Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Dẫn chứng 1: Trong đời sống hằng ngày, con người cần học và làm theo ý nghĩa câu tục ngữ để phát triển khả năng về giao tiếp.....
Dẫn chứng 2: Nhờ có tục ngữ mà con người giữ được phẩm chất ốt đẹp nhất, hình thành nên con người có học....
Dẫn chứng 3: Tục ngữ không chỉ dạy con người về cách sống mà con dạy con người áp dụng vào lao động, sản xuất...
Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã từng nói " Dân ta có một lòng yêu nước nồng nàn , đó là truyền thống quý báu của ta " Lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta đã chứng minh điều đó . Thật vậy, từ thời các Vua Hùng dựng nước bà giữ nước , tới thời bà Trưng bà triệu lòng yêu nước đã giúp dân ta đánh đuổi giặc Trung Quốc, bảo vệ độc lập dân tộc . Và hơn thế, trong thời kì kháng chiến chống pháp, chống mỹ , tinh thần yêu nước , sự đòan kết ấy lại sôi sục , hợp lại tạo thành sức mạnh Đại Đoàn Kết toàn dân, tòn bộ dân tộc Việt Nam là một, quyết đem tính mạng của cải để đánh đuổi giặc ngoại xâm , bảo vệ bờ cõi . Tinh thần ấy thật đáng khâm phục. Thật đáng tự hào !
tham khảo:
Cũng như hàng triệu người dân Việt Nam khác, trong trái tim em luôn nồng nàn một tình yêu tổ quốc. Với tình yêu ấy, em vâng theo lời dạy của Bác Hồ, cố gắng học tập, rèn luyện để lớn lên góp sức dựng xây đất nước. Em cảm thấy tự hào về lịch sử nước nhà, về những chiến tích phát triển của đất nước ngày hôm nay. Em luôn khát khao cùng các bạn trẻ khác đưa đất nước vươn tầm quốc tế. Những lần bắt gặp hình ảnh xâm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam trên internet, em luôn cùng các bạn mình vào phản biển lại để chứng minh cho bạn bè quốc tế thấy được. Hành động ấy và sự đoàn kết của mọi người khiến em cảm thấy vui sướng lắm. Bởi cũng như em, thế hệ trẻ ngày hôm nay đã biết nối bước cha ông, tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước.
Là con người VN, em cảm thấy rất tự hào về quê hương đất nước của mình. Việt Nam là những câu dân ca, con người cần cù chăm chỉ chịu thương chịu khó. Không chỉ con người thiên nhiên đất trời vẻ đẹp hiếm có. Núi cao hùng vĩ là biểu tượng của sức mạnh nhân dân Việt Nam. Không thể thiếu đó là cánh đồng lúa bát ngát, nhờ đôi bàn tay khéo láo của người nhân Việt. Những dòng sông buổi chiều hạ , chiều thu lặng lẽ ngược dòng trôi. Nhắc đến quê hương mình, không thể thiếu những lũy tre làng đầu đình. Tre là biểu tượng sức mạnh , đoàn kết của nhân dân Việt Nam.
Quê hương là nơi chôn rau cắt rốn, là nơi thân thương cùng ta lớn lên và trưởng thành với những trò chơi dân gian hay những câu truyện cổ tích ngày xưa.
"
Ai về Phú Thọ cùng ta
Vui ngày giỗ tổ tháng ba mồng mười
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba
Bạch Đằng giang là sông cửa ải
Tống Hà Nam là bãi chiến trường.
Ai về Hậu Lộc, Phú Điền
Nhớ đây bà Triệu trận tiền xung phong."
Còn rất nhiều những câu ca dao hay nói về đức tính tinh thần của người dân Việt Nam. Biết không? quê hương em còn có Chủ Tịch Hồ Chí Minh người được nhân dân muôn vàn kính yêu, cả đời ghi nhớ công lao không bao giờ quên. Vẻ đẹp non sông đất nước quê hương em có đóa sen hồng nở trong đầm bùn nhưng nó không bao giờ hôi tanh mà nó còn mang thêm một vẻ đẹp kì diệu của người con gái mặc tà dài ngồi bên những khóm hoa sen. Ôi chao! Những cảnh tượng ấy khiến em không thể nào quên kể cả khi đi đâu đó xa.
Cha mẹ dạy lớn lên đừng quên quê hương của mình, hãy tự hào vì mình là con người Việt Nam hãy tự hào rằng quê hương của mình là một đất nước giàu mạnh. Em yêu quê hương đất nước và cả những con người Việt Nam. Em tự hào vì mình là một công nhân Việt Nam
Chúc bạn học tốt!
