bắc Bộ lên thực hiện cuộc “hành quân kép”:
+ Một cánh đánh từ Thất Khê lên nhằm chiến lại Đông Khê, mở lại đường số 4.
+ Một cánh tiến công từ Cao Bằng xuống gặp nhau ở Đông Khê.
- Ngày 22/10/1950, Pháp rút chạy, đường số 4 được giải phóng.
Ý nghĩa:
- Khai thông con đường liên lạc giữa Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa.
- Mở ra bước phát triển mới trong cuộc kháng chiến.
Tham khảo:
- Ngày 16/9/1950, quân ta mở đầu chiến dịch đánh vào Đông Khê.
- Ngày 18/9/1950, Đông Khê thất thủ, Pháp điều động quân đội từ Bắc Bộ lên thực hiện cuộc “hành quân kép”:
+ Một cánh đánh từ Thất Khê lên nhằm chiến lại Đông Khê, mở lại đường số 4.
+ Một cánh tiến công từ Cao Bằng xuống gặp nhau ở Đông Khê.
- Ngày 22/10/1950, Pháp rút chạy, đường số 4 được giải phóng.
Ý nghĩa:
- Khai thông con đường liên lạc giữa Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa.
- Mở ra bước phát triển mới trong cuộc kháng chiến.
Đáp án C
Trong chiến dịch Biên giới thu - đông năm 1950, ở trận Đông Khê, do cánh tay phải bị đạn bắn gãy nát, La Văn Cầu khẩn thiết yêu cầu chặt hộ cánh tay để khỏi vướng rồi lại tiếp tục ôm bộc phá xông lên, phá tan lô cốt đầu cầu, mở đường cho đơn vị xung phong diệt gọn vị trí địch
* Âm mưu và hành động của TDP
- Pháp tiến công Việt Bắc nhằm phá cơ quan đầu não kháng chiến ,tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta, khóa chặt biên giới Việt-Trung, ngăn chặn liên lạc giữa ta với quốc tế
- Chính phủ Pháp cử Bô-la-éc sang làm cao ủy ở Đông Dương thay Cho Đác-giăng-li-ơ thực hiện chiến lược“đánh nhanh,thắng nhanh” Huy động 12.000 quân thay cho kế hoạch dự định 20.000.Từ 6 tháng xuống còn 3 tháng, đây là kế hoạch chúng cho là hoàn hảo nhất.
+ Ngày 7/10/1947, một binh đàn dù đổ bộ xuống thị xã Bắc Cạn và chiếm thị trân Chợ Mới, Chợ Đồn
+ Cùng ngày hôm đó, một binh đoàn lính bộ từ Lạng Sơn đánh lên Cao Bằng, rồi từ Cao Bằng, một cánh quân khác đánh xuống Bắc Cạn, tạo thành gọng kìm bao vây phía đông và phía bắc Căn cứ địa Việt Bắc.
+ Ngày 9/10/1947, một binnh đoàn hỗn hợp lính bộ và thủy đánh ngược song Hồng, song Lô và song Gâm lên thị xã Tuyên Quang, Chiêm Hóa, Đài Thị ( Tuyên Quang), Bao vây phía tây Căn cứ địa Việt Bắc.
* Chủ trương và hành động của ta:
- Thực hiện chỉ thị của trung ương , trên các hướng, khắp các mạt trận, quân ta đã anh dũng chiến đấu, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bẻ gẫy từng gọng kìm của chúng.
+ Tại Bắ Cạn, ta chủ động phản công, tiến công, bao vây, chia cắt, cô lập chúng. Tổ chức đánh ttaapj kích vào những nơi địch chiếm đóng,phục kích trên đường từ Bắc Cạn đi Chợ Mới, Chợ Đồn. Đồng thời bí mật ,khẩn trương chuyển các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, các công xưởng , kho tang từ nơi địch chiếm đóng đến nơi an toàn.
+ Ở hướng Đông, ta phục kích chặn đánh địch trên đường số 4, tiêu biểu là trận đánh tại Bản Sao – đèo Bông Lau vào 30/10/1947
+ Ở hướng Tây,ta chặn đánh nhiều trận trren song Lô. Cuoois tháng 10/ 1947, 5 tàu chiến của địch lọt vào trận địa phục kích của ta ở Đoan Hùng. Đầu thang 11/1947, 2 tàu chiến và 1 ca nô đich từ Chiêm Hóa về thị xã Tuyên Quang đã lọt vào trận địa phục kích của ta ở Khe Lau- ngã ba song Gâm và song Lô.
· Kết quả: sau 75 ngày đêm chiến đấu, đại bộ phận quân Pháp đã rút khỏi VB, cơ quan đầu não kháng chiến được bảo toàn. Bộ đội chủ lực của ta ngày càng trưởng thành
· Ý nghĩa: Phá tan âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của P. Buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài
1.Hoàn cảnh lịch sử.
-Khi ta rút khỏi các đô thi thì thực dân Pháp đã mở rộng được địa bàn chiếm đóng (chiếm thêm một số thành phố và kiểm soát được một số đường giao thông quan trọng) nhưng chúng vẫn không thực hiện được âm mưu đánh nhanh thắng nhanh, mà chiến tranh vẫn kéo dài.
