K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

10 tháng 3 2017

Các biện pháp tu từ trong các ví dụ là :

- Phép tu từ nhân hóa:

+ Lúa đã chen vai đứng dậy

+ Súng vẫn thức

+ Sương biếc nhớ người đi

- Phép tu từ so sánh

+ Việt Nam là một các vườn đẹp

+ Tây Bắc cũng là một cái vườn hoa

+ Mỗi dân tộc...nhiều màu sắc

+ Tấc đất - tấc vàng

20 tháng 1 2019

a) Biện pháp so sánh

- Việt Nam - một cái vườn đẹp

- Tây Bắc- một cái vườn hoa

- mấy mươi dân tộc ít người- là một....

b)Biện pháp :nhân hóa

Súng - thức vui

c) Biện pháp: so sánh

Tấc đất- tấc vàng

c)

31 tháng 5 2018

a) nhân hóa: đứng cả dậy( lúa ko đứng đc)

b) so sánh : là một cái vườn đẹp

c)nhân hóa: súng vẫn thức ( súng ko thức nha)

d) hoán dụ : bao nhiêu tất đất, tất vàng bấy nhiêu

CHÚC BẠN HỌC TỐT NHÁ >.<

25 tháng 2 2021

cho mik hỏi ké ý nghĩa của câu c nha , trl mik cho 5 t i c k luôm

6 tháng 7 2021

Cả 2 câu đều có BPTT là so sánh:

Tác dụng:

a, Cho thấy sắc đẹp của Tây Bắc, nó được ví như một vườn hoa vì số lượng hoa và các loài hoa đa dạng của nó

b, Cho thấy sự quý giá của đất, đất được coi như vàng vì giúp con người có chỗ ăn, chỗ ở, chúng ta cần phải bảo vệ từng tấc đất của chúng ta

1 Mở bài:- Hoa đào là loài hoa đặc trưng của mùa xuân miền Bắc- Thấy hoa đào nở là thấy xuân về.- Em thấy lòng mìn náo nức mỗi khi nhìn thấy cây đào trước ngõ.2 Thân bài: a) Cây đào nhìn từ xa:- Cây đào do ông em trồng trước ngõ đã nhiều năm.- Cây to , gốc sù sì , cành toả rộng.- Mùa đông, cành cây đen đúa, khẳng khiu, nhìn gầy gò, không có sức sống.- Khi có mưa xuân, càn cây bỗng mỡ...
Đọc tiếp
1 Mở bài:
- Hoa đào là loài hoa đặc trưng của mùa xuân miền Bắc
- Thấy hoa đào nở là thấy xuân về.
- Em thấy lòng mìn náo nức mỗi khi nhìn thấy cây đào trước ngõ.
2 Thân bài: 
a) Cây đào nhìn từ xa:
- Cây đào do ông em trồng trước ngõ đã nhiều năm.
- Cây to , gốc sù sì , cành toả rộng.
- Mùa đông, cành cây đen đúa, khẳng khiu, nhìn gầy gò, không có sức sống.
- Khi có mưa xuân, càn cây bỗng mỡ màng và dịp tết đến cây nư một ngọn đèn hồng rực rỡ thắp sáng ngõ nhà em.
b) Cây đào nhìn cận cảnh:
- Ngày 28 tết, ông lựa cành đào đẹp nhất, cắt lấy cắm vào chiếc lục bình.
- Sắc hồng của hoa đào làm căn phòng thêm ấm cúng.
- Càn đào xoè ra với dáng vẻ tự nhiên không bị uốn nắn.
- Mỗi đoá hoa có năm cánh hồng nhạt mỏng manh.
- Nhuỵ hoa vàng tươi.
- Những bông hoa chen với nụ nở chi chít trên cành.
- Hoa đào cùng nhau trầm đèn nến tạo nên không khí tết thật đầm ấm.
3 Kết bài:
- Em rất yêu cây đào trước ngõ.
- Loài hoa mang đến niềm vui năm mới.
- Em chăm sóc cây đào để mỗi mùa xuân nó lại nở hoa.
 
 
1
8 tháng 10 2016

Dàn ý này thì mình thấy bạn nên thêm một số chi tiết để khi làm văn , bài văn nó hay và chi tiết , bạn nhé ! Còn những chi tiết , mình thấy là hay , cám ơn bạn đã cho mình dàn ý này tham khảo nhé !

Chúc bạn học tốt ! banhqua

8 tháng 10 2016

OK

 

15 tháng 1 2017

-Tìm 3 từ ghép trong đoạn trích

3 từ ghép: con gái, hiền dịu, yêu thương.

-Xác định từ loại:

Danh từ: con gái.
Tính từ: hiền dịu.
Động từ: yêu thương.

-Giải nghĩa 3 từ ghép vừa xác định

"con gái": thuộc giới tính nữ, chưa kết hôn.
"hiền dịu": tính cách hiền hậu, dịu dàng.
"yêu thương": quan tâm chăm sóc, tình cảm gắn bó thân thiết.

Chúc bạn học tốt!

26 tháng 11 2018

- 3 từ ghép trong đoạn trích là: con gái, hiền dịu, yêu thương.

-Xác định từ loại:

Danh từ: con gái.
Tính từ: hiền dịu.
Động từ: yêu thương.

-Giải nghĩa 3 từ ghép vừa xác định

"con gái": thuộc giới tính nữ, chưa kết hôn.
"hiền dịu": tính cách hiền hậu, dịu dàng.
"yêu thương": quan tâm chăm sóc, tình cảm gắn bó thân thiết.

Câu 1: Xác định phép tu từ trong  các ví dụ sau : a, Thân dừa bạc phếch tháng nămQuả dừa – đàn lợn con nằm trên cao                            ( Trần Đăng Khoa)b.  Mặt trời của bắp thì nằm trên đồiMặt trời của mẹ con nằm trên lưng.                             ( Nguyễn Khoa Điềm)c. Lúa đã chen vai đứng cả dậy                ( Trần Đăng...
Đọc tiếp

Câu 1: Xác định phép tu từ trong  các ví dụ sau : 

a, Thân dừa bạc phếch tháng năm

Quả dừa – đàn lợn con nằm trên cao     

                       ( Trần Đăng Khoa)

b.  Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

Mặt trời của mẹ con nằm trên lưng.   

                          ( Nguyễn Khoa Điềm)

c. Lúa đã chen vai đứng cả dậy

                ( Trần Đăng Khoa)

d. Việt Nam là một cái vườn đẹp. Trên đó nở rất nhiều hoa.

   Tây Bắc cũng là một cái vườn hoa. Trong ấy, mỗi dân tộc của mấy mươi dân tộc ít người là một giống hoa đượm nhiều màu sắc.

                                                       ( Nguyễn Tuân)

e. Súng vẫn thức vui mới giàng một nửa

Nên bâng khuâng sương biếc nhớ người đi

                          ( Tố Hữu)

g. Tấc đất, tấc vàng

                   (Tục ngữ)

 

1
14 tháng 4 2020

A) nhân hóa . B) hoán dụ .C)nhân hóa . D)so sánh.E)nhân hóa . G) so sánh

Cánh đồng tuổi thơ  Tôi thích cảm giác thanh thản, nhẹ nhàng khi chạm chân trần lên con đường đầy cỏ xanh. Tôi thích nhắm mắt lại, đưa hai tay ra để cảm nhận cái lành lạnh của gió đồng vẫn còn lẫn hương lúa thơm. Tôi thích hít đầy lồng ngực hương vị quê hương thân yêu mà tôi vẫn khát khao mong nhớ trong những ngày ở thành phố.  ***Chiều của thành phố, chẳng còn những cánh...
Đọc tiếp

Cánh đồng tuổi thơ

 

 

Tôi thích cảm giác thanh thản, nhẹ nhàng khi chạm chân trần lên con đường đầy cỏ xanh. 

Tôi thích nhắm mắt lại, đưa hai tay ra để cảm nhận cái lành lạnh của gió đồng vẫn còn lẫn hương lúa thơm. 

Tôi thích hít đầy lồng ngực hương vị quê hương thân yêu mà tôi vẫn khát khao mong nhớ trong những ngày ở thành phố. 
 
***

Chiều của thành phố, chẳng còn những cánh đồng lúa, chẳng còn những cơn gió mát lành trên cánh đồng xanh mát như ở quê tôi nữa. Tôi mải miết chạy theo cuộc sống xô bồ nhưng chẳng bao giờ bỏ nỗi những chiều cuối tuần lại trở về bên cánh đồng quê nhà. 

Quê tôi toàn đồng lúa, nhìn đâu cũng thấy thửa ruộng mênh mông. Nhà tôi vốn là gia đình thuần nông, bố mẹ quanh năm làm bạn với cánh đồng. Và cũng nhờ số tiền ít ỏi chắt chiu được sau mỗi vụ lúa mà chị em tôi lớn lên. 

Mỗi lần nhìn bố mẹ chân lấm tay bùn, làn da rám nắng, tôi lại thương vô cùng. Bố mẹ vẫn nói với chị em tôi: 

“Làm nông dân khổ lắm con ơi. Bố mẹ chỉ muốn các con được học hành đến nơi đến chốn, sau đó có công việc ổn định để không phải vất vả như bố mẹ thôi.” 

Chị em tôi thương bố mẹ, vẫn hay đòi ra đồng phụ giúp, nhưng bố mẹ chẳng muốn chúng tôi phải chịu nắng nôi, rồi mất buổi học buổi hành nên chẳng bao giờ cho chúng tôi ra đồng.
 
cánh đồng tuổi thơ

Lớn hơn, tôi lên thành phố học đại học. Rồi ra trường, đi làm. Ở thành phố xa xôi, tôi thèm được ngửi cái hương lúa đang thì con gái và chín dần dần ngả màu vàng ươm. Thành phố ồn ào, tấp nập quá càng khiến người ta trở nên đơn độc, lẻ loi. Mỗi đêm, trước khi ngủ, tôi đều vắt tay lên trán và nhớ về cánh đồng, nhớ về mái nhà xiêu vẹo ở quê, trên cả là nhớ bố mẹ da diết.

Mỗi khi về nhà, tôi lại ra đồng vào buổi chiều. Cánh đồng thân thương ấy đã góp phần nuôi lớn tôi, nó cũng là một phần thiêng liêng trong tâm trí tôi. 

Tôi thích cảm giác thanh thản, nhẹ nhàng khi chạm chân trần lên con đường đầy cỏ xanh. 

Tôi thích nhắm mắt lại, đưa hai tay ra để cảm nhận cái lành lạnh của gió đồng vẫn còn lẫn hương lúa thơm. 

Tôi thích hít đầy lồng ngực hương vị quê hương thân yêu mà tôi vẫn khát khao mong nhớ trong những ngày ở thành phố. 

Tôi thích ngắm cả những bông cúc trắng nhỏ dại mọc hai bên đường. Hoa cúc tinh khôi, mạnh mẽ đứng lên sau những sóng gió thiên nhiên. 

Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ khiến tôi mạnh mẽ hơn. Những vụn vặt đời thường, những giận hờn, bon chen cũng trôi đi mất.
 
cánh đồng tuổi thơ
Mỗi mùa tôi về, đồng đều có sự thay đổi. Khi thì tôi được thỏa mắt ngắm những làn sóng lúa dập dờn. Được hít hà hương lúa non sữa. Khi thì tôi được tự tay sờ vào những bông lúa trĩu vàng, được ngửi hương ngai ngái nhưng đặc trưng của những bông lúa chín trộn lẫn mùi bùn. Khi thì tôi thấy cánh đồng trơ trọi, cháy rụi sau mỗi vụ mùa. Lũ trẻ con chạy nhảy trên đồng, tiếng cươi giòn tan, vỡ ra và bay lên vút cao cùng những cánh diều. 

Cuộc đời cũng như cánh đồng, luôn luôn thay đổi. Nhưng sống làm sao để luôn vui cười trên mọi khổ đau, luôn thấy hạnh phúc với hiện tại mới là điều đáng quý. Tôi còn thèm nhìn thấy cảnh mặt trời đỏ rực rồi từ từ lặn sau núi, kết thúc một ngày. Mặt rời trước khi lặn còn khiến mình rực rỡ như thế, thì sao mình phải buồn bã. Những khi mệt mỏi, tuyệt vọng tôi đều tự nhủ lòng mình như thế. 

Cánh đồng, không biết từ bao giờ trở thành một nơi để tôi trút mọi nỗi buồn. Cánh đồng, không biết từ bao giờ đã trở thành nơi ghi dấu sự tần tảo của bố mẹ tôi. Đối với tôi, cánh đồng không chỉ là nơi gieo lúa, gặt lúa mà còn là cả một khoảng không tâm hồn. Đáng quý, đáng trân trọng lắm! 

Giữa dòng đời xô bồ, tôi vẫn có những buổi chiều bình yên như thế. Đời mà, chỉ cần an nhiên mà sống, vậy đã đủ hạnh phúc rồi. 
32
1 tháng 7 2016

ừm rất hay

1 tháng 7 2016

Hay quá.bài này thật ý nghĩavui

dung Trạng nguyên Lương Thế Vinh Các giai thoại về Trạng Nguyên Lương Thế VInh                                                                                                               Chú bé láu lỉnhTrạng nguyên Lương Thế Vinh người làng Cao Hương, huyện Thiên Bản (nay thuộc Nam Định) thuở còn nhỏ đã tỏ ra hài hước, hóm...
Đọc tiếp

dung Trạng nguyên Lương Thế Vinh

Picture
 

Các giai thoại về Trạng Nguyên Lương Thế VInh

                                                                                                               Chú bé láu lỉnh

Trạng nguyên Lương Thế Vinh người làng Cao Hương, huyện Thiên Bản (nay thuộc Nam Định) thuở còn nhỏ đã tỏ ra hài hước, hóm hỉnh và khôn ngoan. Có lần, người bố là Lương Thế Thiện đi vắng, chủ nợ đến đòi tiền, thấy cậu bé Vinh đang chơi trò nặn đất ở sân, liền hỏi:

- Bố mẹ đi đâu?