Hình ảnh quê hương đất nước in dấu đậm đà trong ca dao, dân ca. Đọc ca dao, dân ca, ta cảm thấy tâm hồn nhân dân ôm trọn bóng hình quê hương đất nước. Mỗi vùng quê có một cách nói riêng, cảm nhận riêng về sự giàu đẹp của nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Đọc những bài ca ấy, chúng ta như vừa được đi tham quan một số danh lam thắng cảnh đặc sắc của đất nước từ Bắc vào Nam.
Với nhân dân ta, quê hương là nơi quê cha đất mẹ, là cái nôi thân thiết, yêu thương. Quê hương là mái nhà, luỹ tre, cái ao tắm mát, là sân đình, cây đa, giếng nước, con đò, là cánh đồng xanh, con cò trắng, cánh diều biếc tuổi thơ. Đất nước với quê hương chỉ là một, là cơ đồ ông cha để lại, là núi sông hùng vĩ thiêng liêng. Quê hương đất nước được nói đến trong ca dao, dân ca đã thể hiện biết bao tình cảm yêu thương, tự hào của nhân dân ta từ bao đời nay.
Đất nước ta nơi nào cũng đẹp. Cảnh trí non sông như gấm như hoa; sản phẩm phong phú, con người cần cù, thông minh sáng tạo đã xây dựng quê hương đất nước ngày thêm giàu đẹp.
tình yêu quê hương đất nước vô cùng phong phú và gợi cảm. Mỗi chôn quê là một bức tranh đẹp nên thơ. Mến thương, tự hào, thương nhớ là những tình cảm sâu nặng của nhân dân ta gửi gắm qua những vần ca đao ngọt ngào sâu lắng về đất nước quê hương.
Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã viết:
Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu...?
Hình ảnh quê hương đất nước trong ca dao dân ca đã giúp ta hiểu sâu ý thơ trên. Ca dao dân ca như dòng sữa ngọt nuôi dưỡng tâm hồn ta. Ta cảm thấy tâm hồn mình lớn lên cùng đất nước quê hương, cùng ca dao dân ca.
tham khảo
Quê hương em – Quảng Ngãi, một vùng đất hẹp miền Trung, mặt hướng ra biển Đông mênh mông, bát ngát; lưng tựa vào dãy Trường Sơn hùng vĩ. Thiên nhiên ở đây đã tạo cho vùng đất miền núi Ấn sông Trà này những cảnh đẹp nổi tiếng như: Thiên Ấn niêm hà, Thiên Bút phê vân, Long đầu hí thủy, Thạch Bích tà dương,…đã từng làm say lòng nhà thơ Chu Mạnh Trinh, khiến ông đã viết nên mười hai bài thơ vịnh cảnh đẹp nơi đây.
Được sinh ra và lớn lên nơi đây, em như cảm nhận được cái chất ngọt ngào của cây mía đã từ bao đời chọn nơi đây làm quê hương. Khí thiêng sông núi đã tạo cho vùng đất này biết bao nhân vật nổi tiếng trong lịch sử như Lê Văn Duyệt, Trương Định, Trương Đăng Quế, Lê Trung Đình, Phạm Văn Đồng…Đây cũng là quê hương của những thi sĩ đã đi vào thơ ca của dân tộc như Tế Hanh, Bích Khê,…
Ai về quê hương em sẽ có dịp đến Thạch Bích để ngắm cảnh chiều về trên sông Trà Khúc thật mơ màng, làm say đắm lòng người. Đến núi Thiên Ấn, một hòn núi vương vức nằm bên sông Trà Khúc trông như một chiếc ấn trời đóng trên sông. Khi đi ta sẽ cảm nhận được cái vẻ đẹp vừa tráng lệ, vừa nên thơ, trữ tình:
Xem thêm: Kể lại kỉ niệm những ngày đầu đi học lớp 8 và buổi đầu tiên đi học lớp 1
Vuông vức ai xây ngó cũng tình
Càng lên cao mới thấy càng xinh
Đứng trên đỉnh núi, trông ra bốn hướng ta sẽ nhìn thấy mênh mông đồng ruộng, cỏ cây, sông nước, làng mạc chập chùng ẩn hiện dưới khói sương huyền ảo, trông như một cảnh tiên. Ở đây còn có một ngôi chùa cổ kính, uy nghiêm, có kiến trúc độc đáo. Đặc biệt là cạnh ngôi chùa này có một cái giếng sâu gần 100m, và ta sẽ nghe các vị sư kể về truyền thuyết cái giếng Phật ấy:
Có thầy đào giếng trên non
Đến khi có nước không còn tăm hơi
Từ núi Thiên Ấn, xuôi về Sơn Mĩ, ta sẽ ghé thăm nhà chứng tích Sơn Mĩ để có dịp nhìn rõ tội ác của đế quốc Mĩ đối với nhân dân ta trong cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo của chúng. Nơi đây, chúng ta sẽ tận mắt chứng kiến cái mương nước mà lính Mĩ đã bắn chết 668 người mà hầu hết là người già, đàn bà, trẻ em. Chúng ta sẽ không cầm được nước mắt khi nghe lời thuyết minh đầy xúc cảm của cô hướng dẫn viên khu du tích này trong vụ thảm sát đó. Lắng lại bao nỗi đau, chúng ta tiếp tục cuộc hành trình về bãi biển Mỹ Khê, một bãi biển sạch và đẹp nhất nước, với nước trong xanh và bờ cát trắng thoai thoải chạy đến hút tầm mắt. Bên bờ biển là cả một rừng dương quanh năm hát lời ru với sóng.