-Chiến tranh càng kéo dài thì Pháp càng gặp nhiều khó khăn về quân sự, kinh tế, tài chính, chính trị, xã hội….
*Tháng 3/1947 Pháp cử Bôlaec sang làm cao ủy đông Dương thay cho đắcgiănglơ.Thực dân Pháp chuẩn bị mở cuộc tấn công qui mô lớn lên Việt Bắc.
2.Âm mưu của địch.
-Phá tan cơ quan đầu não kháng chiến của ta
-Tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực.
-Khóa chặt biên giới Việt Trung nhằm ngăn chặn sự liên lạc giữa ta với quốc tế.
-Dùng thắng lợi về quân sự để thúc đẩy sự thành lập chính quyền bù nhìn trên toàn quốc và nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
3.Chủ trương của ta.
Ngày 15/10/1947 Ban thường vụ TW đảng ra chỉ thị “ “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”.
4.Tóm tắt diễn biến.
Các cuộc tấn công của giặc Pháp lên Việt Bắc.
Ngày 7/10/1947 Pháp huy động12000 quân tấn công lên Việt Bắc theo 3 hướng.
-Cánh quân dù:Sáng ngày 7/10/1947 Pháp cho bộ phận quân nhảy dù nhảy xuống Bắc Cạn, Chợ Mới,Chợ đồn.
-Cánh quân bộ: Cùng ngày 7/10/1947 một binh đoàn bộ binh ừ Lạng Sơn theo đường số 4 tiến lên Cao Bằng; một bộ phận khác theo đường số 3 vòng xuống Bắc Cạn tạo thành gọng kìm thứ nhất kẹp chặt Việt Bắc ở phía đông và phía Bắc.
-Cánh quân thủy: Ngày 9/10/1947 binh đoàn hổn hợp từ Hà Nội ngược sông Hồng, sông Lô tiến lên Tuyên Quang,Chiêm Hóa tạo thành gọng kìm thứ hai bao vây Việt Bắc từ phía Tây. Chúng dự định hai gọng kìm sẽ gặp nhau và khép chặt ở đài Thị (đông Bắc Chiêm Hóa) b.Quân ta chiến đấu bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc.
-Tại Bắc Cạn.Quân địch vừa nhảy dù xuống đã bị ta bao vây tiêu diệt.
-Ở mặt trận đường số 4 (cánh quân bộ).Quân ta đánh phục kích nhiều trận, đặc biệt là trận đèo Bông Lau (30/10/1947), phá hủy 27 xe bắt 240 tên.
-Trên sông Lô Chiêm Hóa.Ta phục kích tại đoan Hùng, Khoan Bộ, Khe Lau bắn chìm nhiều tàu chiến của địch. Phối hợp với chiến trường Việt Bắc quân và dân cả nước phối hợp chiến đấu phá tan âm mưu của địch. đến ngày 19/12/1947quân Pháp rút khỏi Việt Bắc.
5.Kết quả và ý nghĩa lịch sử
a.Kết quả:
-Loại khỏi vòng chiến đấu 6000 tên địch, 16 máy bay, 11 tàu chiến và ca nô…
-Căn cứ địa Việt Bắc được giữ vững, cơ quan đầu não kháng chiến được bảo vệ an toàn, bộ đội ta trưởng thành.
b.Ý nghĩa lịch sử.
-Là cuộc phản công lớn đầu tiên của ta có ý nhĩa chiến lược quan trọng trong năm đầu toàn quốc kháng chiến.
-Làm thất bại hoàn toàn âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của chúng buộc chún phải chuyển sang đánh lâu dài.
-Chứng minh sự đúng đắn của đường lối kháng chiến lâu dài của đảng và sự vững chắc của căn cứ địa Việt Bắc.
-Là mốc khởi đầu của sự thay đổi về tương lực lương có lợi cho ta
16/9/1950, chiến dịch bắt đầu, ta tiến công cụm cứ điểm Đông khê. Sáng ngày 18/9/1950, ta tiêu diệt hoàn toàn cụm cứ điểm Đông khê, đẩy địch vào tình thế nguy khốn: Thất Khê bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập, thế phòng thủ trên đường số 4 lung lay.
Mất Đông khê, quân Pháp buộc phải rút khỏi Cao Bằng bằng kế hoạch ‘’hành quân kép”: một cánh quân đánh lên Thái nguyên để thu hút chủ lực của ta, một cánh quân khác từ Thất khê tiến lên chiếm lại Đông khê để đón quân từ Cao Bằng về.
Đoán trước ý định của địch, quân ta mai phục, kiên nhẫn chờ đánh quân tiếp viện. Từ 1 đến 8/ 10/1950, quân ta liên tục chặn đánh địch, diệt gọn 2 binh đoàn, làm sụp đổ hoàn toàn kế hoạch rút quân của địch.
Từ 10 đến 22/10/1950, địch phải rút khỏi đường số 4: Thất Khê, Na Sầm, Đồng đăng, lạng Sơn, Đình Lập. Đến 23/10/1950 chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi.