Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Ở những vùng quê nông thôn, cánh đồng lúa là cảnh vật vô cùng thân thuộc, gắn bó với đời sống cũng như nhu cầu của họ. Cánh đồng lúa quê em đang đến mùa thu hoạch, từng bông lúa ngả màu vàng. Em rất thích ngắm cánh đồng lúa chín vào buổi sáng mai.
Sáng sớm ở quê em rất thanh bình và dịu êm, khi mọi người thức dậy, tiếng gà cất tiếng gáy vang xa đến xóm bên cạnh. Bình minh thức dậy sau một giấc ngủ dài. Buổi sáng, cánh đồng lúa còn cúi xuống, nặng trĩu từng bông, lá cũng đã chuyển sang màu vàng nhạt. Khi ánh mặt trời lên cao, cả cánh đồng sẽ khoác một tấm áo màu vàng rực rỡ, trải dài đến muôn nơi.
Bình minh, những giọt sương mỏng manh còn e ấp đọng lại trên những lá lúa sắc nhọn. Lúc ánh mặt trời bắt đầu le lói thì những hại tròn bé tý ấy ánh lên màu vàng dịu nhẹ, hắt xuống mặt đường. Khoảnh khắc ấy thật tuyệt đẹp.
Từng bông lúa nặng trĩu hạt lúc bình minh hé đã bắt đầu gượng thức dậy, đung đưa khi có làn gió mát lành thổi qua. Vì sáng mai nên nắng còn nhẹ, màu vàng của lúa chưa chói chang. Cánh đồng lúa lúc ấy nhìn như một bức tranh chỉ được tô đậm bằng màu vàng, là thứ vàng hanh dịu nhẹ.
Thân lúa khi chín trở nên mềm hơn, đỡ cứng cáp hơn khi thì con gái nhưng rất dẻo dai. Vì dẻo dai nó mới có thể chứa được sức nặng của bông lúa khi trĩu xuống.
Người dân trong xóm em khi mùa lúa chín thường thức dậy rất sớm để ra đồng đi gặt. Nhiều bác nông dân dắt trâu ra đồng, buộc dây vào chiếc xe kéo và bắt đầu xuống gặt. Tiếng gặt lúa nghe sột soạt, phá tan đi sự yên lặng của sáng sớm.Những chú trâu màu đen dường như điểm xuyết trên nền vàng của cánh đồng lúa, khiến cho bức tranh quê hương thêm sinh động hơn.
Cánh đồng lúa quê em buổi sáng mai thật đẹp, một vẻ đẹp bình dị, mộc mạc nhưng ý nghĩa. Em rất thích ngắm cánh đồng lúa chín buổi sáng mai như thế này. Dẫu mai này có đi đâu xa, em chắc chắn hình ảnh cánh đồng quê em vào buổi sáng sớm sẽ mãi ghi ấn sâu sắc trong tâm trí em.
hãy tả 1 cảnh buổi sáng trên cánh đồng
Tiếng chim ríu rít, líu lo báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Ông mặt trời từ từ nhô ra khỏi màn sương sớm. Khói bếp nhà ai là là bay trong gió. Đàn gà con liếp chiếp gọi nhau, tíu tít theo chân mẹ ùa vào dòng người đang hỏi hả ra đồng.
Bầu trời xanh xanh, êm đềm, trong treo. Vừa đi, tôi vừa ríu rít chuyện trò với mẹ, vừa tung tăng chạy theo những cánh bướm đang chặp chờn bay lượn. Chẳng mấy chốc cánh đồng đã hiện ra trước mắt tôi. Chà! Toàn là một màu vàng óng ả. Biển lúa mênh mông xa tít tận chân trời. Từ xa nhìn lại, cả cánh đồng như một tấm thảm vàng trải rộng. Thoang thoảng đâu đây mùi lúa chín. Hương lúa ngọt ngào man mác quyện vào trong gió, phả vào mũi tôi. Bước qua chiếc cầu nhỏ nối giữa dòng kênh, đến gần, cánh đồng hiện ra rõ hơn. Những ruộng lúa vàng mượt mà, óng ả như những dải lụa mềm thướt tha. Những cây lúa nặng trĩu bông sai chíu chít. Những hạt lúa tròn căng đung đưa trước gió. Trời cao xanh vời vợi, mấy đám mây trắng bồng bềnh trôi. Ông mặt trời rạng rỡ toả ánh sáng lung linh làm lấp lánh những giọt sương long lanh còn đọng trên kẽ lá, vương trên những ngọn cỏ xanh rờn. Hương lúa nếp chín thơm ngào ngạt lan toả khắp cánh đồng. Tiếng sáo diều ngân nga, vi vu, nghe thật vui tai. làm bừng lên không khí rộn ràng, êm ả nơi làng quê. Những cánh diều chao lượn trên không như vờn vào mây trắng, như đua nhau cùng chị gió, cùng những cánh chim đang tung cánh giữa trời xanh. Xa xa, thấp thoáng những chiếc nón trắng nhấp nhô giữa mênh mông biển lúa như những chiếc nấm xinh xinh mọc lên giữa cánh đồng. Tôi sung sướng, say sưa và mải miết ngắm nhìn. Dòng kênh cuồn cuộn chảy, mấy chú cá tung tăng bơi lội, quẫy mạnh làm tung bọt nước trắng xoá. Mặt trời đã lên cao, ánh nắng rực rỡ chói chang tràn xuống cánh đồng. Trên con đường mịn màng thơm mùi lúa chín mấy em bé tung tăng dắt trâu về chuồng. Những chú trâu thong thả bước từng bước nặng nề còn mấy chú nghé bụng đã căng tròn quấn quýt chạy theo chân mẹ. Các bác nông dân vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ.