– Nguyễn Dữ sống vào khoảng thế kỉ XVI, quê ở Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Ông nổi tiếng học rộng, tài cao.
– “Chuyện người con gái Nam Xương” rút trong tác phẩm “Truyền kì mạn lục“, áng văn xuôi viết bằng chữ Hán của Nguyễn Dữ trong thế kỉ 16 – một kiệt tác văn chương cổ được ca ngợi là “thiên cổ kì bút“. Tác phẩm không chỉ phản ánh số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến mà còn khẳng định vẻ đẹp truyền thống đáng quý của họ.
1
Giới thiệu chung:
– Nguyễn Dữ sống vào khoảng thế kỉ XVI, quê ở Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Ông nổi tiếng học rộng, tài cao.
– “Chuyện người con gái Nam Xương” rút trong tác phẩm “Truyền kì mạn lục“, áng văn xuôi viết bằng chữ Hán của Nguyễn Dữ trong thế kỉ 16 – một kiệt tác văn chương cổ được ca ngợi là “thiên cổ kì bút“. Tác phẩm không chỉ phản ánh số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến mà còn khẳng định vẻ đẹp truyền thống đáng quý của họ.
2Phân tích nhân vật Vũ Nương để làm sáng tỏ nhận định:
aSố phận bất hạnh:
* Phải sống trong nỗi cô đơn, vất vả:
– Nỗi vất vả của Vũ Nương: Một mình gánh vác gia đình, nuôi dạy con thơ, chăm sóc mẹ già.
– Nỗi cô đơn tinh thần (phải vượt lên):
+ Cảnh sống lẻ loi.
+ Nỗi nhớ thương khắc khoải.
+ Nỗi lo lắng cho chồng đang chinh chiến nơi xa.
* Phải gánh chịu nỗi oan lạ lùng và phải tìm đến cái chết:
– Nguyên nhân (của nỗi oan):
+ Do lời nói ngây thơ của bé Đản.
+ Do Trường Sinh vốn đa nghi, hay ghen lại đang buồn vì mẹ mất.
+ Do chiến tranh gây ra 3 năm xa cách, niềm tin vào Vũ Nương ị thử thách, bị lung lay.
+ Có thể do cuộc hôn nhân bất bình đẳng giữa Vũ Nương và Trường Sinh, do xã hội phong kiến trọng nam, khinh nữ cho phép Trường Sinh được đối xử rẻ rúng, tàn tệ với vợ mình.
– Hậu quả (của nỗi oan):
+ Trường Sinh nghi ngờ, gạt đi lời thanh minh của Vũ Nương, mắng nhiếc, đánh đuổi Vũ Nương đi.
+ Cùng đường Vũ Nương nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tận. Đây là phản ứng dữ dội, quyết liệt của Vũ Nương để bảo vệ nhân phẩm nhưng cũng là cho thấy nỗi bất hạnh tột cùng của nàng.
* Phải sống không hạnh phúc thực sự dưới thủy cung:
– Vũ Nương tuy được cứu sống, sống bất tử, giàu sang, đã được minh oan trên bến Hoàng Giang nhưng nàng không hạnh phúc thực sự:
+ Vẫn nhớ thương gia đình.
