Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
a. Lời thoại của Kiều trong văn bản có yếu tố trữ tình và yếu tố tự sự.
b. Đoạn thơ từ dòng thơ 741 đến dòng thơ 756:
– Thuý Kiều đang nói với Thuý Vân mà như đang nói với Kim Trọng (đối thoại với người nghe vắng mặt, vẽ thực chất cũng gần như độc thoại): Trăm nghìn gửi lạy tình quân, Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
– Thuý Kiều đang nói Kim Trọng mà như đang nói với chính mình (độc thoại trong khi đối thoại): Phận sao phận bạc như vôi, Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
– Thuý Kiều đang nói với bản thân rồi lại đột nhiên nói vọng tới Kim Trọng (đối thoại mà như độc thoại): Ơi Kim Lang! Hơi Kim Lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
⇒ Cuối cuộc “trao duyên, dường như Thuý Kiều đã quên đi Thuý Văn đang trước mặt để chỉ nghĩ đến Kim Trọng và sự mất mát lớn lao của bản thân. Lời thoại cho thấy tâm trạng phức tạp của Thúy Kiều trong cuộc trao duyên.
Những lời nói, hành động và lí lẽ của Thúy Kiều để thuyết phục Thúy Vân thay mình trả nghĩa, kết duyên với Kim Trọng:
- Lời nhờ cậy của Kiều:
+ “Cậy”: một thanh trắc với âm điệu nặng nề, gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói, còn mang hàm nghĩa là trông mong, giúp đỡ, hi vọng tha thiết, sự gửi gắm đầy tin tưởng.
+ Chịu: nài ép, bắt buộc, không thể từ chối.
→ Thúy Vân bị ép vào thế dù cho không muốn nhưng cũng phải nhận tình yêu mà Kiều trao.
- Hành động nhờ cậy:
+ “ngồi lên”, “lạy”, “thưa”: Kính cẩn trang trọng với người bề trên hoặc người hàm ơn.
→ Sự thay bậc đổi ngôi, đi ngược với lễ giáo phong kiến nhưng chấp nhận được, bởi: Kiều coi Vân như ân nhân của mình. Kiều trân trọng tình yêu với Kim Trọng. Cách nói đã thể hiện sự thông minh, khéo léo của Thúy Kiều.
- Lí lẽ của Kiều:
+ “Ngày xuân em hãy còn dài” gợi ra tình cảnh ngang trái, khó xử của mình để em thấu hiểu.
+ “Xót tình máu mủ thay lời nước non”: Vân vẫn còn trẻ, còn cả tương lai phía trước.
+ “Thịt nát xương mòn”, “Ngậm cười chín suối”: nói về cái chết đầy mãn nguyện.
→ Cách lập luận hết sức chặt chẽ, thấu tình cho thấy Thúy Kiều là người sắc sảo tinh tế, có đức hi sinh, một người con hiếu thảo, trọng tình nghĩa.
- Biện pháp đối được sử dụng trong đoạn trích: khuân trăng – nét ngài, đầy đặn – nở nang, học – ngọc, cười – thốt, mây – tuyết, thua – nhường, nước tóc – màu da.
- Việc sử dụng biện pháp đối trong trong đoạn trích giúp người đọc hình dung rõ nét chân dung của hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân. Đó là một vẻ đẹp chuẩn mực, lí tưởng của phụ nữ phong kiến.
- Việc “trao duyên” và cuộc trò chuyện giữa chị em Thuý Kiều – Thuý Vân được thuật lại từ ngôi thứ ba.
- Dấu hiệu nhận biết:
+ Sự phân biệt giữa lời của người kể chuyện (bốn dòng thơ đầu, từ “rằng”, hai dòng thơ cuối) và lời của nhân vật (đánh dấu bằng dấu hai chấm, dấu gạch ngang và trích dẫn nguyên văn lời của các nhân vật).
+ Cách người kể chuyện gọi tên nhân vật (“Thuý Vân”) và cách thuật lại nguyên văn từ ngữ xưng gọi “chị”, “em” giữa hai chị em Thuý Kiều – Thuý Vân.
+ Miêu tả cụ thể, chi tiết nội tâm, hành động, biểu cảm, tâm trạng của Thúy Kiều - Thúy Vân.