Cả cánh đồng mênh mông bát ngát với những ruộng lúa vàng trĩu bông, những hạt lúa tròn căng hứa hẹn một vụ mùa bội thu, hứa hẹn một cuộc sống ấm no và hạnh phúc, nhà nhà đầy ắp tiếng cười, ”đầy sân thóc vàng”.
Tôi theo mẹ ra về mà lòng tràn đầy vui sướng. Vui vì xóm làng, quê hương thân yêu của tôi không còn nghèo như trước nữa mà sẽ ấm no, sẽ yên vui và hạnh phúc, các bạn nhỏ như tôi sẽ được cắp sách đến trường trên con đường làng thơm mùi lúa chín. Về đến nhà mà mùi hương dịu ngọt ấy vẫn còn quyện mãi trong tôi
Song Ngư là Snow nhưng Snow k bik bn cung nào
Lần sau k đăng câu hỏi linh tinh
Tối về nhà muộn, trên con đường hoang vắng có một bóng đen xồ ra dí dao vào người tôi: "Cướp đây." Tôi nhanh trí nói: "Con dao của anh không tồi, tôi lấy Iphone 6s plus hồng vàng ra đổi được không?" Không ngờ hắn ta đồng ý. Tôi thông minh biết chừng nào, đến khi cầm lấy con dao kia, tôi lại quát to: "Đừng nhúc nhích, cướp đây." Tên cướp sửng sốt một chút, rồi... lẳng lặng móc súng ra.
Sự thật đau lòng 300 USD và 3 quả trứng
Một ông chồng trên giường hấp hối, gọi vợ đến bên mình và hỏi:
– Em ơi, anh không còn sống được nữa. Em hãy nói thật cho anh, trong suốt thời gian chúng mình chung sống với nhau, em đã phản bội anh bao nhiêu lần?
Chị vợ không nói gì, chỉ khóc nức nở.
Ông chồng lại hỏi:
– Thôi, em đã không muốn nói thì hãy giải thích cho anh tại sao trong tủ của em có 3 quả trứng và 300 USD?
Chị vợ thút thít:
– Mỗi lần em phản bội anh, em lại cho vào tủ một quả trứng.
Ông chồng thở phào:
– À, thế là chỉ có 3 lần thôi ư? Còn 300 USD thì sao?
Lần này, chị vợ khóc rất to và giải thích:
– Mỗi lần trứng nhiều quá, em lại đem ra chợ bán và… em đã tiết kiệm được 300 USD.
Nghe đến đó, ông chồng kêu to lên một tiếng và trút hơi thở cuối cùng.
tình bạn là gì ?
trả lời : Tình bạn là tình cảm của một người biết quan tâm, giúp đỡ, đồng cảm, một người mình có thể tin tưởng để chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn. Một người bạn luôn ở cạnh, động viên và nhắc nhở, giúp đỡ những lúc mình sai...(nhưng không phải có quan hệ máu mủ)
chúc bn hok tốt !
Bài làm
Trong học tập và vui chơi, chắc rằng ai cũng phải có một người bạn bạn đồng hành. Em thì có rất nhiều người bạn, kể không hết luôn. Nào là bạn Thủy, Dương , Vũ Linh, Nhi, ... Nhưng đối với em thì bạn Diệu Linh lại người bạn thân nhất và đối xử tốt nhất với em.
Diệu Linh là bạn học của em từ hồi lớp một. Bạn bằng tuổi em nhưng cao hơn em một chút. Bạn cũng cao nhưng không gầy. Bạn có nước da trắng hồng như nước da của em bé. Mái tóc đen dài đến ngang lưng của bạn lúc nào cũng được bạn buộc gọn trên đầu. Trên khuôn mặt tròn trĩnh của bạn là đôi mắt to, tròn, đen láy . Nhìn qua đôi mắt ấy thì ai cũng thấy rõ vẻ thông minh, nhanh nhẹn của bạn. Dưới cái mũi dọc dừa của bạn là cái miệng hay nói hay cười. Mỗi khi bạn cười, đôi môi mở ra lại để lộ hai hàm răng vừa trắng lại vừa đều nữa. Trông bạn cười rất nhẹ nhàng, nữ tính.
