Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
-Ai về Phú Thọ cùng ta,
Vui ngày giỗ Tổ tháng ba mùng mười.
Dù ai đi ngựợc về xuôi,
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba.
-Sông Thao nước đục người đen,
Ai lên phố Én cũng quên đường về.
-Ai làm cái nón có thao
Để cho anh thấy cô nào cũng xinh !
-Chạp đốn đau, giêng mau hái
-Nhất sòng Cao xá
Nhất rá Kẻ Rền
Nhất đền Hùng Vương
Nhất hương Sơn Thị
_Chợ trâu Hoàng Xá, chợ cá La Phù
- Trâu chợ Bù Nọ, cọ chợ Trúc Phê
-Sông Thao nước đỏ như son,
Người đi có nhớ nước non quê mình?
-Bưới Chí Đám Quýt Đan Hà
Cà phê Phú Hộ, đồi trà Thái Ninh
-Tháng Ba nô nức hội Đền
Là ngày giỗ Tổ bốn nghìn năm nay
1,Nước sông pha lẫn nước đồng
Con gái Phú Thọ đánh chồng cả đêm
2,Ai ơi mua dó khó lòng,
Không đi lên Ẻn thì mong nỗi gì.
3,Ai về Phú Thọ cùng ta,
Vui ngày giỗ tổ tháng ba mùng mười.
Dù ai đi ngược về xuôi,
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba.
3,Gắng công kén hộ cốm Vòng,
Kén chồng Bạch Hạc cho lòng ai vui.
4,Làng Ẻn cất ma,
Sơn Nga chống gậy.
5,Mưa từ Ba Dội mưa ra,
Mưa khắp thiên hạ, mưa qua Đồn Vàng.
Gió đưa quanh đưa về Hùng Nhĩ,
Bây giờ đây anh nghĩ làm sao?
Trận này rồng cá kết giao.
5,Mưa từ Hùng Nhĩ mưa ra,
Mưa khắp thiên hạ, mưa ra bến Tuần.
Nước sông Rân chảy về dồi dội,
Lòng em bối rối chờ đợi lấy anh.
Trận này nức tiếng thơm danh.
6,Sông Thao nước đục người đen,
Ai lên phố Ẻn cũng quên đường về.
7, Chợ trâu Hoàng Xá, chợ cá La Phù
8, Trâu chợ Bù Nọ, cọ chợ Trúc Phê
9, Sông Thao nước đỏ như son,
Người đi có nhớ nước non quê mình?
10,Ai làm cái nón có thao
Để cho anh thấy cô nào cũng xinh !
11, Chạp đốn đau, giêng mau hái.
12,Nhất sòng Cao xá
Nhất rá Kẻ Rền
Nhất đền Hùng Vương
13,Bưới Chí Đám Quýt Đan Hà
Cà phê Phú Hộ, đồi trà Thái Ninh
14,Tháng Ba nô nức hội Đền
Là ngày giỗ Tổ bốn nghìn năm nay
15, Dong Mơ, Cọ Khống
16,Lau Tạ Xá, lá Phú Khê
17,Cơm đồng Á, cá Đồng Vầy
có môt số câu hơi ... =>
1. Dù ai đi ngược về xuôi
Váy ngắn quá gối là người Văn Lang
2. Văn Lang có một con lươn
Thịt thì nướng chả còn xương đẽo cày.
3. Em lên rừng
Em bứt quả bứa chua
Em xuống khe
Em bắt cái ốc lặn, cùng cái ốc lội
Em tra vào giỏ
Em bỏ vào thời
Em “vê nó màng”
Em mang nó về
Em thả vào nồi
Em bẵng nó lên
Nó sôi sùng sục
Nó sủi sình sịch
Em đổ nó ra
Em xóc chí cha
Là cha chí chát
Em xơi lên bát
Em múc lên loa
Em mút chí cha
Là cha chí chút
Chì chà là chà chì chụt
Canh ốc thì ngọt
Canh bứa chua loè.
- Ai về Phú Thọ cùng ta
Vui ngày giỗ Tổ tháng ba mùng mười
- Ai làm cái nón có thao
Để cho anh thấy cô nào cũng xinh.
-Ai về Phú Thọ cùng ta
Vui ngày giỗ Tổ tháng ba mồng mười.
- Ai lên Phú Thọ thì lên
Lên non cổ tích, lên đền Hùng Vương.
- Cơn mưa đàng ghềnh lấy trành hứng nước
Cơn mưa đằng ngược chẳng có nước rửa chân.
- Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba.
