K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

8 tháng 6 2021

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

"Thiên nhiên, tạo vật buồn nhưng đôi lúc bộc lộ vẻ đẹp kì vĩ, lạ lùng", đó là lời tự bình của tác giả về hai câu thơ này.Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.

Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.Cánh chim chiều nghiêng bóng trước hoàng hôn, một cánh chim nhỏ nhoi lẻ loi trên bầu trời bao la rộng lớn, thể hiện sự cô liêu khắc khoải. Cánh chim chiều chao nghiêng kia phải chăng chính là hiện thân của tác giả lúc này, đang cảm thấy trào dâng nghiêng ngả những cơn sóng lòng. Đang cảm thấy mình lẻ loi, cô đơn trước cuộc đời bao la rộng lớn.

13 tháng 5 2021

Tham khảo nha bạn:

Huy Cận là một nhà thơ tiêu biểu trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Trong số những tác phẩm mà ông để lại cho đời thì nổi bật nhất có lẽ là "Tràng giang". Thi phẩm đã tái hiện xuất sắc vẻ đẹp của thiên nhiên khi hoàng hôn buông xuống đồng thời nói lên tâm trạng buồn man mác của nhà thơ. Ngay từ những vần thơ đầu tiên, thi sĩ đã mở ra một không gian rộng lớn với "lớp lớp" những đám mây cao đang lững thững trôi trên bầu trời. Xa xa là những ngọn núi nhấp nhô, nối tiếp nhau. Trong không gian ấy, xuất hiện hình ảnh của những cánh chim với hình bóng nhỏ bé "bóng chiều sa". Câu thơ gợi một không gian lắng động, ẩn chứa nỗi buồn, sầu đọng của Huy Cận. Câu thơ đã một ra một bức tranh đượm buồn, chất chứa đầy tâm trạng, cảm xúc của thi nhân. Thật vậy, trong thơ xưa, khi đến khung cảnh chiều tà thường gợi sự đượm buồn sâu lắng. Thơ của Huy Cận cũng không phải ngoại lệ. Thật vậy, bài thơ Tràng giang là một bức tranh thiên nhiên ảm đạm, bộc lộ chân thực những suy tư trong lòng Huy Cận.

13 tháng 5 2021

TK:

–   Tràng giang gợi một nỗi buồn cô đơn, lạc lõng trước cảnh trời nước mênh mông, cao rộng bất tận, nhưng trống trải, hoang vắng, xa lạ, hững hờ và vô định. Toàn cảnh trời rộng sông dài tuyệt nhiên không có một bóng người, không có dấu vết của sự giao lưu thân mật, gần gũi: không một chuyến đò ngang, không một chiếc cầu để gợi chút niềm thân mật, "không một chút ấm áp của sự sống" (Huy Cận).

–   Hai câu thơ đầu trong khổ thơ cuối khắc họa lại cảnh tượng rực rỡ, kì vĩ khi mặt trời xuống thấp, hắt ánh sáng lên các lớp mây cao cuồn cuộn đùn ra như những núi bạc:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Tác giả rất thích chữ "đùn", tả mây như có sức đẩy ở bên trong, cứ trồi ra hết lớp này đến lớp khác.

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Ba chữ bóng chiều sa in lên núi bạc đùn lên, còn dáng chim nghiêng cánh nhỏ tương phản với lớp lớp, núi bạc, càng trở nên nhỏ nhoi, cô độc.

 

Hai câu thơ đẹp trong hình ảnh là linh hoạt trong nhịp bước của thời gian. Không gian vừa mới vươn trải mênh mông trong dáng (lấp ngàn mây lớp lớp chất chồng, chợt ập xuống hoàng hôn.

29 tháng 6 2018

1. MB: Giới thiệu tác giá, tác phẩm, hoàn cảnh ra đời của bài thơ, vị trí, trích dẫn đoạn thơ.

Nêu luận đề: Bức tranh tràng giang mênh mang, vô tận, hùng vĩ, sự vật bé nhỏ, lạc loài. Tâm trạng của cái tôi trữ tình: cô đơn, bơ vơ, nỗi sầu nhân thế và tình thương nhớ quê hương da diết.