Diệu Linh là một trong những học sinh giỏi của lớp. Bởi vì trên lớp bạn chú ý nghe giảng, luôn ôn bài đầy đủ. Bạn còn rất chăm làm.Về nhà, vừa cất xe đạp xong, bạn đã vào bếp giúp mẹ nấu cơm, chuẩn bị cho bữa trưa. Ngoài giờ rảnh rỗi, bạn còn giúp mẹ trông em, quét nhà. Không chỉ thế, bạn còn rất có nhiều hiểu biết về cuộc sống xung quanh.
Em và Diệu Linh có rất nhiều kỉ niệm. Nhưng em nhớ nhất là lúc em suýt nữa lộn cổ xuống ao. Hôm đấy, em và Diệu Linh đi chung đường. Bỗng dưng em bị ngã xuống bờ ao. Cái ao này âu lắm. Đang lúc em suýt xuống ao rồi thì Diệu Linh cố sức kéo em lên. Phải cố hết sức lắm thì Diệu Linh mới kéo được em lên. Đó chính là kỉ niệm mà em nhớ nhất trong tất cả kỉ niệm của chúng em.
Năm học đã sắp hết rồi, em phải bước sang trường Cấp 2. Không biết lúc ấy, em còn học với Diệu Linh nữa hay không. Nếu được học với Diệu Linh thì tình bạn giũa chúng em sẽ không bao giờ biến mất. Em rất yêu quý Diệu Linh. Mong rằng em sẽ còn được học với Diệu Linh trong những năm học tiếp theo !...
Năm tháng rồi cũng qua đi, chỉ có thời gian là thước đo tình cảm của con người. Bây giờ tuy đã học lớp 5 – lớp cuối cấp của trường tiểu học, sắp sửa phải tạm biệt mái trường, thầy cô, bạn bè để tiếp bước vào bậc trung học . Nhưng quãng thời gian là năm năm học ở trường, em không sao quên được những kỷ niệm về cô giáo đã dạy em những năm đầu chập chững cắp sách tới trường.
Cô có cái tên rất hay và em cũng rất thích đó là Kim Oanh. Cô là người mẹ hiền dịu nhất trong những ngay fem còn học lớp 1. Với dáng người đậm đà, mái tóc xoăn xoăn màu hạt dẻ thì ai cũng nói nhìn cô trông rất xinh. Cô thường mặc những bộ quần áo lịch sự, phù hợp với dáng người của mình. Ngày đó, em cứ nghĩ cô giáo phải dễ sợ lắm. Nhưng không, cô đã làm tan biến những ý nghĩ vẩn vơ đó của em. Cô vẫn là cô giáo hiền lành, tốt bụng. Với khuôn mặt tròn, phúc hậu, hai gò má cao cao, lúc nào cũng ửng hồng. Mắt cô đen láy, long lanh với hàng lông mi cong vút. Nhưng đặc biệt nhất vẫn là ánh mắt nhìn trìu mến, bao dung mà cô dành cho chúng em. Mỗi lần không học bài, chỉ cần nhìn vào đôi mắt buồn buồm của cô là bạn ấy hối hận ngay về việc làm của mình. Có lẽ, chính cô là người khơi dậy lòng hăng say học tập của chúng em. Ẩn dưới vầng trán cao cao thông minh ấy là đôi lông mày vòng nguyệt cân đối tạo cho khuôn mặt vẻ thanh tú.
Cô Oanh là một giáo viên hăng say trong công việc và hết lòng thương yêu học sinh. Tâm hồn cô là cả một khoảng trời chứa chan bao tình yêu cô dành cho chúng em: Nghe cô giảng bài thì thật là thú vị. Cô giảng rất dễ hiểu, dễ nghe nên chúng em luôn tiếp thu được bài. Vào những giờ ra chơi, cô luôn ngồi lại để viết mẫu và chấm bài cho chúng em. Có những hôm cô còn trao đổi cách giảng bài với bạn bè đồng nghiệp. Nếu bạn nào đọc chưa tốt hay viết chưa đúng thì cô luôn sẵn sàng giúp đỡ. Khi cô đã giảng cho bạn nào thì bạn ấy hiểu ngay. Vào những giờ sinh hoạt lớp, cô luôn nhận xét cho từng bạn và nói cho các bạn cách sửa lỗi sai đó. Có hôm cô nhận xét rất tốt về lớp em và em rất nhớ câu: “Tuần qua, các con đã rất cố gắng để nhận cờ Đội. Cô rất vui vì không những các con được nhận cờ tốt mà còn nhận cờ xuất sắc. Cô mong tuần nào các con cũng như vậy”. Và khi đó, lớp em vỗ tay rào rào. Giờ đây khi đã lên lớp năm, mỗi khi có việc cần đi qua lớp cô, cô lại goi em lại hỏi han. Khi đó, em lại nhớ những giây phút khi còn học lớp 1, được cô yêu thương dạy dỗ. Trong em vang lên lời bài hát: “Mẹ của em ở trường là cô giáo mến thương…”.
Vâng! Đúng vậy em sẽ không bao giờ quên cô – người mẹ đã đưa em đón những tia nắng đầu tiên của cuộc đời.