- Dù ai buôn bán gần xa
Nhớ ngày giỗ Tổ tháng ba mùng mười
- Phú Thọ quạt nước hỏa lò
Hải Dương rọc lá giã giò gói nem.
- Tháng ba nô nức hội đền
Nhớ ngày giỗ tổ bốn nghìn năm nay.
-Tháng giêng giỗ thánh Sóc Sơn
Tháng ba giỗ Tổ Hùng Vương nhớ về.
-Sông Thao nước đục người đen
Ai lên phố Én cũng quên đường về.
Hẳn 11 câu luôn nha!
Ai ơi mua dó khó lòng , không đi lên Ẻn thì mong nỗi gì
len google tim di nhieu lam mk vua len xem nhg ko copy dc
Cho mình xin các câu dân ca về thành phố Hòa Bình.
Mik cần gấp nhé!Mik sẽ tick những bạn trả lời nhé!
Ca dao, tục ngữ
Ca dao, tục ngữ của người Mưòng khá phong phú, trước hết là những câu nói về các địa danh, vùng đất và đặc sản nổi tiếng của xứ mường như:
- Nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động.
- Cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui, ngày lui, tháng tới.
- Măng cuốc núi Chù
Ăn ngoan hơn thịt trâu xóm Bả
- Rau tớn mường Kha,
Ăn ngon hơn thị gà xóm Mận.
- Rau mẹ mường Khang
Ăn ngon hơn cá pạng sông Bờ
- Rau đắng Bưa Cà,
Ngon hơn thịt gà Bái Thiện.
Hoặc những câu nói về kinh nghiệm sản xuất, tri thức dân gian của người mường như:
- Sấm Mường Lạ, để dạ mà ăn.
- Sấm Mường Ngay, quăng bừa cày lên gác.
- Sấm Mường Khời, vẫy tay đào củ mài.
- Sai quả dâu gia được mùa lúa ruộng,
Sai quả cha được mùa lúa nương.
- Măng mọc thì mèo lấy giống.
- Mây kéo ngược chẳng có nước mà uống,
May kéo xuống chẳng có ruộng mà cấy.
- Tháng năm trâu đằm thì cá ngoi.
- Ruộng có phân như đụm có lúa.
- Cấy sớm hơn bừa trưa.
- Bừa lai rai sai mùa vụ.
Người Thái có những câu ca dao, tục ngữ về kinh nghiệm sản xuất như:
- Sấm đầu năm trên đầu sông đà sửa gác,
- Sấm đầu năm trên nguồn sông Mã sửa thuổng.
- Sấm trước không mưa.
- Nắng tháng 6 được lúa
Nắng tháng 9 mất mùa
- Làm nhà đợi danh thì không tốt,
Làm ruộng đợi mạ thì không tốt
- Chuối đã trồng không nên nhổ
Dâu đã trồng không nên bới.
- Bổ tre bổ đằng ngọn,
Chẻ mây, chẻ đằng gốc.
- Rét vừa tốt mạ,
Rét quá tốt rau.
- Nương rợp mắt không bằng ruộng một thửa.
- Ngắm mây thì mất, ngắm đất thì còn.
- Muốn ăn cơm phải bừa ruộng kỹ,
Muốn ăn khoai phải phát rừng lồ ô
Ca dao, tục ngữ của các dân tộc ở Hoà Bình có những câu nói về ứng xử xã hội và sinh hoạt cộng đồng. Chẳng hạn như ở người mường:
- Nòi nhà lang là dòng máu chó
Nòi kẻ khó là máu khú máu rồng.
- Gần lang mất gà
Xa làng sợ kẻ chợ.
- Lang đi chợ để nợ cho dân
- Lang đến nhà như ma đến cửa
- Con lang thì lại làm lang
Con nhà tầm thàng thì vẫn là dân
- Một người đàn ông không dựng nổi nhà
Một người đàn bà không cắt nổi gianh.
- Phép quan không bằng tuần rượu
- Rượu ai người ấy uống
Vóng ai người ấy ngồi
- Quan tài nằm ngang họ lang
Quan tài nằm dọc họ dân.
- Hiểu con trai xem bờ ruộng
Xét đàn bà nhìn gấu váy
- Dao sắc gãy chuôi
Người ngay dễ chết.
- Ngủ trưa quen mắt, mắng vặt quen mồm.
Ở người Thái thì:
- Ruộng hoang quý trâu đực
Mường có giặc quý người gan dạ
- Ruộng nhiều nương thì tốt
Bản nhiều tạo thì khổ.
- Nghe lời hay chớ vội phi ngựa
Nghe lời dở chớ vội thắt cổ.
- Hỏi đường hỏi người già
Xin cơm xin gái trẻ.
- Thóc không phơi nắng sao khô vở
Người không đi đây đó sao khôn.
- Chọn vợ, xem người mẹ
Chọn trâu xem con đầu đàn.
- Gáy của ai, người ấy không tự thấy
Ngày chết, không ai tự đoán được.
- Chưa gặp giặc chớ khoe giỏi võ
Chưa qua sông chớ vội khoe giỏi bơi.
- Người khôn lo tính về dài
Người dại lo tính lùi sau.
- Càng ăn cơm càng thấy rét
Càng muốn làm đẹp càng tháy méo mó.
- Lên núi này thấy thấp
Nhìn núi nọ thấy cao
- Cây trong rừng không bằng ngọn
Nhiều người, nhiều ý khác nhau.
- Bản nào, bản không có gà vàng
Mường nào, mường không có người giỏi.
Ca dao, tục ngữ của người dân tộc ở Hoà Bình còn có các câu nói về ứng xử gia đình, quan hệ nam nữ…..Chẳng hạn như:
Ở người Mường:
- Uốn cây uốn khi còn non
Uốn con uốn khi còn nhỏ
- Trai bỏ vợ không mất một đồng
Gái chê chồng mất một thành hai
- Đám cưới có đôi
Cột nóc phải lẻ
- Diện như nàng dâu đi quạt
- Đánh con người, con người chạy ra búi bái
Đánh con mình, con mình chạy lại lòng.
- Anh em nơi xa không bằng ba nhà búng rộc.
- Được con dâu, sâu mặt mẹ chồng.
- Bé con cha, lớn con chú, con ông.
- Em trai chồng với chị dâu như trầu với lá mướp
- Em chồng với chị dâu như măng mu rau tróc.
- Yêu nhau đắp vó cũng ấm,
Chẳng yêu nhau chăn bông đệm ấm ễnng chẳng nên.
- Ngọt như dấm mẻ.
Lành như con kẻ ( con chồng) mẹ ý ( mẹ ghẻ).
- Trăm thứ hoa không bằng hoa con cái ( gái).
- Trăm thứ trái không bằng trái hồng cơm (lúa gạo).
- Không lấy được em,
Không phải chê em xấu, em nghèo,
Mà tại tiền cheo trâu cưới
Ở người Thái thì:
- Đi nương nhớ mang theo chó,
Đi ruộng, chớ mang theo con nhỏ
- Làm ruộng ai chẳng muốn ngon,
Nuôi con ai chẳng muốn khôn lớn.
- Anh em cãi nhau ba ngày không mất
Vợ chồng cãi nhau một buổi thành người dưng.
- Bố mẹ khuyên chưa bằng thầy bảo,
Thầy bảo chưa bằng tự mình suy.
- Anh em đến nhà chớ đánh chó
Chú bác đến nhà chớ mắng con.
- Của do mình làm ra tựa nước mạch
Của cha mẹ để lại tựa như của trôi sông.
- Chồng làm nên ông, nên quan
Bởi vợ khôn ngoan, hiền lành.
- Nuôi em khó chiều tính
Nuôi con khó chiều lòng
- Chồng tốt như lạt buộc nhiều vòng
Chồng hư như tổ ong buộc cổ
- Chiều chồng không dệt được vải
Chiều con không có ăn
- Cây gãy còn gốc
Thuyền vỡ còn mái chèo
Cha chết còn chú còn bác
Truyện thơ
Ở Hoà Bình, truyền thống thơ ca của người Mường, người Thái là nổi bật nhất. Điều này thể hiện rõ nhất ở những áng sử thi dài hàng ngàn câu. Chủ đề chính ở các tác phẩm truyện thơ là tình yêu nam nữ với những mối tình say đắm của những đôi trai, gái do hoàn cảnh mà trở thành những bi kịch của cuộc đời. Chính nỗi đau thương, day dứt của sự tan vỡ, mất mát, thất vọng về tình cảm ấy lại trở thành nguồn cảm hứng cho các nghệ sỹ dân gian sáng tác ra những truyện thơ nổi tiếng như Nàng Nga- Hai Mối, Út Lót- Hồ Liêu, Vườn hoa núi cối… Tất cả những truyện thơ này đều là chuyện về tình yêu nam nữ với chủ đề lên án chế độ hôn nhân cưỡng ép của chế độ gia đình phụ quyền rất rõ rệt… Các truyện đều có cái kết dữ dội bằng những cái chết đau xót của các nhân vật chính và phụ.