2. TB: HS có thể triển khai bài viết theo nhiều cách khác nhau nhưng phải đáp ứng những nội dung cơ bản sau:

1. Khổ 1

- Bức tranh thiên nhiên: không gian sông nước mênh mang ( Sóng gợn tràng giang, nước... trăm ngả); Hình ảnh cõi nhân thế (Con thuyền xuôi mái, thuyền về nước lại, củi ... lạc mấy dòng). Tương quan đối lập: Không gian tràng giang bao la >< thế giới của cõi nhân sinh bé nhỏ, đơn côi.

- Tâm trạng cô đơn, lẻ loi, mối sầu trăm ngả của nhân vật trữ tình giữa trời đất.

- Nghệ thuật: Đối lập, đăng đối cấu trúc, thanh điệu, từ láy, đảo cú pháp, phép bồi thấn (sử dụng từ ngữ tăng cấp), hình ảnh cổ điển và hiện đại...

2. Khổ 2

- Thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ (Lớp lớp mây chất chồng thành núi bạc, cánh chim nhỏ làm cho bầu trời thêm mênh mang.)

- Tâm trạng của cái tôi trữ tình: cảm giác bơ vơ, nhỏ nhoi đến tội nghiệp, lòng nhớ quê dâng trào theo con nước triều dâng mà không cần khói sóng.

- Nghệ thuật: Phép đối, dấu hai chấm giữa dòng thơ, từ láy, thi liệu và bút pháp mang đậm màu sắc cổ điển nhưng có sáng tạo, mang màu sắc độc đáo của thơ Mới.

3. Đánh giá chung

- Bức tranh thiên nhiên mênh mang, đậm nét cổ kính, chất Đường thi nhưng gần gũi, gợi linh hồn quê hương xứ sở.

- Đi suốt hai khổ thơ là nỗi buồn triền miên vô tận của cái tôi trữ tình. Nỗi buồn đó là tiêu biểu của cả thế hệ trí thức sống trong những tháng năm ngột ngạt dưới thời Pháp thuộc, sống trên quê hương mà vẫn nhớ quê hương, là biểu hiện tình cảm yêu nước thầm kín mà tha thiết của nhà thơ. Vì thế, đó là nỗi buồn trong sáng, góp phần làm phong phú thêm cho tâm hồn bạn đọc mọi thời đại.

- Nghệ thuật: Yếu tố cổ điển kết hợp màu sắc hiện đại.

4. KB: - Khẳng định vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên mang dấu ấn của một nhà Thơ Mới, thấm đẫm nỗi buồn của cái tôi Thơ Mới.

- Tình yêu thiên nhiên, yêu non sông đất nước, nỗi sầu nhân thế của Huy Cận mãi mãi chạm tới trái tim của độc giả mọi thời đại.

10 tháng 4 2020

Mở đoạn:

Đặc điểm bao trùm của tâm hồn thơ Huy Cận thời Lửa thiêng (1938 : trĩu nặng sầu buồn. Vị trí của bài Tràng giang trong thơ Huy Cận thời kì ấy.

Giới thiệu khổ thơ kết thúc Tràng giang. Khẳng định ý nghĩa quan trọng của nó trong toàn bài thơ.

Thân đoạn:

Hình ảnh thiên nhiên và tậm trạng nhà thơ ở hai câu trước;

Bầu trời trên mặt tràng giang (không gian trên cao)

Sự vận dụng thơ ca cổ điển: Chữ "đùn"' trong thơ Đỗ Phủ, hình ảnh cánh chim trên bầu trời buổi hoàng hôn.

Sự kết hợp hai nét vẽ đối lập: hùng vĩ, bề thế “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” và bé nhỏ, mảnh mai “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”. Từ đó gợi cảm giác về sự yếu ớt, cô đơn của mỗi sinh vật trong vũ trụ vô cùng vô tận.