1. Đặt vấn đề
Một câu tiếng Việt hiện nay có thể được phân tích theo nhiều phương pháp. Phổ biến nhất là bốn phương pháp sau: (1) theo cấu trúc chủ - vị (ngữ pháp truyền thống), (2) theo cấu trúc vị từ - tham thể (ngữ pháp ngữ nghĩa), (3) theo cấu trúc đề - thuyết(ngữ pháp chức năng), và (4) theo cấu trúc cái cho sẵn - cái mới (lý thuyết phân đoạn thực tại).
Các phương pháp này được xây dựng dựa trên ba bình diện nghiên cứu câu: kết học, nghĩa học và dụng học. Trong đó, phân tích câu theo cấu trúc chủ - vị thuộc bình diện kết học của câu, cấu trúc vị từ - tham thể thuộc bình diện nghĩa học, cấu trúc cái cho sẵn - cái mới thuộc bình diện dụng học. Riêng phương pháp phân tích câu theo cấu trúc đề - thuyết thì lại được quan niệm theo nhiều cách khác nhau. Cao Xuân Hạo không xếp đề - thuyết vào bình diện kết học, song ông cũng băn khoăn khi xếp đề - thuyết vào bình diện dụng học [4, tr. 11].
2. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích mẫu một số câu cụ thể theo từng phương pháp; nêu ưu thế, hạn chế của mỗi phương pháp và sự tương quan/ mối quan hệ của các phương pháp với nhau.
2.1. Phương pháp phân tích câu theo cấu trúc chủ - vị
Đây là phương pháp lâu đời nhất của ngữ pháp truyền thống, được xây dựng dựa trên ba quan hệ ngữ pháp cơ bản của câu: quan hệ đẳng lập, quan hệ chính phụ và quan hệ chủ vị. Muốn vẽ được mô hình câu theo phương pháp này, phải xác định được ba quan hệ trên. Qui ước vẽ như sau: với quan hệ đẳng lập, không vẽ mũi tên ở cả hai chiều; với quan hệ chính phụ, vẽ mũi tên hướng về thành tố chính; với quan hệ chủ vị, vẽ mũi tên ở cả hai chiều.
a. Một số ví dụ mẫu
Công ty chúng tôi // sẽ thi công một tòa nhà 24 tầng.
ĐN ĐN
ĐN ĐN
BN
C V
-> Đây là câu đơn.
Bỗng một bàn tay / đập (vào) vai // khiến hắn / giật mình.
TTN BN C V
C V BN
CN VN
-> Đây là câu phức thành phần chủ ngữ và thành phần bổ ngữ.
b. Ưu thế của phương pháp phân tích câu theo cấu trúc chủ - vị
Đối với người Việt, chủ ngữ và vị ngữ là những khái niệm hết sức quen thuộc. Đây lại là phương pháp ra đời sớm, được nghiên cứu nhiều, nên hệ thống lý thuyết tương đối sáng rõ. Các thành tố cấu tạo nên câu được phân tích hết sức tỉ mỉ và cạn kiệt. Không có bất kỳ một từ nào trong câu không được làm rõ, dù đó là thực từ hay hư từ. (Theo chúng tôi, trong số bốn phương pháp phân tích câu, đây là phương pháp phân tích chi tiết nhất). Quan hệ giữa các từ trong cụm từ, quan hệ giữa các cụm từ với nhau luôn được thể hiện rõ ràng. Chức năng của các thành phần câu được phản ánh một cách rất cụ thể. Nếu dạy cho học sinh phân tích câu theo cách này, người học dễ dàng xây dựng những câu đúng ngữ pháp, chuẩn mực.
Phương pháp này có hạn chế sau đây. Khi nói một câu, cái quan trọng là ta truyền đi một thông tin. Phân tích câu theo cấu trúc chủ - vị chỉ quan tâm đến bình diện hình thức của câu mà không làm nổi rõ vấn đề trọng tâm thông báo của câu. Các thành phần câu được gọi tên thuần tuý theo kiểu ngữ pháp, không rõ chức năng ngữ nghĩa. Cách phân tích này quá tỉ mỉ, nên không phải lúc nào cũng có thể ứng dụng được cho mọi câu tiếng Việt, đặc biệt là những câu trong giao tiếp sinh hoạt hàng ngày, những câu có cấu trúc hơi khác thường.
2.2. Phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể
Người khơi nguồn cho phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể là L.Tesnière với lý thuyết diễn trị (vào khoảng những năm 30 của thế kỷ trước). Ông đã gợi ra một giải pháp nghĩa học độc lập cho việc phân tích câu. Sau ông, nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm đến vấn đề này. Đó là C.J. Fillmore, M.A.K. Halliday, W.Chafe, C. Hagège, S.C.Dik… Để phân tích được câu theo phương pháp này, trước hết phải xác định được vị từ trung tâm, sau đó xác định các tham thể bắt buộc xoay xung quanh vị từ đó, cuối cùng là xác định các tham thể mở rộng.
a. Một số ví dụ mẫu
Ngày 8-3, tôi tặng cho người yêu một bó hoa hồng.