Tuy chủ đề tình yêu là cối lõi của tất cả các truyện, song trên cái nền ấy là cả một bức tranh sinh hoạt văn hoá vô cùng đa dạng và phong phú của chủ nhân sinh ra nó. Chỉ cần điểm qua vài nét chính trong truyện Nàng Nga- Hai Mốt ta sẽ thấy rất rõ điều ấy. Đây là quang cảnh ngày mở chợ:
Ngày mở chợ
Ba hồi trống đánh
Hết làng trên xóm dưới
Con trai đầy sân,
Con gái đến đầy cửa đầy nhà
Cơm trong mồm chưa kịp nhá
Cá trong mồm chưa kịp nuốt
Trầu trong khăn chưa kịp lấy,
Chín mươi làng trên
Đều mang bương gianh ra mở chợ.
Trong bối cảnh hết sức tưng bừng, sôi động ấy, tình yêu trai gái nảy nở một cách tự nhiên, tự do để rồi thề ước với nhau một niềm chung thuỷ son sắt:
Nếu sai hẹn ước
Sẽ chết nơi sông Chu bến Động.
Nhưng:
Mẹ nàng tham bạc
Chú bác họ hàng đã tham ăn tham uống
Đã gả nàng cho ông vua Ai Ước.
Quang cảnh đánh giặc của chàng Hai Mối:
Giặc bên Bắc đang muốn tiến vào
Giặc bên Lào, bên Ngô đang thì tiến xuống
Ta phải cất công sang sông Chu, bến Động
Trên bờ cắm chông
Dưới sông thả cạm, thả bẫy.
Cuộc kiếm tìm người yêu không ngại ngần gian khổ:
Chàng lại ra đi
Hết rừng trúc qua rừng mai
Tìm đến chùa Thái Thúc xin Bụt phù hộ
Rồi chàng lại ra đi bốn đêm trắng
Bảy ngày liền
Chẳng thấy đâu là làng là xóm
Chỉ thấy ngàn cây bát ngát xanh xanh.
Cuối cùng là sự tuyệt vọng tìm đến cái chết mà chưa gặp được người mình yêu. Còn nàng, đến khi gặp chỉ còn là một cuộc làm ma cho người yêu. Do vậy, để trọn tình, nàng cũng quyết quyên sinh:
Hỡi hồn anh ở dưới đất thì lên
Hỡi hồn anh ở trên trời thì xuống
Hỡi hồn anh ở sông Chu bến Động thì vào.
Sống ta không nên cửa nên nhà
Đợi em chết xuống làm nhà bên ma.
Khấn xong, nàng cởi chiếc áo đang mặc
Cầm cái gương, cái lược đang cài
Là vật kỷ niệm ngày trước
Lao đầu xuống sông Chu, bến Động
Để về cùng chàng Hai Mốt.
(Bản sưu tầm của Đinh Công Niết)
Tương tự như vậy, trong truyện Út Lót- Hồ Liêu, chàng Hồ Liêu mở nắp quan tài đón nàng Út Lót vào cùng chết và những truyện thơ khác đều có kết cục bi kịch như vậy.
Rõ ràng, truyện thơ không chỉ kể về các mối tình tuyệt vọng của các đôi trai gái, mà đã được nâng lên thành những vấn đề xã hội, thể hiện khát vọng hôn nhân tự do, khát vọng đôi lứa, vượt ra khỏi những ràng buộc khắt khe của gia đình, của phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo… Truyện thơ của người Mường được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, trở thành những áng văn bất hủ.
Ở người Thái, những tác phẩm nổi tiếng như Xống chụ xôn xao hay Khum Lú- Nàng Ủa được phổ biến ở hầu hết các vùng Thái. Đó là những truyện thơ dài mang đậm chất dân ca Thái, hàm chứa những tâm tư, tình cảm, nỗi lòng thầm kín của tình yêu đôi lứa, đồng thời cũng bày tỏ những khắc khoải của sự mất mát, chia lìa. Từ chỗ:
Anh đến thăm, em thương nghĩa,
Anh đến thăm, em thương tình,
Như thể cá chép ở chung khoang
Như thể rượu nếp ở chung vò
Thương nhau đã quyết nên bạn
Yêu nhau đã quyết nên tình
Lời tình trao, thề có trời có đất…
Vậy mà:
Lòng anh chết đi sống lại nhiều lần
Bởi anh thấy khách mường ngoài
Đem lễ vật đến hỏi em yêu
Khách đến hỏi, bố mẹ em ưng gả
Khách đến nhà, bố mẹ em nhận lời.