Vinh làm thinh không trả lời. Chủ nợ hỏi lại, cậu mới đáp:

- Bố, mẹ tôi đã đi khắc có việc, ông hỏi làm gì?

Chủ nợ cứ gặng hỏi đi đâu, bao giờ về... Cuối cùng, Vinh mới trả lời, giọng tỉnh khô:

- Bố tôi đi giết một người sống. Mẹ tôi đi cứu một người chết.

Chủ nợ ngơ ngác, không hiểu đầu đuôi thế nào, nên cứ hỏi mãi. Thấy Vinh im lặng, chủ nợ dỗ:

- Nếu mày nói thật, ta sẽ trừ cho khoản nợ trước kia bố mẹ mày vay.

Bấy giờ Vinh mới vui vẻ đáp:

- Nếu vậy thì ông in ngón tay vào bánh đất này để làm bằng.

Người chủ nợ vì tò mò muốn biết, nên cũng thử chiều ý cậu bé xem sao.

Lúc ấy Vinh mới vừa mỉm cười, vừa nói:

- Bố tôi đi nhổ mạ. Mẹ tôi đi cấy lúa! (1)

Lúc này chủ nợ mới vỡ lẽ, trong lòng thầm thán phục Lương Thế Vinh là đứa trẻ khôn ngoan.

Ngày hôm sau chủ nợ lại đến đòi. Bố mẹ Vinh chưa biết nói sao, thì Vinh đã giơ đồ chơi bằng đất cho mọi người xem và nói:

- Hôm qua ông đã hứa xoá nợ cho nhà tôi rồi kia mà? Dấu tay ông in còn đây này?

Người chủ nợ giật mình, nói với ông Thiện:

- Tôi mừng cho ông bà có cháu bé rất thông minh. Tôi xin biếu khoản nợ để gia đình lo cho cháu học sớm, sau này chắc thế nào cũng chiếm được khôi nguyên.

Từ đó cậu bé Lương Thế Vinh đã nổi tiếng là “Thần đồng làng Hương”.
 

Trạng Lường

Lương Thế Vinh vẫn được người đời quen gọi là Trạng Lường. Lí do là vì ngay từ  nhỏ, ông đã tỏ ra rất giỏi trong việc đo lường. Khi đỗ đạt ra làm việc quan, ông đã viết cuốn sách nhan đề “Đại thành toán pháp” (2) nhằm tổng kết kiến thức tính toán của thời đó và cả những phát minh của chính bản thân ông. Lương Thế Vinh đã viết đề tựa, nêu mục đích của cuốn sách như sau:

“ Trước thời cho biết cách đo lường 
Tính toán bình phân ở cửu chương 
Thông hay mọi nhẽ điều vinh hiển 
Học lấy cho tinh giúp thánh vương!”


Tương truyền rằng thuở còn nhỏ, một lần Lương Thế Vinh cùng chúng bạn ngồi hóng mát dưới một gốc cây cổ thụ. Cả bọn thách đố nhau làm thế nào để biết được cây cao - thấp. Một số cho rằng chỉ có cách là trèo lên ngọn cây, rồi dùng dây thòng xuống đất mà đo. Riêng Lương Thế Vinh cho rằng không cần trèo, đứng dưới đất vẫn có thể đo được. Cậu lấy chiếc gậy cầm ở tay đo xem dài ngắn bao nhiêu, đoạn dựng gậy lên mặt đất và đo chiều dài bóng gậy. Tiếp đến cậu đo bóng cây và sau một lát nhẩm tính, cậu đã tìm được chiều cao của cây. Bọn trẻ không tin bèn dùng thừng nối lại, buộc hòn đá phía dưới, rồi trèo lên tít ngọn cây dong thừng xuống đất để đo. Kết quả, đúng như Vinh đã tính.

Ngày nay, cách tính chiều cao của cây mà Lương Thế Vinh đã áp dụng, chắc chắn các bạn học sinh chúng ta không lấy gì làm lạ. Nhưng cách đây gần 5 thế kỉ, khi ở châu Âu số người hiểu được định lí  Pitago về cạnh tam giác vuông    a2 + b2 = c2 chỉ mới đếm trên đầu ngón tay, thì việc Lương Thế Vinh tìm ra được tỉ lệ chiều cao của cây và chiều cao của chiếc gậy bằng tỉ lệ bóng của chúng trên mặt đất,  là một sáng tạo, thể hiện nước ta ở thế kỉ XV đã có nhà toán học đầy tài năng.