TTMR TTBB VTTT TTBB TTBB
(thể thời gian) (hành thể) (tiếp thể) (đối thể)
Con mèo nhảy mạnh làm đổ lọ hoa.
TTBB (thể nguyên nhân) VTTT TTBB (đối thể)
Tôi lại tưởng anh ta không muốn đến.
TTBB (thể cảm nghĩ) VTTT TTBB (thể nội dung)
Phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ – tham thể có ưu thế sau: Các thành tố trong cấu trúc vị từ - tham thể phản ánh sự tương ứng về nghĩa của chúng với các sự vật trong thực tế khách quan. Toàn bộ nội dung câu phản ánh một sự tình của thế giới ấy. Thông qua cấu trúc này, ta hiểu hơn về sự gắn bó giữa ngôn ngữ học với cuộc sống con người.
Phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể có hạn chế là không quan tâm đến các hư từ. Vì vậy, mối quan hệ giữa các từ trong câu nhiều khi không được làm rõ. Đặc biệt, cấu trúc này không phân tích được cạn kiệt các thành phần trong câu, chẳng hạn, không làm rõ được thành phần định ngữ có vai trò gì trong cấu trúc nghĩa sự vật. Ví dụ: Cô gái nhỏ nhắn ấy là bạn tôi. Toàn bộ cụm danh từ cô gái nhỏ nhắn ấy là một tham thể; bạn tôi là một tham thể. Còn nhỏ nhắn và tôi có vai trò gì thì không quan tâm đến.
Nhiều trường hợp rất khó phân tích câu theo cấu trúc này, nhất là đối với những câu có nhiều tầng bậc. Ngoài ra, rất khó xác định vai nghĩa mà các tham thể đảm nhiệm do không có dấu hiệu hình thức rõ ràng. Có một thực tế là người ta vẫn dựa vào sự tương ứng giữa các thành tố của cấu trúc vị từ - tham thể với các thành phần câu trong cấu trúc chủ - vị để từ cấu trúc chủ - vị, suy ra cách phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể. Như vậy rõ ràng là muốn phân tích câu (dù theo cách nào), vẫn phải học cấu trúc chủ - vị trước.
Mối quan hệ giữa cấu trúc vị từ – tham thể với cấu trúc chủ – vị:
CẤU TRÚC CHỦ – VỊ | CẤU TRÚC VỊ TỪ - THAM THỂ |
Chủ ngữ | Tương ứng với tham thể bắt buộc (là tham thể quan trọng nhất) |
Trung tâm của vị ngữ | Tương ứng với vị từ trung tâm (toàn bộ vị ngữ có thể tương đương với cả vị từ trung tâm + tham thể bắt buộc / không bắt buộc). |
Bổ ngữ: 2 loại: + Bổ ngữ bắt buộc (của động từ trao nhận, sai khiến…) + Bổ ngữ không bắt buộc (Bổ ngữ thời gian, địa điểm, mục đích….) |
+ Tương ứng với tham thể bắt buộc.
+ Tương ứng với tham thể không bắt buộc. |
Định ngữ | Không tương ứng với một tham thể. Nó cùng với danh từ trung tâm làm thành một tham thể. |
Đề ngữ | Tương ứng với tham thể bắt buộc do nó có quan hệ về nghĩa với nòng cốt câu hoặc các thành tố trong câu. |
Trạng ngữ | Tương ứng với tham thể mở rộng, có thể lược bỏ (chu tố). |
Các thành phần biệt lập (phụ chú ngữ, liên ngữ, hô ngữ, tình thái ngữ) | Không tương ứng với bất kỳ thành tố nào trong cấu trúc vị từ - tham thể vì các thành tố này không tham gia vào việc biểu hiện nghĩa sự vật. |
Vị ngữ phụ | Tương ứng với tham thể mở rộng, có thể lược bỏ (chu tố). |
2.3. Phương pháp phân tích câu theo cấu trúc đề – thuyết
Theo quan điểm của ngữ pháp chức năng, một câu được chia ra hai phần: phần đề và phần thuyết. Để phân tích được câu theo cấu trúc này, có thể dựa vào nhiều tiêu chí, tuy nhiên, đơn giản nhất là dựa vào tiêu chí về phương tiện. Ba chỉ tố đánh dấu sự phân chia đề - thuyết là thì, là, mà.
a. Một số ví dụ mẫu
C
KĐ Đ T
MXN
Buổi chiều, mệt mỏi vì chờ đợi, nó lăn ra ngủ.
-> Đây là câu đơn một bậc đề - thuyết.
C
Đ Ta Tb
đ t đ t
Con bé ấy mắt thì giống mẹ, nước da lại giống bố.
-> Đây là câu đơn hai bậc đề - thuyết.
V1 V2
Đ T Đ T
Tay anh bưng ngọn đèn, em che ngọn gió.
-> Đây là câu ghép.