Những truyện thơ dài của người Thái, người Mường rõ ràng đã ăn sâu vào đời sống tinh thần của các thế hệ. Được lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, truyện thơ dài là một giá trị văn hoá của dân tộc cần được giữ gìn, bảo vệ. Đồng thời, nó cũng được lưu truyền như một bài học kinh nghiệm về những kỷ niệm đau buồn đã qua, một sự nhắc nhở, sám hối, an ủi, chia sẻ đối với những bất hạnh của người đi trước thiếu may mắn. Cứ tưởng tượng giữa trùng điệp của núi rừng bạt ngàn xưa, những truyện thơ ấy được kể bằng những lời trầm bổng của người dẫn chuyện, chúng ta sẽ thấy một khung cảnh đầy thơ mộng và lãng mạn thế nào. Điều này cho thấy, vượt lên những bi kịch, những nỗi buồn sâu xa là một cuộc sống tinh thần hết sức phong phú của những con người vùng sơn cước này.
Ở người Dao, người Mông, người Tày Hoà Bình tuy không thấy những tác phẩm truyện thơ dài hơi, song hình thức này cũng tồn tại ở những truyện ngắn hơn với các chủ đề khác nhau.
Sử thi
Dưới dạng những truyện thơ dài, song tầm vóc của sử thi là những áng thơ văn bất hủ của người Mường và người Thái với các tác phẩm như Đẻ đất đẻ nước của người mường và Ẳm Ệt của người Thái.
Đẻ đất đẻ nước là một bộ sử thi đồ sộ dài hàng ngàn câu. Nội dung của nó là toàn bộ tư duy cổ của người Mường về sự sinh thành ra vũ trụ, ra con người và vạn vật xung quanh nó. Bộ sử thi này chứa đựng cả một kho tri thức về văn hóa truyền thống của người Mường trong quá khứ.
Theo những công bố mới nhất của các tác giả Trương Sỹ Hùng, Bùi Thiện vào năm 1995 thì Đẻ đất đẻ nước (với ý nghĩa là toàn bộ tang ca) dài tới 61 roóng, mỗi roóng là một truyện về một vấn đề nào đó. Ví dụ như Đẻ gươm, Đẻ xống áo, Điềm gở, Nhòm Mường Bi… Tất cả những roóng ấy được kể trong 12 đêm, thậm chí còn dai hơn mới hết. Sử thi Đẻ đất đẻ nước được kể khi người Mường làm ma cho người chết nhằm giải thích và dẫn dắt hồn người chết, an ủi, vỗ về họ yên tâm về thế giới bên kia, đừng gây chuyện gì cho những người sống. Vì vậy, các nhà nghiên cứu còn gọi Đẻ đất đẻ nước là tang ca của người Mường. Tang ca này được một ông thầy mo trình bày.
Thực ra, đúng như Từ Chi viết: riêng phần “Đẻ đất đẻ nước” dù dưới dạng dị bản dàn trải nhất cũng chỉ chiếm một đêm trong số mười hai đêm kể của thầy mo về toàn bộ tác phẩm. Công trình nghiên cứu gần đây nhất về tác phẩm đẻ đất đẻ nước do Quỹ Toyota tài trợ được lấy tên chung hơn là Mo Mường, ngoài phần nghiên cứu, các tác giả chia Mo mường thành 9 phần từ khởi đầu đến kết thúc với độ dài hơn 400 trang (phần tác phẩm). Có thể nói, sử thi Mo Mường là tác phẩm đồ sộ nhất của văn học dân gian Mường. Không những vậy, nó còn là một kho kiến thức nhiều vấn đề văn hóa, xã hội khác của người Mường ở Hòa Bình. Không phải ngẫu nhiên mà áng sử thi này lại được trình bày ở đám tang. Những lời kể không chỉ là sự vỗ về, an ủi, chia ly với người chết mà điều quan trọng hơn đây là dịp người sống cùng tụ họp lại ôn lại lịch sử của cha ông mình, cho các lớp trẻ biết mình sinh ra từ đâu nguồn gốc ra sao và phải làm gì để tiếp tục những cái mà người đi trước đã làm.
Rõ ràng đám tang trở thành một cuộc sinh hoạt cộng đồng trước cái chết của một thành viên của cộng đồng. Đây là dịp cả cộng đồng cùng thắt chặt lại bên nhau để vươn lên tồn tại và phát triển trước những thử thách đang đợi họ. Sử thi Mường như một sợi dây vô hình nhưng hết sức bền chặt và mạnh mẽ xâu chuỗi, gắn kết từng thành viên lại với nhau trong cộng đồng. Vòng quay ấy cứ vận động liên tục làm cho cộng đồng ngày một vững chắc hơn.