Khi đến tuổi trưởng thành, có lần Lương Thế Vinh đến một khúc sông, thấy mấy người đang bàn tính nhau tìm cách đo chiều rộng của con sông để bắc cầu. Hôm đó nước sông rất to và chảy xiết, nên không thể bơi qua. Lương Thế Vinh bèn góp ý:

- Không cần sang sông làm gì. Các ông tìm cho tôi mấy cái cọc, tôi sẽ đo giúp.

Lúc đầu mấy người tưởng ông nói đùa, không tin. Nhưng chỉ sau một lúc đóng cọc, ngắm nghía và tính toán, ông đã cho họ biết khúc sông rộng bao nhiêu thước. Thì ra từ thời đó, Lương Thế Vinh đã biết đến kiến thức về tam giác đồng dạng...

Lại một lần khác, đoàn sứ bộ nhà Minh sang nước ta. Vua Lê Thánh Tông cử trạng nguyên Lương Thế Vinh đón tiếp. Trưởng đoàn sứ Minh vốn nghe tiếng trạng nguyên Việt chẳng những nổi tiếng văn chương, mà còn có trí thức uyên bác về khoa học, bèn hỏi:

- Có phải ông là người làm sách “Đại thành toán pháp”?

Lương Thế Vinh tỏ vẻ khiêm tốn, đáp:

- Vâng, đúng vậy!

Nhân lúc đó có con voi đang kéo gỗ dưới sông lên, sứ Tàu bèn thách:

- Vậy quan trạng có thể cân xem con voi kia nặng bao nhiêu được không?

- Được ạ!

Dứt lời, Lương Thế Vinh lấy chiếc cân, xăm xăm đi ra phía sông để cân voi.

Sứ Tàu phì cười, nói:

- Xem chiếc cân quan trạng chỉ đủ cân được cái đuôi voi thôi!”

- Thì chia nhỏ voi ra nhiều phần để cân.

Lương Thế Vinh trả lời, tỉnh khô.

Vị chánh sứ Tàu lại châm chọc:

- Ông định mổ thịt voi chắc? Nhớ phần tôi miếng gan nhé!

Lương Thế Vinh không trả lời. Ông sai lính dắt voi xuống chiếc thuyền bỏ không buộc lên bờ. Voi nặng, thuyền đắm sâu xuống nước. Ông lại sai đánh dấu mép nước bên mạn thuyền, rồi dắt voi lên. Đoạn ông ra lệnh cho quân lính khuân đá bỏ vào thuyền, cho đến khi thuyền đắm ngang mực nước đã đánh dấu thì thôi. Thế rồi trạng cho bắc cân cân hết số đá trong thuyền và bảo với sứ Minh:
- Đây, con voi ông chỉ, nặng chừng này cân!

Viên sứ Tàu tuy trong bụng đã phục lăn, nhưng bề ngoài vẫn làm vẻ chưa tin, muốn thử tài trạng thêm, bèn xé một tờ giấy bản trong cuốn sách dày và đưa cho trạng một chiếc thước, nhờ đo xem tờ giấy dày bao nhiêu.

Tình huống đặt ra thật khó xử. Tờ giấy quá mỏng, mà các nấc chia trên thước vừa lớn, lại không rõ. Nhưng với trí tuệ linh hoạt, Lương Thế Vinh đã nghĩ ngay được cách đo. Ông mượn viên sứ Tàu quyển sách, lấy thước đo chiều dày cả quyển, rồi chia cho số tờ và tìm ra đáp số, trước con mắt thán phục của sứ bộ nhà Minh.
 

Trái bưởi - Sức đẩy Archimède

Hôm đó, cậu đem một trái bưởi ra bãi tha ma (chỗ bạn bè thả trâu) làm quả bóng để các bạn cùng chơi. Bỗng quả bưởi lăn xuống một trong những cái hố bên mép bãi người ta đào để ngăn trâu bò khỏi phá lúa. Cái hố rất hẹp lại rất sâu không xuống mà cũng không với tay lấy lên được. Bọn trẻ tưởng thế là mất đồ chơi. Nhưng Lương Thế Vinh nghĩ một lát, rồi mới hớn hở rủ bạn đi mượn vài chiếc gầu giai đi múc nước đổ xuống hố. Bọn trẻ không hiểu Vinh làm thế để làm gì. Nhưng lát sau thấy Vinh cúi xuống cầm quả bưởi lên, chúng rất sửng sốt phục tài Vinh.

Từ đó trẻ con trong làng truyền nhau rằng Lương Thế Vinh là thần, có một câu "thần chú" hay lắm, có thể gọi được những vật vô tri như quả bưởi lại với mình.

