K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

25 tháng 1 2021

Thạch Lam- nhà văn với quan niệm: cái đẹp man mác khắp vũ trụ luôn kiếm tìm những vẻ đẹp bình dị, nhỏ bé mà lẫn khuất đâu đó trong cuộc sống này. Đến với tập tùy bút "Hà Nội băm sáu phố phường" của ông, ta như thấy hiển hiện trước mắt dáng hình của một Hà Nội xưa cũ thuở nào. Đó là những chuyện phố, chuyện phường, chuyện đời sống dân sinh, đặc biệt là những thức quà bình dị quen thuộc chỉ nơi đây mới có. "Một thứ quà của lúa non: cốm" là một sáng tác tiêu biểu trong tập tùy bút ấy.

Mở đầu bài tùy bút, cảm hứng của nhà văn được khơi gợi và dẫn dắt từ cơn gió mùa thu hạ, từ vùng sen bên hồ. Những dấu hiệu đặc trưng của mùa thu ấy báo hiệu mùa về của "một thức quà thanh nhã và tinh khiết". Lời văn kéo người đọc trở về với không gian của mùa thu, với hương đồng gió nội và bao thức quà quen thuộc của làng quê bình dị. Nhưng thức quà gì thì chưa rõ, nhà văn để người đọc tự tưởng tượng và đoán định ra. Qua ngòi bút của nhà văn, ta như cảm nhận được "cái mùi thơm mát" phảng phất "hương vị mùi hoa cỏ" của bông lúa nếp non đầu mùa. Cội nguồn, gốc rễ của cốm được nhà văn miêu tả và cảm nhận bằng một thái độ vô cùng nâng niu, trân trọng, thể hiện sự quan sát tinh tế cùng tâm hồn nhạy cảm, đắm say của người nghệ sĩ. Thạch Lam tiếp tục dẫn dắt người đọc thưởng thức sự tài hoa, khéo léo của những đôi bàn tay làm nên cốm làng Vòng. Nhà văn không miêu tả kĩ lưỡng nhưng đủ để chúng ta hình dung ra sự vất vả, công phu khi làm ra thức quà quê ấy. Và cùng với cốm, hình ảnh những "cô hàng cốm xinh xinh, áo quần gọn ghẽ" hiện ra trong sự thân thương, trìu mến.

Mạch cảm xúc của nhà văn chuyển từ tiền thân và sự hình thành của cốm đến giá trị của nó. Nhà văn không tiếc lời ca ngợi cốm: "Cốm là thức quà đặc biệt riêng của đất nước, là thức dâng của những cánh đồng lúa bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ Việt Nam". Thứ quà đồng quê đã được nâng tầm trở thành bản sắc của dân tộc Việt Nam, biểu tượng cho hạnh phúc mãi mãi bền lâu của đôi lứa. Những lời bình luận của Thạch Lam giúp cho ta hiểu sâu sắc hơn về một phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc: dùng cốm làm quà siêu tết, trong các lễ nghi. Trân trọng những truyền thống ấy, ông nhẹ nhàng phê phán những kẻ học đòi kệch cỡm đang làm mất dần đi giá trị của cốm và bắt chước người người ngoài.

Kết thúc bài tùy bút, nhà văn chia sẻ với người đọc về cách ăn và thưởng thức cốm: "Cốm không phải là thức quà của người vội; ăn cốm phải ăn từng chút ít, thong thả và ngẫm nghĩ". Ăn cốm đã được Thạch Lam nâng lên tầm nghệ thuật. Thưởng thức cốm để cảm nhận "mùi thơm phức của lúa mới, của hoa cỏ dại ven bờ". Cốm là kết tinh của bao nhiêu sản vật làng quê Việt Nam, vậy nên "phải kính trọng cái lộc của Trời, cái khéo léo của người, và sự cố tiềm tàng và nhẫn nại của thần lúa". Đó là lời đề nghị chân thành, tha thiết của một tâm hồn gắn bó sâu nặng với những sản vật của quê hương, với những nét đẹp bình dị của mảnh đất kinh kì thuở xưa.

Bằng tâm hồn nhạy cảm và tấm lòng nâng niu trân trọng những sản vật quê hương, nhà văn đã phát hiện được nét đẹp của văn hóa dân tộc qua: cốm- thứ quà quê bình dị, dân dã. Cốm không chỉ là thức quà riêng người Hà Nội mới có mỗi khi thu đến, nó đã gói gọn cả tâm hồn của mảnh đất kinh kì cũng như của biết bao con người Việt Nam.

18 tháng 11 2017

Năm 1942, nhà văn Thạch Lam qua đời ở tuổi 32. Và trước đó mấy tháng, tập bút kí Hà Nội 36 phố phường của ông đã ra mắt bạn đọc. Có thể nói đây là một tác phẩm xuất sắc và độc đáo viết về văn hóa ẩm thực Việt Nam, viết về một nét đẹp của Hà Nội “ngàn năm văn vật”.

Ở tập bút kí này, Thạch Lam cho ta biết về các biển hiệu, tên hàng, tên các phố cổ, giới thiệu cho ta các đặc sản, các thứ quà, các hàng rong... Những thứ quà ấy, đâu chỉ Hà Nội mới có, nhưng chỉ của Hà Nội mới ngon, như bún riêu, bún ốc, bún chả, bún thang, bánh cuốn, bánh khảo, bánh đậu, cốm, bánh cốm,... và phở. Các món quà ấy, hương vị ấy mới đọc qua, ta đã thấy thèm ăn rồi. Bát phở gánh “nước thì trong và lúc nào cũng nóng bỏng, khói lên nghi ngút. Rau thơm tươi, hồ tiêu Bắc, giọt chanh cốm gắt, lại điểm thêm một chút cà cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ..”. Và cái vị bún chả “ngon từ cái mùi thơm, từ cái nước chấm ngon đi..!”. Thạch Lam còn cho biết ăn quà là một phong cách sống đẹp, là một nghệ thuật “ăn đúng cái giờ ấy, và chọn người bán ấy, mới là người sành ăn”.

“Một thứ quà của lúa non: Cốm” rút trong tác phẩm “Hà Nội 36 phố phường” là một bài thơ trữ tình bằng văn xuôi tuyệt tác, được tác giả viết với tất cả tấm lòng trân trọng, thành kính, thiêng liêng.

1.  Phần một bài tùy bút nói về nguyên liệu làm ra cốm, một món quà “thanh nhã và tinh khiết”. Hương vị cốm là sự “nhuần thấm cái hương thơm của lá” của bông lúa vừng sen trên hồ do cơn gió mùa hạ đem lại. Là “cái mùi thơm mát” của bông lúa non ta “ngửi thấy” khi đi qua những cánh đồng xanh, khi hạt thóc nếp đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi. Nguyên liệu làm ra cốm là “cái chất quý trong sạch của Trời”, được hình thành một cách linh diệu, lúc đầu là “một giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ”, về sau được nắng thu làm cho “giọt sữa dần dần đông lại”...

Thạch Lam đã có một cách quan sát tinh tế, một sự cảm nhận tài hoa, một cách viết nhẹ nhàng, biểu cảm và đầy chất thơ. Trái tim của ông tưởng như đang rung động trước màu xanh và hương thơm dịu ngọt của bông lúa nếp non trên cánh đồng làng quê.

2.  Lúa nếp non đến lúc nào được gặt đem về, cách chế biến cốm là “một sự bí mật trân trọng và khe khắt giữ gìn” được truyền từ đời này sang đời khác. Và chỉ có cốm làng Vòng mới là đặc sản Hà Nội, do bàn tay những cô gái làng Vòng làm ra “thứ cốm dẻo và thơm ấy”. Cốm Vòng ngon nổi tiếng khắp cả nước. Những người làm ra cốm và gánh cốm đi bán rất duyên dáng, đáng yêu. Đó là các cô gái làng Vòng “xinh xinh áo quần gọn ghẽ”, với cái đòn gánh “hai đầu cong vút lên như chiếc thuyền rồng”, đượcbà con phố phường “ngóng trông” khi mùa cốm đến. Cốm đã ngon, người bán cốm lại xinh dòn, cuộc sống thêm sắc màu ý vị.

Cốm là sự kết tinh của mọi thứ quý báu nhất, tốt đẹp nhất của quê hương. Là “thức quà riêng biệt của đất nước”. Là “thức dâng của những cánh đồng lúa bát ngát xanh”. Là “cái hương vị... mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ An Nam”. Hương vị của cốm được Thạch Lam cảm nhận với tất cả sự trân trọng và tự hào.

Cốm như một chứng nhân, một sứ giả của tình yêu. Cốm là thứ quà biếu Tết làm cho tình yêu đôi lứa thêm bền đẹp “vướng vít của tơ hồng”. Cốm là thức quà trong sạch, trung thành như các việc lễ nghi, đã trở thành lễ phẩm cao quý của thuần phong mĩ tục.

Tình duyên bền đẹp của lứa đôi cũng như “hồng cốm tốt đôi” vậy. Sắc màu, hương vị của hồng, của cốm là một sự “hòa hợp” tuyệt vời: “màu xanh tươi của cốm như ngọc thạch quý, màu đỏ thắm của hồng như ngọc lựu già. Một thứ thanh đạm, một thứ ngọt sắc, hai vị nâng đỡ nhau để hạnh phúc được bền lâu”. Cách so sánh của Thạch Lam không chỉ sắc sảo, tài hoa mà còn thể hiện một phong cách ẩm thực rất sành điệu. Cũng viết về cốm, trong Thương nhớ mười hai nhà văn Vũ Bằng lại nói, thích ăn cốm với chuối tiêu trứng cuốc ngon lừ!

Như nhắn gửi và chê trách, nhưng không lên mặt đạo đức dạy dời, tác giả đã đặt vào ngoặc đơn, khi nói về cách sống của những kẻ “mới giàu vô học”. Như một lời cảnh báo, hơn 60 năm sau lời chê trách ấy vẫn còn có nhiều ý nghĩa!

3.  Phần cuối bài tùy bút, Thạch Lam nói về cách ăn cốm, thưởng thức cốm. Ăn cốm không thể “ăn vội” mà phải “ăn từng chút ít thong thả và ngẫm nghĩ” để tận hưởng “cái mùi thơm phức của lúa mới, của hoa cỏ dại ven bờ”, cảm thụ được “'trong màu xanh của cốm, cái tươi mát của lá non, và trong chất ngọt của cốm, cái dịu dàng thanh đạm của loài thảo mộc”. Hương vị cốmcòn có “mùi hơi ngát của lá sen già, ướp lấy từng hạt cốm một..”. Tác giả đã viết rất gợi cảm, dùng chữ “bao bọc”, “nằm ủ” để nói về mối quan hệ tự nhiên giữa lá sen và cốm, tựa như hai linh hồn nương tựa vào nhau, làm tôn lên hương sắc thanh quý “cái lộc của Trời”: “Trời sinh ra lá sen để bao bọc cốm cũng như Trời sinh ra cốm nằm ủ trong lá sen". Vì thế, trong gánh hàng của các cô gái làng Vòng mới có “từng lá cốm” hiện ra với tất cả sự ngon lành “sạch sẽ và tinh khiết”.  

Nhà văn nhắc khẽ mọi người không nên “thọc tay hay mân mê thức quà thần tiên ấy” mà phải “nhẹ nhàng mà nâng đỡ, chút chiu mà vuốt ve". Ngoài cử chỉ thanh nhã, trang nhã, Thạch Lam còn nêu lên phong cách thưởng thức cốm như một nghi lễ thiêng liêng: “Phải nên kính trọng cái lộc của Trời, cái khéo léo của người, và sự cố sức tiềm tàng và nhẫn nại cua thần Lúa”. Nghĩa là biết ăn cốm với tất cả tấm lòng trân trọng và biết ơn như khi ta ăn bát cơm dẻo thơm ngon lành.

Ăn cốm, thưởng thức cốm bằng cử chỉ ấy, tình cảm ấy, tấm lòng ấy, thì phong cách ẩm thực mới được “trang nhã và đẹp đẽ hơn, và cái vui cũng sẽ tươi sáng hơn nhiều lắm”. Phong cách ăn cốm ấy, thưởng thức cốm - thứ quà thanh nhã và tinh khiết ấy là một nét đẹp văn hóa của con người Kinh kì xưa nay:

“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”

(Ca dao)

Sự cầu kì về cách diễn đạt, biểu cảm của Thạch Lam không hề gây cho người đọc khó chịu, mà đã tô đậm chất thơ, nâng việc cảm thụ cốm lên một tầm nhân văn mới. Giọng văn của ông nhẹ nhàng, có lúc như tâm sự, có lúc như nhắc khẽ, rất ân tình và thân mật. Ngòi bút nghệ thuật của tác giả rất tài hoa, giàu có trong việc chọn lọc ngôn từ, nhất là các tính từ, các so sánh ẩn dụ để ca ngợi và khẳng định sự ngon lành thanh quý của cốm. Cốm là “thức quà thanh nhã và tinh khiết”, là “thức quà riêng biệt của đất nước”, là “thức dâng của cánh đồng lúa bát ngát xanh”... Màu xanh của cốm “như ngọc thạch quý”, là “cái tươi mát của lá non”. Chất ngọt của cốm là “cái dịu dàng, thanh đạm của loài thảo mộc". Khi cốm “nằm ủ” trong lá sen thì “lá cốm sạch sẽ và tinh khiết”. Cốm là “cái lộc của Trời”, là “sự cố sức tiềm tàng và nhẫn nại của thần Lúa"... Thật không có cách gì nói hay hơn, đậm đà hơn cách nói của Thạch Lam.

Tùy bút Một thứ quà của lúa non: Cốm là một tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn chương; nó đã đem đến cho chúng ta bao dư vị và nhã thú, để ta thêm yêu mến, tự hào về hương vị của quê hương xứ sở. Cảm ơn Thạch Lam đã cho ta biết mà thêm phần trân trọng một đặc sản của Hà Nội, đã cho ta hiểu phong cách ăn cốm “ăn từng chút ít, thong thả và ngẫm nghĩ” là một nét dẹp thanh lịch của con người Tràng An xưa, nay. Trang văn Thạch Lam đã làm giàu tâm hồn ta.

18 tháng 11 2017

Việt Nam đất nước ta ơi  Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn Trên mảnh đất Việt Nam, cây lúa - hạt gạo đã trớ thành biêu tượng cho vẻ đẹp kì diệu của mảnh đất và tâm hổn tinh tế của con người. Bằng một tình yêu đằm thắm, nhà thơ Nguyền Đình Thi trong tác phẩm Bài ca Hắc Hải đã ca ngợi đồng lúa, đất trời Việt Nam trong hai câu thơ rất truyền cảm như trên. Trước Nguyễn Đình Thi có một nhà văn, bằng thiên tuỳ bút vãn xuôi cũng đã dành tình yêu và biết bao ngôn từ đẹp như thơ để ca ngợi cây lúa Việt Nam. Đó là Thạch Lam (1910 - 1942) với bài: Một thứ quà của lúa non: Cốm. Cốm là sản vật được tạo nên bởi những hạt lúa nếp non, một sản vật độc đáo của ruộng đồng nhiều miền quê Việt Nam, nhưng không đâu làm ra được loại cốm thơm, dẻo, ngọt ngon bằng làng Vòng, trước kia là ngoại thành, nay thuộc quận Cầu Giấy, nội thành thủ đô nước ta. Xin mời bạn cùng tôi đọc văn Thạch Lam, thưởng thức cốm Vòng - đặc sản Hà Nội, đặc sản Việt Nam. Tuỳ bút là một thể loại văn xuôi miêu tả hình ảnh, ghi chép sự việc, từ đó biểu hiện những suy nghĩ, cảm xúc của tác giả. Tuy gần với văn tự sự, nhưng tuỳ bút thiên về biểu cảm, ngôn ngữ giàu hình ảnh, đậm chất trữ tình. Bài tuỳ bút : Một thứ quà của lúa non : Cốm của Thạch Lam là như thế. Bài văn nói về cốm Vòng Hà Nội bình dị, thanh nhã, bằng một ngòi bút đa dạng, phong phú, lúc miêu tả, khi kể chuyện, vừa tả vừa biểu cảm, vừa kể vừa suy ngẫm, bình luận... Cái tôi trữ tình của nhà văn ẩn sau câu chữ, hoà vào ngôn từ, cuốn theo, trôi nổi chập chờn trong nhạc điệu, thanh sắc của văn chương. Tuy viết theo tuỳ hứng, ngẫu hứng, nhưng bài văn vẫn bố cục mạch lạc. Do dó ta có thể cảm nhận bài văn theo ba đoạn : Đoạn một : Từ đầu đến "... chiếc thuyền rồng". Từ hương thơm của lúa non mùa thu, nhà văn nhớ đến cốm và sự hình thành của cốm Vòng - một thứ quà tinh tuý của thiên nhiên hoà quyện bàn tay khéo léo của người dân làng Vòng. Đoạn hai : Từ "Cốm là thức quà riêng biệt...." đến "... kín đáo và nhũn nhặn". Nhà văn nêu những giá trị của cốm. Bên cạnh trái hồng đỏ, cốm trở thành vật phẩm thanh nhã, trong những sinh hoạt cộng đồng mang thuần phong mĩ tục Việt Nam. Đoạn còn lại: Từ "Cốm không phải thức quà..." đến hết. Nhà văn bàn về cách thưởng thức, cách ăn cốm sao cho tinh tế, nhũn nhặn, phù hợp với những đặc điểm thanh khiết, tao nhã của thứ sản phẩm kết tinh nhiều giá trị của đất trời quê hương nước Việt. Đi vào mỗi đoạn văn, chúng ta hiểu và suy ngẫm, rung cảm được biết bao điếu quý báu. Mở đầu bài tuỳ bút, vào đoạn một, cảm hứng của nhà văn được gợi lcn từ hương thơm của lá sen, đầm sen cuối hè, báo hiệu sang thu, báo mùa về "của thứ quà thanh nhã và tinh khiết". Thứ quà gì, nhà văn chưa nói ngay mà dùng một câu hỏi gợi trí tò mò của người đọc. Từ đó, dẫn chúng ta qua những cánh đồng xanh, nhìn ngắm những hạt thóc nếp trĩu thân, ngửi mùi thơm thoang thoảng của lúa non... Ở đây, nhà văn sử dụng ngòi bút miêu tả kết hợp cảm xúc và suy ngẫm rất tinh tế. Nhiều tính từ, động từ gợi tả nối nhau xuất hiện : nhuần thấm, thanh nhã, tinh khiết, thơm mát, trắng thơm, phảng phất, trong sạch... Mắt quan sát, mũi cảm nhận, tâm hồn đắm say của người nghệ sĩ khiến cho những hạt sữa của bông lúa, tiền thân của cốm được liên tường và đánh giá bằng những hình ảnh đẹp, cao quý làm sao. Nào là thức quà thanh nhã vù tinh khiết. Nào là hương vị ngàn hoa cỏ, chất quỷ trong sạch của trời. Hạt cốm chưa hoài thai mà đã được giới thiệu bằng biết bao lời vãn đẹp như thơ vậy. Do đó, ở đoạn ngắn tiếp theo, nhà văn chỉ nói sơ qua về cách làm cốm, giới thiệu sơ qua về những cô gái làng Vòng quẩy gánh cốm bán trên các phố phường Hà Nội, người đọc cũng đã thấy khát khao được nhìn ngắm, chiêm ngưỡng, chứ chưa dám ước được ăn cốm. Đó vừa là thứ quà tinh khiết của đất trời, vừa là những hạt lúa nếp non trắng như sữa được nhào nặn, hoá thân trong bàn tay khéo, trong dáng hình xinh xinh thơ mộng và nhất là trong đức tính cần cù đầy sáng tạo của người dân quê Hà Nội xưa. Nhà văn viết: cốm là quà của lúa non. Nhưng qua đoạn một của thiên tuỳ bút, chúng ta hiểu rằng cốm là báu vật hoà quyện hương trời, sữa lúa và tài năng, tâm hổn người nông dân Việt Nam, người nghệ sĩ chân lấm tay bùn Việt Nam. Nếu ai được đọc thêm bài Cốm, cũng thuộc thể văn tuỳ bút do nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1973, sẽ cảm nhận rõ thêm quá trinh vật vã, gian khổ của hạt lúa non để thành hạt cốm. Nhưng hẹn dịp khác. Bây giờ ta hãy trở lại với Thạch Lam. Sang đoạn thứ hai, nhà văn tiếp tục cảm nhận, đánh giá rồi miêu tả những vẻ đẹp của cốm. Ông gọi cốm là "quà riêng biệt" là "thức dâng của những cánh đồng lúa bát ngát". Cốm "mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quệ nội cỏ An Nam". Cốm dùng làm quà sêu tết với sự "vương vít của tơ hồng"... Cốm còn đẹp hơn nữa, duyên hơn nữa khi gặp gỡ và vương vít với những trái hồng chín. Nhà văn đã dùng bao nhiêu ý hay, lời đẹp để so sánh, miêu tả cặp bạn bè "tốt đôi" giữa cốm và hồng. "Màu xanh tươi của cốm như ngọc thạch quý, màu đỏ thám của hổng như ngọc lựu già. Một thứ thanh đạm, một thứ ngọt sắc, hai vị nâng đỡ nhau đe hạnh phúc được lâu bền". Đúng là một đoạn thơ bằng văn xuôi, đã nâng giá trị của cốm, thứ quà đồng quê lên tầm ngọc quý biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi, góp phần vun xới cho biết bao đôi lứa Việt Nam bền lâu, chung thuỷ. Những suy ngẫm của chúng ta về vẻ đẹp và giá trị của cốm sau đoạn một đã dược Thạch Lam minh hoạ bằng những câu văn bình luận đẫm chất trữ tình. Ông không chỉ trân trọng hạt cốm mà còn trân trọng cả những tập quán có tính truyền thống mang bản sắc văn hoá Việt Nam. Lời văn và ý tưởng của ông cách chúng ta hơn nửa thế kỉ mà vẫn nóng hổi tính thời sự, nhất là mấy câu ông viết trong ngoặc dơn, ngỡ như chỉ điểm xuyết tình cờ mà biết bao day dứt có ý nghĩa cảnh tỉnh nghiêm khắc : "Thật đáng tiếc... những thức quý của đất mình thay dần bằng những thức bóng bảy hào nhoáng và thô kệch bắt chước người ngoài...". Nếu ở doạn thứ nhất, ngòi bút nhà văn vừa miêu tả vừa biểu cảm, thì đến đoạn thứ hai này vẫn vừa tả vừa biểu cảm, nhưng bổ sung thêm một chút bình luận. Tuỳ bút là như thế, ngòi bút nhà văn vừa ngẫu hứng trôi theo cảm xúc nhưng vẫn lắng sâu những suy luận, triết lí, thơ và văn xuôi hài hoà, mạch văn thông thoáng mà vẫn tập trung vào chủ đề... Đến đoạn văn cuối, chất luỳ bút tiếp nối. Ngòi bút Thạch Lam vừa tiếp tục ca ngợi vẻ dẹp và giá trị của cốm, vừa bình luận, nhắn gửi bạn đọc về cách thưởng thức, cách ăn cốm. "Cốm không phải thức quà của người ăn vội ; ăn cốm phải ăn từng chút ít, thong thả và ngẫm nghĩ...". Đoạn văn mở đầu bằng câu chốt như thế. Ý tưởng và cảm xúc của tác giả tập trung ở cụm từ "ăn cốm phải ... thong thả và ngẫm nghĩ". Vì sao thế ? Vì cốm chứa trong nó sự tinh tuý của hương sen mang thêm mùi ngan ngát của hoa sen, của đầm nước và được chào mời bời cô gái làng Vòng có đôi tay mềm mại "giờ từng lớp lá sen, chúng ta thấy hiện ra từng "lá cốm" sạch sẽ và tinh khiết, không có mảy may một chút bụi nào". Cốm Vòng Hà Nội mang tinh hoa của đất Tràng An thanh lịch như thế không thể chấp nhận bất cứ cách đối xử thô bạo, tầm thường, thiếu thanh lịch nào! Thạch Lam nâng niu từng từ ngữ, trau chuốt từng câu văn mà ờ đó mỗi từ, mỗi câu còn vương mùi thơm thoang thoảng tinh khôi, thanh đạm của thứ quà đặc sản thủ đô. Do đó, nghe lời căn dặn về cách ăn cốm của nhà văn, chúng ta dễ dàng đồng tình và thầm hứa với nhà văn sẽ làm như vậy "Hãy nhẹ nhàng mà nâng đỡ... Phải nên kính trọng cái lộc của Trời, cái khéo léo của níĩười, và sự cố sức tiềm tàng và nhẫn nại của thần Lúa..." để con người "được trang nhã và đẹp đẽ hơn...". Với Thạch Lam, ăn cốm là thưởng thức những giá trị kết tinh của bao nhiêu báu vật trên đất trời Việt Nam. Đấy là cái nhìn văn hoá của cách ăn uống, chúng ta gọi là văn hoá ẩm thực. Đấy cũng là tình yêu và niềm tự hào của nhà văn đối với quê hương, đồng ruộng, cây lúa và con người Việt Nam nói chung, mảnh đất và con người Hà Nội nói riêng. Tuy chưa được ăn cốm, nhưng lúc đọc vãn Thạch Lam, chúng ta như đang được thướng thức thứ quà tinh khiết, thanh cao, quà của lúa non, quà của bàn tay lao động và quà ngôn ngữ tiếng Việt rất tinh tế, tài hoa trong thiên tuỳ bút. Văn Thạch Lam cũng là một loại cốm dịu dàng, thanh đạm của tâm hồn người nghệ sĩ Việt Nam, những giọt sữa tinh khiết của tiếng Việt chúng ta... "Cốm là thức quà riêng biệt của đất nước, là thức dâng của những cánh đồng lúa bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ...". Xin hãy đọc lại và ghi nhớ câu văn đặc sắc ấy của bài tuỳ bút. Và xin hãy mãi mãi biết ơn nhà văn Thạch Lam, bới vì, bằng sự tinh tế và tấm lòng trân trọng, nhà văn đã phát hiện được nét đẹp văn hoá dân tộc trong thử quà giản dị mà dặc sắc : Cốm Vòng - đặc sản Hà Nội, đặc sản Việt Nam. 
tk cho mình nhé

12 tháng 3 2019

                                                                         Bài làm

Tôi có đọc của nhà thơ Giang Nam, có đoạn tôi rất thích:

Thủa còn thơ ngày hai buổi đến trường.

Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ Ai bảo chăn trâu là khổ?

Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao.

Có những ngày trốn học

Đuổi bướm cạnh cầu ao

Mẹ bát được, chưa đánh roi nào đã khóc.

Đọc đoạn thơ tôi gặp tình yêu quê hương của Giang Nam và tôi đồng cảm về những kỉ niệm thời ấu thơ. Viết về tình yêu quê hương, mỗi người có một cách biểu hiện. Qua ngòi bút của Thạch Lam trong bài Một thứ quà của lúa non: cốm và ngòi bút của Vũ Bằng trong bài Mùa xuân của tôi ta có thể nhận ra chỗ hay nhất của những áng văn xuôi ấy là tâm tình sâu nặng thiết tha với quê hương, đất nước”.

Trước hết, “tâm tình sâu nặng thiết tha với quê hương đất nước” được Thạch Lam gửi gắm trong cảm giác nhẹ nhàng, tinh tế, trong lành về mùa cốm. Từ khứu giác thoáng đi qua đầm sen hay đồng lúa vàng, Thạch Lam đã nhớ cốm và cảm nhận bước chân mùa côm đang trở về.

“Cơn gió mùa hạ lướt qua vừng sen trên hồ, nhuần thấm cái hương tham của lá, như báo trước mùa về của một thức quà thanh nhã và tinh khiết”.

Có ai miêu tả được hay và đúng về lúa nếp non được chọn để làm cốm như Thạch Lam không?

“Trong cái vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ... bông lúa càng ngày càng cong xuống, nặng vì cái chất quý trong sạch của Trời”.

Thạch Lam đã giới thiệu làng làm côm nổi tiếng 36 phố phường qua “Tiếng cốm Vòng đã lan khắp tất cả ba kì”, và hình ảnh về làng cốm và thức quà ấy được xuất hiện bằng hình ảnh “cô hàng cốm xinh xinh... cái đòn gánh hai đầu cong vút lèn như chiếc thuyền rồng”.

Nhà văn - với lòng yêu đất Mẹ đằm thắm, đã khẳng định: “Cốm là thức quà riêng biệt của đất nước, là thức dâng của những cánh đồng lúa bát ngát xanh, mang hương vị mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ An Nam. ”

Thật đẹp làm sao, thức quà giản dị đã trở thành món nghi lễ quen thuộc trong đời sông người Việt, mang về một nét văn hóa đẹp khi “cốm để làm quà sêu Tết”, “sự vương vít của tơ hồng”, “thức quà trong sạch, trung thành như các việc lễ nghi”.

Nét văn hóa của dân tộc biểu hiện trong thức quà cốm còn được Thạch Lam chỉ dẫn ở cách ẩm thực cụ thể:

ăn cốm phải ăn từng chút ít, thong thả và ngẫm nghĩ”.Bởi vì không phải là “ăn cốm”, mà là “thưởng thức cốm”. Để khi ăn có thể cảm nhận “mùi tham phức của lúa mới, của hoa cỏ dại,... cái chất ngọt của cốm, cái thanh đạm của loài thảo mộc... ”. Và từ cảm nhận ấy, không thể quên được cái tình của lúa, của quê, của quê hương đất nước.

Khi gần quê hương, hạnh phúc là được thưởng thức sản vật quê hương để tình quê hương thêm mặn nồng. Nhưng đối với người con xa quê được nhớ quê là một điều hạnh phúc. Ta hãy cảm động lắng nghe Vũ Bằng nhớ về mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân Hà Nội với tâm tình sâu nặng thiết tha khi ông hoạt động ở miền Nam, trong vòng kiểm soát của kẻ thù.

Đầu tiên, nhà văn nghĩ về cái tình yêu, nỗi nhớ tự nhiên, rất con người của mình vì “Ai bảo... bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cẩm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con, ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng”. Bằng một loạt so sánh như thế để khẳng định nỗi nhớ, niềm yêu rất người của mình.

Chúng ta đọc văn của Vũ Bằng, ta cũng xúc. động nao nao nhớ Hà Nội, như gặp một kỉ niệm nào trong bài viết của ông. Ôi cái “mưa riêu riêu, gió lành lạnh, tiếng chim nhạn kêu... tiếng trống chèo... câu hát của cô gái... ” làm sao không rung động nỗi lòng.

Chân thật và thú vị biết bao cái nỗi nhớ kỉ niệm “khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu, mở cửa đi ra ngoài... thấy cái thú giang hồ... không uống rượu mạnh mà lòng say sưa một cái gi đó - có lẽ là sự sống”.

Mùa xuân làm cho con người trẻ ra, yêu đời, ham hoạt động, ham sông nhiều hơn, thấy yêu thương con người nhiều hơn.

Xúc dộng nhất là chi tiết về nỗi nhớ không khí gia đình vào những ngày Tết “Nhang trầm, đèn nến... bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm” ai không xúc cảm. Xa quê vào giờ này, ai chẳng khóc như con trẻ. Tình yêu quê hương là thế đấy.

Nhà văn còn rất sâu sắc khi nhắc đến cảm giác của những ngày sau Tết, cuối xuân, sắp chuyển sang đầu hè. Con người Hà Nội thưởng thức “bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng”, để mà nhó' quê hương da diết.

Dù xuân đã hết, người xa quê yêu cả những ngày thường nhật, giản dị, êm đềm của quê hương.

Cảm ơn hai nhà văn Thạch Lam và Vũ Bằng. Chỉ bằng một thức quà quê bình dị, chỉ bằng những kỉ niệm chân thật, mộc mạc của một người con xa quê, các tác giả đã gửi cả tấm tình sâu nặng với quê hương đất nước Việt Nam của chúng ta. Đọc và hiểu hai văn bản trên, em thấy yêu gia đình, yêu quê hương, yêu mảnh đất này hơn bao giờ hết.