Phương pháp phân tích câu theo cấu trúc đề – thuyết có ư thế là: Cấu trúc đề - thuyết phản ánh được vấn đề thông tin của câu, trong đó, phần thuyết là phần chứa đựng nội dung thông tin mới. Căn cứ xác định đề - thuyết là dựa vào các tác tử thì, là, mà: chỗ nào chen được các tác tử này thì chỗ đó là ranh giới phân chia đề - thuyết. Thao tác này tương đối đơn giản. Do vậy, việc phân tích câu theo cấu trúc đề - thuyết nhìn chung là dễ thực hiện.
So với phương pháp phân tích câu theo cấu trúc chủ - vị thì khi áp dụng phương pháp phân tích câu theo cấu trúc đề - thuyết, các thành phần chỉ được phân tích sơ bộ chứ không được phân tích thật chi tiết.
Nhìn chung, cấu trúc đề - thuyết dễ ứng dụng đối với những câu được sử dụng trong hội thoại hàng ngày. Quả thực trong hội thoại, các phát ngôn chứa rất nhiều các tác tử thì, là, mà…, do vậy, việc phân tích khá đơn giản. Còn trong các văn bản văn học, nhất là các văn bản khoa học thì các từ “râu ria” này sẽ ít hoặc không xuất hiện. Về mặt lý thuyết, chúng ta có thể thêm các từ này vào để làm ranh giới phân chia đề - thuyết, song việc làm này mang tính chất cảm tính. Việc xác định phần đề, phần thuyết lệ thuộc rất nhiều vào ngữ cảnh. Thêm vào đó, trong những câu có chứa cả thì và là, ranh giới xác định đề - thuyết không nhất quán, có lúc dựa vào thì, có lúc dựa vào là.
Dù sao, phân tích câu theo cấu trúc đề - thuyết vẫn là một phương pháp mới, không quen thuộc với người học, do vậy, thông thường người học hay suy từ cấu trúc chủ - vị sang cấu trúc đề - thuyết. Như vậy, cách phân tích này dường như bị lệ thuộc vào lối phân tích chủ - vị.
Mối quan hệ giữa cấu trúc đề - thuyết với cấu trúc chủ – vị:
| CẤU TRÚC CHỦ - VỊ | CẤU TRÚC ĐỀ - THUYẾT |
Phạm vi ngữ nghĩa | Chủ ngữ hẹp hơn phần đề và vị ngữ hẹp hơn phần thuyết. | Phần đề rộng hơn chủ ngữ. Phần thuyết rộng hơn vị ngữ. |
Mối quan hệ giữa hai thành phần chính trong câu | Quan hệ giữa chủ ngữ với vị ngữ tương đối chặt. | Quan hệ giữa đề với thuyết tương đối lỏng. |
Sự tương ứng của một số thành phần câu | - Khởi ngữ - Trạng ngữ - Vị ngữ phụ - Vế phụ của câu ghép chính phụ - Tình thái ngữ
- Liên ngữ - Hô ngữ - Phụ chú ngữ | - Tương ứng với phần đề - Tương ứng với chu ngữ - Tương ứng với minh xác ngữ - Tương ứng với phần đề
- Đề tình thái (siêu đề) hoặc thuyết tình thái (thuyết giả) - Đề tình thái (siêu đề) - Vế câu than gọi - Vế câu phụ chú |
Sự tương ứng của các kiểu câu | - Câu đơn
- Câu phức
- Câu ghép đẳng lập
- Câu ghép chính phụ | - Tương ứng với câu đơn 1 bậc Đề-Thuyết. - Tương ứng với câu đơn 2 bậc Đề-Thuyết trở lên. - Tương ứng với câu đơn 2 bậc Đề-Thuyết trở lên. - Tương ứng với câu ghép. |
Ưu thế và hạn chế chính | - Dễ đối với quy trình phân tích câu (phân tích văn bản) nhưng khó đối với quy trình xây dựng câu (tạo lập văn bản). - Có thể phân tích đến cạn kiệt tất cả các thành phần. - Không quan tâm tới vấn đề thông tin của câu. | - Dễ đối với quy trình xây dựng câu (tạo lập văn bản) nhưng khó đối với quy trình phân tích câu (phân tích văn bản). - Không thể phân tích cạn kiệt tất cả các thành phần. - Quan tâm tới vấn đề thông tin của câu(Thông tin mới nằm ở phần thuyết). |
Mối quan hệ với ngữ cảnh | - Ít phụ thuộc vào ngữ cảnh. -> Cấu trúc C-V luôn được phân tích giống nhau ở mọi ngữ cảnh. | - Phụ thuộc khá chặt vào ngữ cảnh -> Trong các ngữ cảnh khác nhau, một phát ngôn có thể có phần Đ và T khác nhau. |
2.4. Phương pháp phân tích câu theo cấu trúc “cái cho sẵn – cái mới”
Người đầu tiên đề xuất lý thuyết phân đoạn thực tại là nhà ngôn ngữ học người Sec V.Mathesius. Theo ông, một phát ngôn gồm hai phần: cái cho sẵn - cái mới (Nguyễn Minh Thuyết, Trần Ngọc Thêm sử dụng cặp thuật ngữ nêu - báo). Trong đó, phần nêu (cái cho sẵn) là xuất phát điểm của thông báo, là đối tượng của cuộc nói chuyện, tức là thông tin đã biết hoặc dễ nhận biết mà từ đó người nói bắt đầu thông báo của mình; còn phần báo (cái mới) là trọng tâm của thông báo, là hạt nhân của cuộc thoại. V.Mathesius cũng cho rằng cái cho sẵn tương ứng với phần đề của câu, còn cái mới tương ứng với phần thuyết. Sau này, M.A.K Halliday phát hiện cái cho sẵn - cái mới không tương ứng một đối một với cấu trúc đề - thuyết của câu.