Sử thi người Thái có Ẳm Ệt. Về quy mô và tầm vóc thì Ẳm Ệt của người Thái cũng là một bộ sử thi lớn nói về toàn bộ lịch sử xã hội, những mối quan hệ của con người với tự nhiên, sự hình thành vũ trụ và con người theo quan niệm của người Thái.. Giá trị nội dung và ý nghĩa xã hội của Ẳm Ệt của người Thái giống như Đẻ đất đẻ nước của người Mường: Ẳm Ệt chứa đựng cả vốn văn hóa dân gian của dân tộc bao gồm các triết lý dân gian, những nhận thức đơn giản về vũ trụ, nhân sinh quan, thế giới quan, dưới hình thức diễn xướng, diễn xuất có hóa trang, lời diễn xuất có âm điệu, có dàn nhạc phụ họa.”
Ngoài những áng sử thi được kể dưới hình thức mo, còn nhiều bài mo khác của cả người Mường, người Thái và một số dân tộc khác ở Hòa Bình có giá trị như truyện dài. Những bài mo đó có thể là những bài cúng hay kể chuyện, độ dài có thể lên tới hàng trăm câu hoặc vài chục câu. Như vậy, những bài mo này có giá trị như những truyện thơ. Mặt khác, những bài mo đó có nhiều chủ đề khác nhau như mo thành hoàng, mo cúng đức thánh Tản, mo khuống mùa…
Cần Thơ gạo trắng nước trong,
Ai đi đến đó lòng không muốn về.
Cà Mau hãy đến mà coi,
Muỗi kêu như sáo thổi,
Đỉa lội lềnh tựa bánh canh.
Cần Thơ là tỉnh,
Cao Lãnh là quê,
Anh đi lục tỉnh bốn bề,
Mải đi buôn bán chẳng về thăm em.
Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No,
Anh có thương em, xin sắm một con đò,
Để em qua lại mua cò gởi thơ.
Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền,
Anh có thương em, cho bạc cho tiền,
Đừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê.
Con trai trong Quảng ra thi,
Thấy con gái Huế chân đi không đành.
Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy,
Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa.
Viết thư thăm hết mọi nhà,
Trước thăm phụ mẫu sau là thăm em.
Chỉ điều xe tám, đậu tư,
Anh đi Gia Định thư từ cho em.
Chị Hươu đi chợ Đồng Nai
Bước qua Bến Nghé ngồi nhai thịt bò.
Chợ Sài Gòn cẩn đá
Chợ Rạch Giá cẩn xi măng
Giã em xứ sở vuông tròn
Anh về xứ sở không còn ra vô.
D[sửa]
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba
Dù ai buôn bán gần xa
Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mùng mười
Đ[sửa]
Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh
G[sửa]
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ
K[sửa]
Khen ai khéo họa dư đồ,
Trước sông Nhị Thủy, sau hồ Hoàn gươm
L[sửa]
Lục tỉnh có hạt Ba Xuyên,
Bạc Liêu chữ đặt, bình yên dân rày.
Mậu Thìn vốn thiệt năm nay,
Một ngàn hai tám, tiếng rày nổi vang.
Phong Thạnh vốn thiệt tên làng,
Giá Rai là quận, chợ làng kêu chung.
Anh em Mười Chức công khùng,
Bị tranh điền thổ, rùng rùng thác oan...
Lênh đênh ba mũi thuyền kề,
Thuyền ra Kẻ Chợ, thuyền về sông Dâu.
Làng tôi có lũy tre xanh,
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng.
Bên bờ vải nhãn hai hàng,
Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.
M[sửa]
Mẹ bồng con ra ngồi ái Tử
Gái trông chồng đứng núi Vọng Phu
Bao giờ nguyệt xế, trăng lu
Nghe con chim kêu mùa hạ, biết mấy thu gặp chàng.
Muốn ăn bánh ít lá gai
Lấy chồng Bình Định cho dài đường đi...
Muối khô ở Gảnh mặn nồng
Giồng Trôm, Phong Nẫm dưa đồng giăng giăng
N[sửa]
Nam Kì sáu tỉnh em ơi
Cửu Long chín ngọn cùng khơi một nguồn,
Sông Hương nước chảy trong luôn,
Núi Ngự danh tiếng cả muôn dặm ngoài.
Nhà Bè nước chảy chia hai,
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.
Ngày xuân cái én xôn xao
Con công cái bán ra vào chùa Hương
Chim đón lối, vượn đưa đường
Nam mô đức Phật bốn phương chùa này.
Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Cột cờ ba bậc, Phú Văn Lâu hai tầng.
- Những người mà xấu như ma
Uống nước chùa hà lại đẹp như tiên
O - Ô - Ơ[sửa]
Ở đâu năm cửa, nàng ơi !
Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng ?