Niềm nhớ quê, nhớ nhà da diết của một cá nhân đang lạc lõng, bơ vơ.

Sự xuất hiện rất tự nhiên tâm trạng nhớ trong thời điểm cụ thể ấy.

Nỗi nhớ thiết tha thành cảm giác, thành hình ảnh gửi gắm cụ thể qua các chữ "dờn dợn vời con nước”.

Sự vận dụng ý thơ Thôi Hiệu ngày trước để bộc lộ niềm thương nhớ gia đình, quê hương.

Không chỉ là nỗi nhớ của tình cảm riêng tư mà thực chất đây là niềm khát khao tình đời, tình người ấm áp trong cái xã hội lạnh giá lúc bấy giờ. Nội dung cảm động của nỗi buồn trong Tràng giang chính ở chỗ đó.

Kết đoạn:

Khẳng định ý nghĩa tích cực của tâm trạng nhân vật trữ tình trong khổ thơ và trong bài thơ Tràng giang. Nó gợi cho ta những rung cảm trong sáng trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước. Sự kết hợp hãi hòa giữa màu sắc cổ điển và màu sắc hiện đại, hiện tượng "bình cũ rượu mới” thú vị qua khổ thơ.



HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
30 tháng 1

Giá trị biểu đạt của dấu hai chấm ở dòng thơ:

    “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”

Tác giả sử dụng dấu hai chấm để diễn tả hai hình ảnh đối lập nhau. Dấu hai chấm trong câu không chỉ đơn thuần để ngắt câu mà nó còn mang dụng ý nghệ thuật sâu sắc nhằm nhấn mạnh hơn không gian bao la, bát ngát đến vô tận. Cánh chim nhỏ chấm phá trên nền trời khi chiều bắt đầu buông, thể hiện rõ nét sự nhỏ bé, đơn côi trong lòng thi sĩ và càng khiến bài thơ trở nên mông lung, vắng lặng, buồn hiu hơn nữa.

8 tháng 4 2020

“Lòng quê dợn dợn vòi con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

- “Dợn dợn”: tăng mãi lên, nhanh mãi lên, mạnh mãi lên.

-> Sóng lòng đang trải ra cùng sóng nước.

- Đối thoại lại với người xưa: Nỗi nhớ quê luôn thường trực dai dẳng, triền miên.

- “Lòng quê”, “nhớ nhà”:

+ Nỗi nhớ Hà Tĩnh của tác giả.

+ Biểu hiện kín đáo của lòng yêu nước, nhớ quê hương đất nước của chính mình, thấy thiếu quê hương, nhớ quê hương vì nhớ một thời vàng son chưa mất nước.

14 tháng 1 2018

Hai câu thơ cuối trong bài Lưu biệt khi xuất dương diễn tả hình ảnh kì vĩ lớn lao, khắc họa được tầm vóc kì vĩ, phi thường của chủ thể trữ tình. Tác giả là nhà nho tiên tiến sớm tiếp cận với tư tưởng tiến bộ thông qua Tân thư.Ông hiểu rất rõ sự thất thế, mục ruỗng của xã hội nen đã tìm cho mình một hướng đi riêng nhằm giải phóng dân tộc. Hai câu thơ cuối bài đã nêu bật hình ảnh người chí sĩ yêu nước vượt “muôn trùng sóng bạc” ở “Biển Đông” để hướng tới những điều tốt đẹp dành cho dân tộc. Sóng của biển cả cũng chính là con sóng của nhiệt huyết đang dâng trào, chắp cánh cho ý chí vượt đại dương tìm đường cứu nước thêm phần tự tin. Tư thế cùng khát vọng lên đường của nhân vật trữ tình trong hai câu cuối có sức truyền cảm mạnh mẽ. Phan Bội Châu từ bài này gợi lên được nhiệt huyết của cả một thế hệ mạnh mẽ, can trường, dám bứt phá, thay đổi.