Để có thể sử dụng phương pháp phân tích câu này, cần đặt câu trong một ngữ cảnh cụ thể. Sau đó xác định thông tin cũ, mới dựa vào các hư từ, dựa vào khả năng lược bỏ và dựa vào một số phép liên kết câu.
Một số ví dụ:
(Lan im lặng). Lan như nghe thấy tiếng đập của con tim mình.
CC CM
Bỗng từ dưới nước nhô lên một cánh tay.
CM
Chính nó ăn hai bát cháo (chứ không phải tôi).
CM CC
Phương pháp phân tích câu theo cấu trúc “cái cho sẵn – cái mới” có ưu thế sau:
Như chúng ta biết, nói một câu là truyền đi một thông tin. Tất nhiên, cái mà người ta quan tâm là thông tin mới. Cấu trúc cái cho sẵn – cái mới có ưu thế nổi bật mà không cấu trúc nào có được - đó là nó phản ánh thông tin cũ - mới của câu một cách hết sức rạch ròi. Về điểm này, nó còn vượt xa cả cấu trúc đề - thuyết vì thỉnh thoảng, trong phần thuyết vẫn chứa một vài từ ngữ mang thông tin cũ. Do vậy, nó còn được gọi là cấu trúc thông tin hay, vắn tắt hơn, là cấu trúc tin.
Hạn chế của phương pháp này là: Cấu trúc chủ - vị là cấu trúc cú pháp ổn định, tách rời ngữ cảnh. Nói cụ thể hơn, trong bất cứ tình huống nào, chủ ngữ vẫn cứ là chủ ngữ, vị ngữ vẫn cứ là vị ngữ. Đây là cấu trúc ở dạng tĩnh. Trong khi cấu trúc tin phụ thuộc chặt chẽ vào ngữ cảnh (có thể nói là lệ thuộc vào ngữ cảnh). Vậy, nếu không có tình huống giao tiếp hay ngữ cảnh cụ thể thì ta không thể phân tích câu theo cấu trúc này.
Mối quan hệ giữa cấu trúc “cái cho sẵn - cái mới” với cấu trúc chủ – vị:
Cấu trúc tin có thể trùng với cấu trúc chủ - vị, có thể không.
Trường hợp cấu trúc tin trùng với cấu trúc chủ - vị là trường hợp chủ ngữ mang tin cũ và vị ngữ mang tin mới. Chẳng hạn:
(Lan mệt mỏi). Cô ấy đã thức suốt đêm qua.
Theo cấu trúc chủ - vị: C V
Theo cấu trúc nêu - báo: CC CM
Đặc biệt với cấu trúc có chứa từ “là”, thông thường cái cho sẵn trùng với chủ ngữ, cái mới trùng với vị ngữ.
Song, trên thực tế, có rất nhiều trường hợp ranh giới Cái cũ – Cái mới không trùng với chủ - vị. Bởi lẽ, về nguyên tắc, thông tin mới của câu có thể nằm ở bất kỳ thành phần nào trong câu (chủ ngữ, bổ ngữ, định ngữ, trạng ngữ…). Thậm chí, có những trường hợp, phần tin mới nằm ở các hư từ vốn không đảm nhiệm chức năng cú pháp gì trong câu. Ví dụ:
Tin mới trùng với chủ ngữ:
- Chính nó đã từ bỏ tình yêu của mình.
- Anh Bình mới là người đến trước.
- Cả anh ấy cũng vắng mặt.
Tin mới trùng với bổ ngữ:
- Cô ấy nghi ngờ cả tôi.
- Nó đọc cả báo.
Tin mới trùng với trạng ngữ:
- Mai anh đi à?
- Ngày kia tôi mới đi.
Tin mới trùng với các hư từ trong câu:
- Cậu ăn cơm chưa?
- Rồi.
Tin mới cũng có thể nằm ở các tình thái từ hoặc các quán ngữ tình thái bởi lẽ các từ ngữ này luôn là điểm nhấn quan trọng về mặt thông tin. Do vậy, xét về tính đúng sai, tính chân thực của phát ngôn, ta thấy có một điều khá thú vị. So sánh:
(a) Anh ấy không đến.
(b) Có lẽ anh ấy không đến.
Trong câu (b), có lẽ là thành phần tình thái ngữ. Nó không phải là thành phần quan trọng trong cấu trúc chủ - vị của câu, bỏ nó đi, câu vẫn không sai về ngữ pháp. Nhưng nếu thực tế là anh ấy đến, thì nhận định (a) sẽ là sai, còn (b) không bị coi là sai.