Sông nào bên đục bên trong ?
Núi nào thắt cổ bồng mà có thánh sinh ?
Đền nào thiêng nhất xứ Thanh ?
Ở đâu mà lại có thành tiên xây?
Ở đâu là chín tầng mây ?
Ở đâu lắm nước, ở đâu nhiều vàng ?
Chùa nào mà lại có hang ?
Ở đâu lắm gỗ thời nàng biết không ?
Ai mà xin lấy túi đồng ?
Ở đâu lại có con sông Ngân-Hà ?
Nước nào dệt gấm thêu hoa ?
Ai mà sinh ra cửa, sinh nhà, nàng ơi ?
Kìa ai đội đá vá trời ?
Kìa ai trị thủy cho đời bình yên
Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời ?
Xin em giảng rõ từng nơi từng người.
- Thành Hà nội năm cửa, chàng ơi !
Sông Lục-đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng.
Nước sông Thương bên đục bên trong,
Núi đức thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh.
Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh,
Ở trên tỉnh Lạng, có thành tiên xây.
Trên trời có chín từng mây,
Dưới sông lắm nước, núi nay lắm vàng.
Chùa Hương-tích mà lại ở hang;
Trên rừng lắm gỗ thời chàng biết không ?
Ông Nguyễn Minh-Không xin được túi đồng,
Trên trời lại có con sông Ngân-hà.
Nước Tàu dệt gấm thêu hoa;
Ông Hữu-Sào sinh ra cửa, ra nhà, chồng ơi !
Bà Nữ-Oa đội đá vá trời;
Vua Đại-Vũ trị thủy cho đời bình yên
Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời,
Em xin giảng rõ từng nơi nhiều người
== p ==
Q[sửa]
Quảng Nam có núi Ngũ Hành,
Có sông Chợ Củi, có thành Đồng Dương.
Quảng Nam nổi tiếng bòn bon
Chả viên Bình Định vừa ngon vừa lành
Chín mùi da vẫn còn tươi
Mùi thơm cơm nếp, vị thanh đường phèn.
R[sửa]
Rau đắng nấu với cá trê
Ai đến đất Mũi thì "mê" không về!
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn
Đài Nghiêng, Tháp Bút chưa mòn
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?
S[sửa]
Sông Tô nước chảy quanh co,
Cầu Đông sương sớm, quán Giò trăng khuya.
Buồn tình vừa lúc phân chia,
Tiếng ai như đã bên kia hẹn hò.
Sông Đồng Nai nước trong lại mát
Đường Hiệp Hòa lắm cát dễ đi
Gái Hiệp Hòa xinh như hoa thiên lý
Trai Hiệp Hòa chí khí hiên ngang.
T[sửa]
Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây
Xây dọc rồi lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.
Tiếng đồn chợ xổm nhiều khoai
Đất đỏ nhiều bắp, La Hai nhiều đường.
Trầu Bà Điểm xẻ ra nửa lá
Thuốc Gò Vấp hút đã một hơi
Buồn tình gá nghĩa mà chơi
Hay là anh quyết ở đời với em?
em nào có dối lòng em họa chi vô đới em chăng được nhờ ?
Trai nào khôn bằng trai Long Mỹ
Gái nào mũ mỹ bằng gái Hà Tiên.
- Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Hà Nội Nam Định dọn đường rước dâu
Thanh Hóa cung đốn trầu cau
Hà Nam thời phải thui trâu mổ bò
Ninh Bình đục đá nung vôi
Bắc Ninh thời phải thổi xôi nấu chè
Hà Giang chuyển gỗ làm nhà
...Cho Anh lấy nàng
U[sửa]
U Minh, Rạch Giá thị hóa Sơn Trường
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua.
Ước gì anh lấy được nàng,
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây
V[sửa]
Vịt nằm bờ mía rỉa lông
Thấy cảnh thương chồng đi núi Hà Tiên
X[sửa]
Xem kìa Yên Thái như kia,
Giếng sâu chín trượng, nước thì trong xanh.
Đầu chợ Bưởi điếm cầm canh,
Người đi kẻ lại như tranh họa đồ.
Cổng chợ có miếu vua cha
Đường cái chính xứ lên chùa Thiên Niên...
Y[sửa]
Yên Bình với bóng tre xanh
Tre tỏa bóng mát cho em vui đùa.
mình chỉ biết ca dao nói về tỉnh Quảng Ninh thôi chứ ko biết cao dao nói về vùng đất ' Tràng An '
- Nhất cao là núi Ba Vì
Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn.