Thực ra thì Vinh trèo cây hái bưởi bên bờ ao, sẩy tay cậu làm rơi quả bưởi xuống nước tưởng mất. Nhưng khi nhìn thấy bưởi nổi trên mặt ao, Vinh đã lấy cành tre khều vào và đem ra bãi chơi. Lúc quả bưởi lăn xuống hố, cậu đã chợt nhớ lại và nghĩ ra cách lấy nước đổ xuống cho bưởi nổi lên. Vốn thích thơ ca, hò, vè nên trong khi cúi xuống chờ bưởi, cậu vui miệng đọc lẩm nhẩm:

Bưởi ơi bưởi
Nghe tao gọi
Lên đi nào
Đừng quên lối
Đừng bỏ tao... 

Và bọn trẻ cứ nghĩ rằng Vinh đọc "thần chú".
 

Phương pháp học của ông

Lương Thế Vinh là người biết kết hợp rất khéo giữa chơi và học, nên từ nhỏ Vinh học rất thoải mái và lại đạt kết quả cao.
Vinh học đến đâu, hiểu đến đấy, học một mà biết mười. Khi đã ngồi học thì tập trung tư tưởng rất cao, luôn muốn thực nghiệm những điều đã học vào đời sống. Trong khi vui chơi như câu cá, thả diều, bẫy chim, Vinh luôn kết hợp với việc học. Lúc thả diều, Vinh rung dây diều để tính toán, ước lượng chiều dài, chiều cao. Khi câu cá, Vinh tìm hiểu đời sống các sinh vật, ước tính đo lường chiều sâu ao hồ, chiều rộng sông ngòi... và kiểm tra lại bằng thực nghiệm. Vinh nghĩ ra cách đo bóng cây mà suy ra chiều dài của cây.
Người đời còn truyền lại câu chuyện sau đây:
Dạo đó, Lương Thế Vinh và Quách Đình Bảo là hai người nổi tiếng vùng Sơn Nam (Thái Bình- Nam Định bây giờ) về thông minh, học giỏi. Một hôm, sắp đến kỳ thi, Lương Thế Vinh tìm sang làng Phúc Khê bên Sơn Nam hạ để thăm Quách Đình Bảo, toan bàn chuyện cùng lên kinh ứng thí.
Đến làng, Vinh ghé một quán nước nghỉ chân. Tại đây Vinh nghe người ta nói là Quách Đình Bảo đang ngày đêm dùi mài kinh sử quên ngủ, quên ăn. Chắc chắn kỳ này Bảo phải đứng đầu bảng vàng. Vinh cười nói:
- Kỳ thi đến nơi mà còn chúi đầu vào quyển sách, cố tụng niệm thêm vài chữ. Vậy cũng gọi là biết học ư? Ta có đến thăm cũng chẳng có gì để bàn bạc - Vinh nói thế rồi bỏ ra về.
Quách Đình Bảo nghe được chuyện trên, gật gù:
- Người đó hẳn là Lương Thế Vinh, ta phải đi tìm mới được!
Thế là Bảo chuẩn bị khăn gói, tìm đến Cao Hương thăm Vinh. Chắc mẩm đến nhà sẽ gặp ngay Vinh đang đọc sách, nhưng Vinh đi vắng, người nhà bảo Vinh đang chơi ngoài bãi.
Quách Đình Bảo ra bãi tìm, quả thấy Vinh đang thả diều, chạy chơi cùng bạn bè, rất ung dung thư thái. Bảo phục lắm tự nói với mình: "Người này khôi ngô tuấn tú, phong thái ung dung, ta có học mấy cũng không thể theo kịp".
Quả nhiên sau đó, khoa Quý Mùi năm Quang Thuận thứ tư, đời vua Lê Thánh Tông (1463) Lương Thế Vinh đỗ Trạng nguyên (đỗ đầu), Quách Đình Bảo đỗ Thám hoa (đỗ thứ 3). Năm ấy Lương Thế Vinh mới hăm hai tuổi.
 

 Các câu chuyện giữa ông với vua Lê Thánh Tông:

           a) Một cách khen vua :
Lương Thế Vinh thuở bé nghịch ngợm nổi tiếng. Ông hay tắm sông hồ thành thử bơi lội rất giỏi. Lê Thánh Tông biết rõ chuyện ấy, nên một hôm đi chơi thuyền có Lương Thế Vinh và các quan theo hầu, Vua liền giả vờ say rượu ẩy Vinh rơi tòm xuống sông, rồi cứ cho tiếp tục chèo thuyền đi.
Không ngờ Lương Thế Vinh rơi xuống, liền lặn một hơi đi thật xa, rồi đến một chỗ vắng lên bờ ngồi núp vào một bụi rậm chẳng ai trông thấy. Lê Thánh Tông chờ mãi không thấy Vinh trồi đầu lên, bấy giờ mới hoảng hồn, vội cho quân lính nhảy xuống tìm vớt, nhưng tìm mãi cũng chẳng thấy đâu. Vua hết sức ân hận vì lối chơi đùa quá quắt của mình, chỉ muốn khóc, thì tự nhiên thấy Vinh từ dưới nước ngóc đầu lên lắc đầu cười ngất. Khi lên thuyền rồi, Vinh vẫn còn cười. Thánh Tông ngạc nhiên hỏi mãi, cuối cùng Vinh mới tâu:
"Thần ở dưới nước lâu là vì gặp phải một việc kỳ lạ và thú vị. Thần gặp cụ Khuất Nguyên (*), cụ hỏi thần xuống làm gì?. Thần thưa dối là thần chán đời muốn chết. Nghe qua, cụ Khuất Nguyên tròn xoe mắt, mắng thần: "Mày là thằng điên!. Tao gặp Sở Hoài Vương và Khoảng Tương Vương hôn quân vô đạo, mới dám bỏ nước bỏ dân trầm mình ở sông Mịch La. Chứ mày đã gặp được bậc thánh quân minh đế, sao còn định vớ vẩn cái gì?". Thế rồi cụ đá thần một cái, thần mới về đây!".
Lê Thánh Tông nghe xong biết là Lương Thế Vinh nịnh khéo mình, nhưng cũng rất hài lòng, thưởng cho Vinh rất nhiều vàng lụa.

(*) Khuất Nguyên - nhà thơ nổi tiếng, một vị trung thần nước Sở - do can ngăn vua Hoài Vương không được, đã uất ức ôm đá gieo mình xuống sông Mịch La tự vẫn. Hôm ấy đúng ngày mồng Năm tháng Năm. Thương tiếc người trung nghĩa, mỗi năm cứ đến ngày đó, dân Trung Quốc xưa làm bánh, quấn chỉ ngũ sắc bên ngoài (chủ ý khiến cá sợ, khỏi đớp mất) rồi bơi thuyền ra giữa sông ném bánh xuống cúng Khuất Nguyên. 

        b) Ứng đáp với vua : 
Vua Lê Thánh Tông đi kinh lý vùng Sơn Nam hạ, ghé thăm làng Cao Hương, huyện Vụ Bản, quê hương của Trạng Nguyên Lương Thế Vinh, lúc bấy giờ cũng đang theo hầu Vua.
Hôm sau vua đến thăm chùa làng. Khi ấy, sư cụ đang bận tụng kinh. Bỗng sư cụ đánh rơi chiếc quạt xuống đất. Vẫn tiếp tục tụng, sư cụ lấy tay ra hiệu cho chú tiểu cúi xuống nhặt, nhưng một vị quan tùy tòng của Lê Thánh Tông đã nhanh tay nhặt cho sư cụ. Vua Lê Thánh Tông trông thấy vậy, liền nghĩ ra một vế đối, trong bữa tiệc hôm đó đã thách các quan đối.
Vế ấy như sau:

Ðường thượng tụng kinh sư sử sứ...

Nghĩa là: Trên bục tụng kinh sư khiến sứ ( nhà sư sai khiến được quan)

Câu nói này oái ăm ở ba chữ sư sử. Các quan đều chịu chẳng ai nghĩ ra câu gì.

Trạng nguyên Lương Thế Vinh cứ để họ suy nghĩ chán chê. Ông ung dung ngồi uống rượu chẳng nói năng gì. Vua Lê Thánh Tông quay lại bảo đích danh ông phải đối , với hy vọng đưa ông đến chỗ chịu bí. Nhưng ông chỉ cười trừ.

Một lúc ông cho lính hầu chạy ngay về nhà mời vợ đến . Bà trạng đến, ông lấy cớ quá say xin phép vua cho vợ dìu mình về.
Thấy Vinh là một tay có tài ứng đối mà hôm nay cũng đành phải đánh bài chuồn, nhà vua lấy làm đắc ý lắm, liền giục:

" Thế nào? Ðối được hay không thì phải nói đã rồi hẵng về chứ?"
Vinh gãi đầu gãi tai rồi chắp tay ngập ngừng:
- Dạ... muôn tâu, Thần đối rồi đấy ạ!
Vua và các quan lấy làm lạ bảo Vinh thử đọc xem. Vinh cứ một mực:" Ðối rồi đấy chứ ạ!" hoài. Sau nhà vua gạn mãi, Vinh mới chỉ tay vào người vợ đang dìu mình, mà đọc rằng:

Ðình tiền túy tửu, phụ phù phu.

Nghĩa là: Trước sân say rượu, vợ dìu chồng.