Thạch Lam- nhà văn với quan niệm: cái đẹp man mác khắp vũ trụ luôn kiếm tìm những vẻ đẹp bình dị, nhỏ bé mà lẫn khuất đâu đó trong cuộc sống này. Đến với tập tùy bút "Hà Nội băm sáu phố phường" của ông, ta như thấy hiển hiện trước mắt dáng hình của một Hà Nội xưa cũ thuở nào. Đó là những chuyện phố, chuyện phường, chuyện đời sống dân sinh, đặc biệt là những thức quà bình dị quen thuộc chỉ nơi đây mới có. "Một thứ quà của lúa non: cốm" là một sáng tác tiêu biểu trong tập tùy bút ấy.

Mở đầu bài tùy bút, cảm hứng của nhà văn được khơi gợi và dẫn dắt từ cơn gió mùa thu hạ, từ vùng sen bên hồ. Những dấu hiệu đặc trưng của mùa thu ấy báo hiệu mùa về của "một thức quà thanh nhã và tinh khiết". Lời văn kéo người đọc trở về với không gian của mùa thu, với hương đồng gió nội và bao thức quà quen thuộc của làng quê bình dị. Nhưng thức quà gì thì chưa rõ, nhà văn để người đọc tự tưởng tượng và đoán định ra. Qua ngòi bút của nhà văn, ta như cảm nhận được "cái mùi thơm mát" phảng phất "hương vị mùi hoa cỏ" của bông lúa nếp non đầu mùa. Cội nguồn, gốc rễ của cốm được nhà văn miêu tả và cảm nhận bằng một thái độ vô cùng nâng niu, trân trọng, thể hiện sự quan sát tinh tế cùng tâm hồn nhạy cảm, đắm say của người nghệ sĩ. Thạch Lam tiếp tục dẫn dắt người đọc thưởng thức sự tài hoa, khéo léo của những đôi bàn tay làm nên cốm làng Vòng. Nhà văn không miêu tả kĩ lưỡng nhưng đủ để chúng ta hình dung ra sự vất vả, công phu khi làm ra thức quà quê ấy. Và cùng với cốm, hình ảnh những "cô hàng cốm xinh xinh, áo quần gọn ghẽ" hiện ra trong sự thân thương, trìu mến.

Mạch cảm xúc của nhà văn chuyển từ tiền thân và sự hình thành của cốm đến giá trị của nó. Nhà văn không tiếc lời ca ngợi cốm: "Cốm là thức quà đặc biệt riêng của đất nước, là thức dâng của những cánh đồng lúa bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ Việt Nam". Thứ quà đồng quê đã được nâng tầm trở thành bản sắc của dân tộc Việt Nam, biểu tượng cho hạnh phúc mãi mãi bền lâu của đôi lứa. Những lời bình luận của Thạch Lam giúp cho ta hiểu sâu sắc hơn về một phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc: dùng cốm làm quà siêu tết, trong các lễ nghi. Trân trọng những truyền thống ấy, ông nhẹ nhàng phê phán những kẻ học đòi kệch cỡm đang làm mất dần đi giá trị của cốm và bắt chước người người ngoài.

Kết thúc bài tùy bút, nhà văn chia sẻ với người đọc về cách ăn và thưởng thức cốm: "Cốm không phải là thức quà của người vội; ăn cốm phải ăn từng chút ít, thong thả và ngẫm nghĩ". Ăn cốm đã được Thạch Lam nâng lên tầm nghệ thuật. Thưởng thức cốm để cảm nhận "mùi thơm phức của lúa mới, của hoa cỏ dại ven bờ". Cốm là kết tinh của bao nhiêu sản vật làng quê Việt Nam, vậy nên "phải kính trọng cái lộc của Trời, cái khéo léo của người, và sự cố tiềm tàng và nhẫn nại của thần lúa". Đó là lời đề nghị chân thành, tha thiết của một tâm hồn gắn bó sâu nặng với những sản vật của quê hương, với những nét đẹp bình dị của mảnh đất kinh kì thuở xưa.

Bằng tâm hồn nhạy cảm và tấm lòng nâng niu trân trọng những sản vật quê hương, nhà văn đã phát hiện được nét đẹp của văn hóa dân tộc qua: cốm- thứ quà quê bình dị, dân dã. Cốm không chỉ là thức quà riêng người Hà Nội mới có mỗi khi thu đến, nó đã gói gọn cả tâm hồn của mảnh đất kinh kì cũng như của biết bao con người Việt Nam.

---Hok tốt nhe!!---

---bạn ơi ấn cho mình nè!!!!---