- Sông Lô một dải trong ngần
Thảnh thơi ta rũ bụi trần cũng nên
- Nhất Tam Đái, nhì Khoái Châu
Nam Chân, bắc Dũng, đông Kỳ, tây Lạc
- Nước Thanh Lanh, ma kẽm Dõm
Nước Thanh Lanh, ma Ngọc Bội
-Mang Cả trông sang
Mang Con thài mại
Đứng lại mà trông
Chín đời quận công
Mười đời tiến sĩ
Quê tôi mang tiếng quê nghèo
Mà trăm chuyện kể ra đều bằng thơ
Chuyện sen theo mẹ lên chùa
Dân làng đi cấy suốt mùa sáng trăng
Con gà biết nhớ lá chanh
Chuồn chuồn cao thấp mà thành nắng mưa
Yêu nhau mấy núi cũng vừa
Miếng gừng hạt muối thành bùa thủy chung
Mẹ tôi quen ruộng quen đồng
Ru con là nói thật lòng ước mơ…
Lời ru từ buổi ấu thơ
Che con hết cả nắng mưa, đói nghèo
Tôi chìm trong suối ca dao
Từng dòng lục bát giọt nào cũng thơm
Bây giờ dẫu mẹ chẳng còn
Tôi tìm bóng mẹ trong hồn ca dao…
-Rau một lá, cá một khúc.
-Nhà đổ còn xà, cậu già còn cháu.
-Cha thế nào, chú hao hao thế ấy.
-Nói không nghe, đe không được.
-Đất một trái chung, chim cùng tổ đẻ, con người một mẹ, một cha.
-Ruột một bụng, tóc một đầu, lươn một bàu, diều một gió..
-Người đau bệnh nằm liệt, công việc người khỏe lo, thói đời ăn no tức bụng.
-Ruộng nhuyễn gạo thơm ngon, ruộng sinh bùn thuần thục, trâu nuôi lâu béo tốt, người
Mk tìm đc 20 thôi nhé!!^-^
1,Nước sông pha lẫn nước đồng
Con gái Phú Thọ đánh chồng cả đêm
2,Ai ơi mua dó khó lòng,
Không đi lên Ẻn thì mong nỗi gì.
3,Ai về Phú Thọ cùng ta,
Vui ngày giỗ tổ tháng ba mùng mười.
Dù ai đi ngược về xuôi,
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba.
3,Gắng công kén hộ cốm Vòng,
Kén chồng Bạch Hạc cho lòng ai vui.
4,Làng Ẻn cất ma,
Sơn Nga chống gậy.
5,Mưa từ Ba Dội mưa ra,
Mưa khắp thiên hạ, mưa qua Đồn Vàng.
Gió đưa quanh đưa về Hùng Nhĩ,
Bây giờ đây anh nghĩ làm sao?
Trận này rồng cá kết giao.
5,Mưa từ Hùng Nhĩ mưa ra,
Mưa khắp thiên hạ, mưa ra bến Tuần.
Nước sông Rân chảy về dồi dội,
Lòng em bối rối chờ đợi lấy anh.
Trận này nức tiếng thơm danh.
6,Sông Thao nước đục người đen,
Ai lên phố Ẻn cũng quên đường về.
7, Chợ trâu Hoàng Xá, chợ cá La Phù
8, Trâu chợ Bù Nọ, cọ chợ Trúc Phê
9, Sông Thao nước đỏ như son,
Người đi có nhớ nước non quê mình?
10,Ai làm cái nón có thao
Để cho anh thấy cô nào cũng xinh !
11, Chạp đốn đau, giêng mau hái.
12,Nhất sòng Cao xá
Nhất rá Kẻ Rền
Nhất đền Hùng Vương
13,Bưới Chí Đám Quýt Đan Hà
Cà phê Phú Hộ, đồi trà Thái Ninh
14,Tháng Ba nô nức hội Đền
Là ngày giỗ Tổ bốn nghìn năm nay
15, Dong Mơ, Cọ Khống
16,Lau Tạ Xá, lá Phú Khê
17,Cơm đồng Á, cá Đồng Vầy
18,Ai lên Phú Thọ thì lên
Lên non Cổ Tích, lên đền Hùng Vương
Đền này thờ tổ Nam Phương
Quy mô trước đã sửa sang rõ ràng
Ai ơi nhận lại cho tường
Lối lên đền Thượng sẵn đường xi măng
Lên cao chẳng khác đất bằng
Đua nhau lũ lượt lên lăng vua Hùng.
19,Nước sông pha lẫn nước đồng
Con gái Phú Thọ đánh chồng cả đêm.
20.Bưới Chí Đám Quýt Đan Hà
Cà phê Phú Hộ, đồi trà Thái Ninh