Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Nói đến đề tài mùa xuân, người yêu văn thơ nước nhà nhớ ngay đến “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải. Bài thơ này được xem như sợi dây nối tiếp mạch cảm xúc của mấy mươi năm về trước. Thanh Hải viết “Mùa xuân nho nhỏ” vào thời điểm sắp kề cận cát bụi nhưng người đọc tìm thấy một tình yêu thiên nhiên đất trời mãnh liệt, luôn dâng trào ở trái tim tác giả. Ngay ở khổ thơ đầu bài thơ đã toát lên được điều đó.
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Khổ thơ với chỉ bốn câu thơ đã phác họa một bức tranh với âm thanh, màu sắc, với sức xuân hài hòa, sống động. Từ “mọc” được đặt ở đầu câu với lối đảo ngữ tinh tế tạo nên sự khỏe khoắn, tạo nên sức sống tiềm ẩn, tạo nên sự vươn lên trỗi dậy. Giữa dòng sông rộng lớn, không gian mênh mông, chỉ một bông hoa thôi, một bông hoa tím biếc cũng làm nên sức xuân, cũng làm nên ánh xuân lung linh sắc màu.
Điểm nhấn của bức tranh xuân là gam màu thật hài hòa, dịu nhẹ, tươi tắn: màu xanh lam của nước sông Hương hài hòa cùng màu tím biếc của hoa, một màu tím thật giản dị, thủy chung mà cũng thật mộng mơ, quyến rũ. Đó cũng chính là màu đặc trưng của xứ Huế, một màu rất Huế.
Bỗng đâu đó tiếng chim chiền chiện hót vang trời. Với những thán từ “gọi”, “ơi”, “chi” mang chất giọng ngọt ngào, đáng yêu và đậm chất xứ Huế mang nhiều màu sắc thái cảm xúc như một lời trách yêu. Khung cảnh mùa xuân có không gian cao rộng, màu sắc tươi thắm, âm thanh vang vọng. Hót vang trời, đó là thứ thanh âm bay bổng, đằm thắm, dịu dàng. Mùa xuân trong thơ Thanh Hải chẳng có mai vàng, đào thắm cũng chẳng có muôn sắc màu rực rỡ nhưng sao mà tất cả rộ lên sắc màu và âm thanh đều đang ở độ tràn đầy nhựa sống.
Xúc cảm ngây ngất trước khung cảnh mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, đất trời, lòng người mà say sưa, xốn xang, rộn ràng đến thế.
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng"
Giọt long lanh là tên gọi chung của tác giả dành cho giọt sương, giọt mưa, giọt nắng, giọt mùa xuân hay giọt của âm thanh, giọt của hạnh phúc. Tiếng chim chiền chiện hót vang trời nhưng không tan biến vào không trung mà ngưng đọng lại thành từng giọt âm thanh như những giọt lưu ly trong vắt, lấp lóa, chói ngời. Với bút pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác từ thính giác đến thị giác và xúc giác “hứng” đó là sự trân trọng vẻ đẹp của thi nhân đối với vẻ đẹp của sự sống, của đất trời, của chim, đó cũng là sự đồng cảm của nhà thơ trước thiên nhiên, cuộc đời.
Mùa xuân đẹp đến mức làm cho trái tim của một người gần đất xa trời phải bừng tỉnh hay chính sức sống mãnh liệt, niềm tin yêu cuộc sống và khát khao dâng hiến đến hơi thở cuối cùng của nhà thơ đã thổi vào trong từng câu chữ nhưng màu sắc và âm thanh của sự hồi sinh. Màu tím trong thơ Thanh Hải không trầm mà trở nên tươi, tiếng chim trong thơ Thanh Hải không quá rộn rã mà trong vắt, tròn đầy. Cho đến hơi thở cuối cùng tác giả vẫn có thể cống hiến cho đời, cuộc đời ông cũng chính là một mùa xuân, “Một mùa xuân nho nhỏ, / Lặng lẽ dâng cho đời”.
- Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi).
→ Thành phần phụ chú (thương thương quá đi thôi).
- Anh quay lại nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được, nên anh phải cười vậy thôi.
→ Thành phần tình thái: có lẽ
- Ôi những cánh đồng quê chảy máu/ Dây thép gai đâm nát trời chiều.
→ Thành phần cảm thán: ôi
Thành phần biệt lập: Hình như
Cụ thể đây là thành phần tình thái
Tác dụng: Thể hiện mức độ sự chắc chắn của khoảnh khắc giao mùa, ở đây tác giả chỉ lờ mờ phỏng đoán vì có những tín hiệu ban đầu
Mình viết 8 câu bạn nhé!
Lưu ý: có một số bài thơ không được phép đặt dấu châm vào cuối câu, nên khi bạn trích thơ thì bạn như viết rồi ngoặc kép đầy đủ, sau dấu ngoặc kép thì bạn để dấu chấm coi như kết một câu. Như vậy thì sẽ không bị trừ điểm đâu bạn nhé!
Trong phạm vi khổ một bài thơ "Viếng lăng Bác" của nhà thơ Viễn Phương, hình ảnh lăng Bác với hàng tre xanh xanh đã được hiện lên thật nghiêm trang và trang trọng, xen lẫn vào đó là sự u ám, tiếc thương. Ở hai câu thơ đầu của khổ thơ, tác giả đã viết:
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác".
Với việc sử dụng từ ngữ xưng hô "con", nhà thơ đã thể hiện một thái độ vừa thân mật, lại vừa kính mến, trân trọng đối với Bác - gợi nên sự gần gũi thân thương của Bác đối với hàng triệu người con dân nước Việt, đồng thời cũng gợi ra một hình ảnh u buồn tăm tối "lăng Bác" - ẩn dụ rằng Bác đã ra đi và ra đi trong sự tiếc thương của mọi người. Trong ba câu thơ tiếp theo, tác giả đã viết:
"Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre, xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng".
Với việc sử dụng từ láy "bát ngát" cùng phép ẩn dụ "hàng tre", từ ngữ xưng hô "con" và từ cảm thán "Ôi", bài thơ đã làm cho người đọc thấy được tâm trạng của tác giả khi ra thăm lăng Bác thật trang nghiêm và u buồn. Việc sử dụng hình ảnh hàng tre bình dị làm ẩn dụ trong ba câu thơ trên đã cho thấy được những đức tính cao cả của Bác: giản dị, thanh cao, khiêm nhường nhưng cũng rất kiên cường, dũng cảm bất khuất. Thế nhưng những đức tính trên không phải chỉ của riêng mình Bác mà còn là của hàng triệu "đồng bào" trên khắp miền tổ quốc, luôn kiên cường và hết mình sống để chiến đấu cho tổ quốc. Và không chỉ vậy, những hàng tre ấy còn đại diện cho nhân dân Việt Nam luôn sẵn sàng bảo vệ và hiến dâng thân mình để bảo vệ Bác và bảo vệ lăng Bác mãi trường tồn theo thời gian...
TPBL: gọi đáp
''Ơi con chim chiền chiện''