Xét về số lượng các thành phần trong câu thì cấu trúc tin luôn luôn chỉ có hai phần (cái cho sẵn - cái mới). Còn cấu trúc chủ - vị, ngoài hai thành phần chính (chủ ngữ, vị ngữ), trong câu còn rất nhiều các thành phần khác (trạng ngữ, đề ngữ, tình thái ngữ…)
Bây giờ, chúng tôi sẽ phân tích một câu theo cả bốn phương pháp. Câu được chọn là: Ngữ pháp tiếng Việt thì chúng tôi sẽ học chiều nay.
(1) Phương pháp phân tích theo cấu trúc chủ – vị:
Ngữ pháp tiếng Việt (thì) chúng tôi // sẽ học chiều nay.
ĐN BN
C V
K
-> Đây là câu đơn bình thường.
(2) Phương pháp phân tích theo cấu trúc vị từ - tham thể:
Ngữ pháp tiếng Việt thì chúng tôi sẽ học chiều nay.
TTBB TTBB VTTT TTMR
Thể đối tượng Hành thể Thể thời gian
(3) Phương pháp phân tích theo cấu trúc đề – thuyết:
C
| |
|
Đ T
đ2 t2
Ngữ pháp tiếng Việt thì chúng tôi // sẽ học chiều nay.
-> Đây là câu đơn hai bậc đề - thuyết.
(4) Phương pháp phân tích theo cấu trúc “cái cho sẵn - cái mới”:
Giả sử ngữ cảnh xuất hiện của câu này là có một người nào đó hỏi: “Bao giờ thì các bạn học ngữ pháp tiếng Việt?”. Câu trả lời sẽ được phân tích như sau:
Ngữ pháp tiếng Việt thì chúng tôi sẽ học chiều nay.
CC CC CC CM
Rõ ràng là bốn kiểu cấu trúc trên không trùng nhau.
3. Kết luận
Một câu tiếng Việt hiện nay có thể được phân tích theo bốn phương pháp. Bốn phương pháp này có những điểm tương đồng với nhau, cũng có những điểm khác biệt. Chúng hỗ trợ, bù đắp cho nhau để cuối cùng, nếu chúng ta nắm được cả bốn phương pháp phân tích câu, chúng ta sẽ có được một cái nhìn toàn diện nhất về câu tiếng Việt.
Mỗi phương pháp phân tích câu có những thế mạnh riêng, phụ thuộc vào bình diện mà nó phản ánh.
Lẽ dĩ nhiên, mỗi phương pháp cũng có những hạn chế của nó. Song xét trên từng bình diện nghiên cứu câu một cách độc lập, mỗi phương pháp ấy đã hoàn thành tốt sứ mạng của mình.
Đại từ là từ dùng để xưng hô hay để thay thế DT, ĐT, TT (hoặc cụm DT, cụm ĐT, cụm TT ) trong câu cho khỏi lặp lại các từ ngữ ấy.
* Đại từ dùng để xưng hô (đại từ xưng hô , đại từ xưng hô điển hình ) : Là từ được người nói dùng để tự chỉ mình hay chỉ người khác khi giao tiếp .
Đại từ xưng hô thể hiện ở 3 ngôi :
- Đại từ chỉ ngôi thứ nhất ( chỉ người nói ) : tôi, ta, tớ, chúng tôi, chúng ta,...
- Đại từ chỉ ngôi thứ hai ( chỉ người nghe ) : mày, cậu, các cậu, ...
- Đại từ chỉ ngôi thứ ba ( người được 2 người ở ngôi thứ nhất và thứ 2 nói tới) : họ, nó, hắn, bọn họ, chúng nó,...
* Đại từ dùng để hỏi : ai ? gì? nào? bao nhiêu ?...
* Đại từ dùng để thay thế từ ngữ đã dùng cho khỏi lặp : vậy, thế .
Lưu ý : Đại từ có khả năng thay thế cho từ loại nào thì có thể giữ những chức vụ giống như từ loại ấy. Cụ thể :
- Các đại từ xưng hô có khả năng thay thế DT đo đó chúng có thể có chức vụ trong câu như DT.
- Các đại từ vậy, thế có khả năng thay thế ĐT, TT do đó chúng có thể có chức vụ trong câu như ĐT, TT.
- Bên cạnh các đại từ xưng hô chuyên dùng, Tiếng Việt còn sử dụng nhiều DT làm từ xưng hô (gọi là DT chỉ người lâm thời làm đại từ xưng hô). Đó là các DT :
+ Chỉ quan hệ gia đình-thân thuộc : ông, bà,anh, chị, em, con ,cháu,...
+ Chỉ một số chức vụ - nghề nghiệp đặc biệt :chủ tịch, thứ trưởng, bộ trưởng, thầy, bác sĩ, luật sư,...
k mình nha
Là từ mà người nói dùng để tự chỉ mình hay người khác khi xưng hô