Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Trong giai đoạn từ 2000 đến 2007, nguồn lợi thủy sản của Việt Nam đã có những phát triển đáng kể, tuy nhiên cũng đối diện với một số thách thức và vấn đề cần được quản lý cẩn thận.
Thành tựu:
- Tăng trưởng sản lượng: Sản lượng thủy sản của Việt Nam đã tăng đáng kể trong giai đoạn này, đặc biệt là trong việc nuôi trồng thủy sản như tôm và cá tra.
- Xuất khẩu thủy sản: Việt Nam đã trở thành một trong những người xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới, với sản phẩm chủ yếu bao gồm tôm, cá tra, cá basa, và các loại hải sản khác.
- Phát triển nông nghiệp thủy sản: Nuôi trồng thủy sản đã phát triển mạnh mẽ và trở thành một ngành công nghiệp quan trọng, tạo cơ hội việc làm và thu nhập cho nhiều người dân.
Thách thức và vấn đề:
- Quản lý môi trường: Sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp thủy sản đã gây ra nhiều vấn đề về quản lý môi trường, bao gồm ô nhiễm nước, tình trạng nước biển yếu đối với cá tra, và đánh bắt thủy sản không bền vững.
- Kháng khuẩn và an toàn thực phẩm: Các vụ việc về kháng khuẩn và an toàn thực phẩm đã ảnh hưởng đến uy tín của sản phẩm thủy sản Việt Nam trên thị trường thế giới.
- Tăng cường giá trị gia tăng: Việt Nam cần tập trung vào việc tăng cường giá trị gia tăng cho sản phẩm thủy sản, thay vì chỉ tập trung vào xuất khẩu nguyên liệu thô.
- Biến đổi khí hậu: Biến đổi khí hậu có thể tác động đến nguồn lợi thủy sản thông qua biến đổi nhiệt độ nước biển và môi trường biển.
a. Điều kiện để phát triển ngành thủy sản
- Điều kiện tự nhiên và TNTN:
+ Biển: Bờ biển dài, vùng biển rộng giàu hải sản (trữ lượng: 4,0 tr.tấn), nhiều hải sản quý: cá, tôm, cua, hải sâm, bào ngư, sò huyết
Nhiều ngư trường lớn thuận lợi cho khai thác đánh bắt.
+ Bờ biển nhiều đầm phá, vũng vịnh, bãi triề, nhiều sông suối, ao hồ, kênh rạch dày đặc => thuận lợi cho nuôi trồng
- Điều kiện KTXH:
+ Lực lượng lao động dồi dào, giàu kinh nghiệm
+ Phương tiện đánh bắt ngày càng được cải tiến và hiện đại
+ Thị trường trong và ngoài nước có nhu cầu lớn, có nhiều chính sách khuyến khích
- Khó khăn: Thường có bão, lũ lụt, tàu thuyền, phương tiện đánh bắt chậm đổi mới, các cảng cá
và CN chế biến chưa phát triển
- Nuôi trồng thủy sản không phụ thuộc tự nhiên, con người chủ động về con giống và nguồn thức ăn, từ khâu nuôi cấy cho đến đánh bắt thu hoạch => vì vậy có lợi thế trong việc chủ động được nguồn hàng, linh hoạt theo biến động của thị trường, đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng nhờ nguồn hàng có hình thức đẹp mắt, đồng đều....
- Ngược lại đánh bắt phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên (bão, sóng biển, môi trường biển...) => không chủ động được nguồn hàng, sản phẩm không đồng đều về hình thức (con bé, con lớn...).
Đáp án cần chọn là: C
Nhận xét
- Giá trị sản xuất công nghiệp của nước ta năm $2000$ là thấp nhất với $336,1$ nghìn tỉ đồng.
- Giá trị sản xuất tăng dần theo các năm $2003,2004,2005,2006$ lần lượt là: $620,1;809;991,3;1203,8$ nghìn tỉ đồng.
- Giá trị sản xuất công nghiệp của nước ta năm $2007$ là cao nhất với $1469,3$ nghìn tỉ đồng.
Giải thích
- Có sự tăng trưởng như vậy là vì trong giai đoạn này đất nước đang trong quá trình bắt đầu công nghiệp hóa đất nước, mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Nhà nước chú trọng hơn vào các ngành công nghiệp có nhiều chính sách thúc đẩy sự phát triển.
Sự phát triển và phân bố ngành thuỷ sản :
- Ngành khai thác và nuôi trồng thuỷ sản phát triển ở tất cả các tỉnh giáp biển nhưng tập trung nhiều nhất ở duyên hải Nam Trung Bộ và Nam Bộ .
- Ngành thuỷ sản thu hút khoảng 3.1% lao động cả nước ( khoảng 1.1 triệu người năm 1999 ) .
- Sản lượng cả khai thác và nuôi trồng đều tăng nhanh và liên tục:
+ Sản lượng khai thác tăng khá nhanh chủ yếu là do đầu tư tăng số lượng tàu thuyền và tăng công suất tàu. Các tỉnh trọng điểm nghề cá là Kiên Giang , Cà Mau , Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Thuận .
+ Nuôi trồng thuỷ sản gần đây phát triển nhanh. Đặc biệt là nuôi tôm, cá. Các tỉnh có sản lượng thuỷ sản nuôi trồng lớn nhất là Cà Mau, An Giang và Bến Tre.
- Xuất khẩu thuỷ sản đã có bước phát triển vượt bậc, đứng thứ 3 sau dầu khí và may mặc.
- Tuy nhiên còn nhiều hạn chế như sản lượng chưa cao so với các nước trên thế giới, chủ yếu là do phương tiện đánh bắt thô sơ chịu ảnh hưởng nhiều của môi trường, khí hậu,….
Trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2007, ngành thủy sản nước ta đã có những bước tiến đáng kể trong phát triển. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản trong giai đoạn này đã tăng từ khoảng 1,9 triệu tấn lên đến hơn 3 triệu tấn. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu thủy sản chỉ tăng phiên bản với giá trị 1,11 tỷ USD (năm 2000) lên đến 3,5 tỷ USD (năm 2007).
Các sản phẩm thủy sản chủ yếu của Việt Nam bao gồm tôm, cá tra, cá basa, cá ngừ, ốc, sò, hàu, nghêu, mực, cua và ghẹ. Trong đó, tôm là sản phẩm thủy sản chiếm tỷ lệ lớn nhất trong sản xuất và xuất khẩu của nước ta.
Tuy nhiên, ngành thủy sản trên đất nước vẫn còn tồn tại một số hạn chế và khó khăn. Các vấn đề chính bao gồm sự thiếu hụt nguồn lực và kỹ thuật nâng cao chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn chất lượng thủy sản chưa được đảm bảo đồng đều. Ngoài ra, xuất khẩu thủy sản Việt Nam vẫn phải đối mặt với các rào cản thương mại quốc tế, đặc biệt là về vấn đề kiểm soát chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm.
Tóm lại, trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2007, ngành thủy sản nước ta đã có sự tiến bộ đáng kể, tuy nhiên, vẫn còn khó khăn và cần nâng cao các tiêu chí về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm để phía Việt Nam có thể tăng cường thị trường xuất khẩu thủy sản.