+ Vẫn mong trở về dương thế mà không thể.
=> Nhận xét: Số phận Vũ Nương tiêu biểu cho phận bạc của biết bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến bất công, tàn bạo, nặng nề lễ giáo, hà khắc.
bVẻ đẹp của Vũ Nương:
* Mang vẻ đẹp toàn vẹn nhất của người phụ nữ xã hội phong kiến.
– Chi tiết Trường Sinh xin mẹ “đem 100 lạng vàng cưới về” càng tô đậm hơn vẻ đẹp nhan sắc, phẩm chất của nàng.
* Là người vợ, người mẹ đảm đang, người con dâu hiếu thảo:
– Đảm đang (khi chồng đi lính):
+ Một mình gánh vác gia đình.
+ Chăm sóc mẹ chồng già yếu.
+ Nuôi dạy con thơ.
– Hiếu thảo (khi mẹ chồng ốm):
+ Nàng hết lòng chăm sóc như với cha mẹ đẻ của mình (cơm cháo, thuốc thang, an ủi…)
+ Lễ bái thần phật cầu cho bà tai qua, nạn khỏi.
+ Lời trăng trối của bà trước khi mất đã khẳng định lòng hiếu thảo, tình cảm chân thành của Vũ Nương. (phút lâm chung bà cảm tạ công lao của nàng -> mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu của xã hội phong kiến xưa thường chỉ mang tính chất ràng buộc của lễ giáo phong kiến. Những lời cảm tạ của bà mẹ đã cho thấy Vũ Nương yêu thương bà thực lòng nên bà cũng yêu quý, biết ơn nàng thực lòng như vậy)
+ Bà mất: nàng lo tang ma chu đáo.
* Là người vợ nết na, thủy chung, giàu lòng vị tha:
– Nết na, thủy chung:
+ Khi mới cưới: nàng hết sức giữ gìn khuôn phép.
+ Ngày tiễn chồng ra trận, trong lời từ biệt ta thấy nàng không màng công danh phú quý, chỉ mong chồng trở về bình yên.
+ Ba năm xa chồng, Vũ Nương buồn nhớ khôn nguôi, nàng bỏ cả điểm trang, toàn tâm toàn ý chăm sóc gia đình, làm tròn bổn phận của người vợ, người mẹ trong gia đình.
+ Thậm chí, ngày Trường Sinh trở về, bị nghi ngờ, Vũ Nương chỉ biết khóc rồi thanh minh bằng những lời lẽ tha thiết, dịu dàng.
=> Tấm lòng son sắt, thủy chung sáng ngời của nàng.
– Giàu lòng vị tha:
+ Khi bị chồng đổ oan, mắng nhiếc, đánh đuổi đi, Vũ Nương chỉ đau khổ, thanh minh mà chẳng hề oán hận, căm ghét chồng. Nàng vẫn bao dung với người chồng hẹp hòi, ích kỉ.
+ Sống dưới thủy cung nàng vẫn một lòng nhớ thương gia đình, quê hương. Việc nàng gửi vật làm tin chứng tỏ nàng vẫn sẵn sàng tha thứ cho chồng.
+ Khoảnh khắc gặp lại Vũ Nương không trách móc mà còn hết lời cảm tạ Trường Sinh. Lời nói ấy cho thấy Vũ Nương hoàn toàn tha thứ cho chồng. Trường Sinh đã được giải thoát khỏi nỗi ân hận, day dứt vì sự hàm hồ, hẹp hòi, tàn nhẫn của mình.
=> Nhận xét: Vũ Nương trở thành hiện thân cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam thảo hiền, đức hạnh.
3Đánh giá:
– Bằng việc xây dựng tình huống truyện độc đáo – xoay quanh sự ngộ nhận, hiểu lầm lời nói của bé Đản; nghệ thuật kể chuyện đặc sắc, kết hợp hài hòa yếu tố hiện thực và kì ảo; khắc họa nhân vật thông qua lời nói trần thuật, lời thoại; hành động…; Nguyễn Dữ đã xây dựng thành công nhân vật Vũ Nương – một điển hình cho số phận và vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
– Qua đó, bày tỏ niềm trân trọng và cảm thương sâu sắc, tiếng nói bênh vực người phụ nữ trong xã hội xưa; tố cáo xã hội phong kiến nam quyền, nhiều lễ giáo hà khắc, tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã đẩy người phụ nữ vào những bi kịch đớn đau.