Nhà vua cười và thưởng cho rất hậu.

c) Lời tiên đoán 
Một hôm, lúc chầu trong triều, vua hớn hở nói với Vinh:
- Trẫm có nhiều con trai, việc thiên hạ không việc gì phải lo ngại nữa!
Lương Thế Vinh tâu:
- Lắm con trai là lắm giặc. Không lo sao được!
Vua lấy làm lạ hỏi:
- Ta không rõ sao lại thế?
Trạng tâu không úp mở:
- Ngôi báu chỉ có một. Bệ hạ có nhiều con trai càng có nhiều sự tranh giành ngôi báu. Như vậy phải lo lắm chứ!

Đúng như lời tiên đoán của ông. Sau đó con cháu nhà vua tranh giành ngôi thứ, chém giết lẫn nhau, làm cho triều chính đổ nát, trăm họ lầm than. Chỉ ba chục năm sau khi Thánh Tông mất, Mạc Đăng Dung đã nhân cơ hội mà cướp ngôi nhà Lê.
 

Răn dạy các quan

Lương Thế Vinh rất ghét những viên quan hống hách, hà hiếp nhân dân. Ông có nhiều học trò giỏi đỗ cao, làm quan lớn. Với học trò nào ông cũng dạy về lòng yêu dân, đức khiêm tốn. Có lần, một viên quan huyện hách dịch đã bị ông cho một bài học, làm trò cười cho thiên hạ.
Bữa ấy, ông đi thăm bạn bè, ngồi nghỉ chân ở quán nước bên đường. Bỗng thấy một đoàn rước quan huyện đi qua. Dân trong vùng đều biết viên quan này thường hay bắt người dọc đường khiêng cáng, bèn bảo nhau trốn chạy cả. Vì không biết lệ đó nên ông cứ ung dung ngồi nghỉ đến khi tên lính hầu của quan huyện bắt ra khiêng cáng.
Lương Thế Vinh khúm núm bước lại ghé vai khiêng cáng. Khi cáng quan đi đến chỗ bùn lội, ông làm như vô tình trượt chân văng cáng, hất quan huyện ngã chỏng gọng giữa vũng, áo, mũ, cân đai bê bết bùn.
Quan huyện đỏ tím mặt mày vì giận, đang toan định đổ cơn thịnh nộ lên đầu kẻ hầu hạ mình thì trạng vẫy người đi đường, nói lớn:
- Bác gọi hộ anh học trò tôi là thám hoa Văn Cát ra khiêng hầu võng quan huyện thay thầy.
Quan huyện xanh xám mặt mày, cuống quýt quỳ mọp xuống bùn lạy như bổ củi, xin quan trạng tha tội cho.
Lương Thế Vinh nhẹ nhàng lấy lời răn dạy, từ đó viên quan huyện chừa thói hống hách với dân.
 
 
CREATE A FREE WEBSITE
 
POWERED BY 

START YOUR OWN F

3
4 tháng 10 2016

hay lắm thanks bạn leuleu

17 tháng 1 2017

Fantastic! I love it

Từ lâu mik đã hâm mộ Lương Thế Vinh lắm đó!Đọc truyện của ông hay thiệt

Cám ơn bạn nha!vui

Trong bài Chợ Tết của tác giả Đoàn Văn Cừ:Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh,Trên con đường viền trắng mép đồi xanh,Người các ấp tưng bừng ra chợ tết .Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc ;Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon,Vài cụ già chống gậy bước lom khom,Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ .Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ ,Hai người thôn...
Đọc tiếp

Trong bài Chợ Tết của tác giả Đoàn Văn Cừ:

Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh,
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh,
Người các ấp tưng bừng ra chợ tết .
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc ;
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon,
Vài cụ già chống gậy bước lom khom,
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ .
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ ,
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu ,
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau .
Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa,
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa ,
Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh ,
Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh .
Người mua bán ra vào đầy cổng chợ .
Con trâu đứng vờ rim hai mắt ngủ ,
Để lắng nghe người khách nói bô bô .
Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ ,
Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán .
Một thầy khóa gò lưng trên cánh phản ,
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân .
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm ,
Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ .
Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ ,
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau .
Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu ,
Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu .
Áo cụ lý bị người chen sấn kéo ,
Khăn trên đầu đang chít cũng bung ra .
Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà ,
Quên cả chị bên đường đang đứng gọi .
Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi ,
Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa .
Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha .
Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết ,
Con gà trống mào thâm như cục tiết ,
Một người mua cầm cẳng dốc lên xem .

Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm ,
Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh ,
Trên con đường đi các làng hẻo lánh ,
Những người quê lũ lượt trở ra về .
Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê ,
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ .
 
a) Tác giả miêu tả theo trình tự nào?
b) Nhận xét về nghệ thuật miêu tả của bài thơ
1
28 tháng 3 2016

a)Tác giả miêu tả theo trình tự thời gian

b)miêu tả sinh động về buổi sớm người dân, trên đồng cho đến đêm với các tiếng chuông chùa