+ Người kể chuyện không hề xưng “tôi”, “chúng tôi” khi trần thuật.
- Đoạn Trao duyên là lời của Thúy Kiều nói với Thúy Vân, với chính mình và với Kim Trọng.
- Diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều qua sự chuyển đổi lời thoại: tâm trạng giằng xé đầy mâu thuẫn, đau đớn tột cùng khi không trọn vẹn trong tình yêu và lời thề với Kim Trọng. Trò chuyện với chính mình, Kiều đã trách thân phận, có duyên mà không có phận với chàng Kim “phận bạc như vôi” và xác định rằng cuộc đời mình sẽ là “nước chảy hoa trôi lỡ làng”.
Tham Khảo
* Sự khác biệt đến mức đối lập về quan điểm giữa Hồn Trương Ba và Đế Thích được thể hiện qua những lời thoại tiêu biểu như:
- Đế Thích: Với ông, được sống là tốt rồi nên sống dù đôi khi người ta không được là chính mình vẫn không sao. Do đó, ông đã nói với Trương Ba: "Ông phải sống, dù với bất cứ giá nào".
- Trương Ba: Với ông, được sống là chính mình mới là tuyệt vời nhất. Do đó, ông đã nói với Đế Thích rằng "tôi muốn được là tôi toàn vẹn", "không thể sống với bất cứ giá nào được"). Sống không là mình toàn vẹn "còn khổ hơn là cái chết".
- Trương Ba đã trách Đế Thích rằng: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!” rất đúng đắn vì sự sống chỉ có ý nghĩa khi con người được sống là chính mình một cách toàn vẹn. Việc Trương Ba sống dựa vào xác hàng thịt đã khiến hồn ông trở thành nô lệ cho thân xác và không được sống thật với con người mình.
* Sự khác biệt này có vai trò thúc đẩy cao trào trong việc xây dựng xung đột kịch, nhấn mạnh quan niệm sống của Trương ba.
Nếu có ai hỏi tôi rằng :" sau này ra xã hội cần có gì " . Tôi sẽ đáp rằng :" Phải biết đối nhân xử thế ". Đối nhân là đối xử với mọi người , xử thế là xử lý những tình huống trong cuộc sống . " Đối nhân xử thế " đóng vai trò rất quan trọng với chúng ta , nó sẽ giúp chúng ta biết khéo léo và trưởng thành hơn , sẽ dẫn dắt chúng ta trên con đường dài của cuộc đời . Đó là vũ khí mạnh mẽ nhất của con người trong các mối quan hệ giữa người với người . Phải chăng , điều đó sẽ giúp cho con người ta thêm phần phát triển , cũng nhờ vào việc biết " đối nhân xử thế " mà con người ta càng thêm thành công trong cuộc sống ? . Sống trong xã hội đầy cạnh tranh như thế , biết đối nhân xử thế là điều quan trọng mà chúng ta ai cũng phải có . Từ nhỏ , ai chẳng được cha mẹ nhẹ nhàng dạy rằng phải biết nhường nhịn bạn bè , mọi người xung quanh khi thấy ai gặp hoạn nạn khó khăn phải biết giúp đỡ , khi thấy người lớn đến nhà thì cần phải chào . Đó là "đối nhân ". Hơn cả thế , khi đến trường thầy cô dạy môn giáo dục công dân bao giờ cũng đưa ra các tình huống thực tế trong cuộc sống và hỏi ta :" Nếu em gặp tình huống như thế , em sẽ làm gì?" . Đó là " xử thế . '' Đối nhân " và " xử thế " có phải rằng chúng rất quan trọng , cần thiết và đúng đắn nên cha mẹ và nhà trường mới dạy cho ta từ khi còn nhỏ như vậy. Nó là điều mà không phải ai ai cũng biết , ta cần được dạy dỗ , từ đó mới hình thành nên giá trị bản thân của con người . Cũng từ đó mà ra được những tinh chất tính cách tao nhã , đầu óc thông minh và nhạy bén của con người . Một số người có lẽ không quá quan tâm đến việc đối nhân xử thế vì cho rằng điều đó câu nệ , không cần thiết và thừa thãi với họ . Thế nhưng ,việc chúng ta " đối nhân" ra sao sẽ thể hiện ta là con người có học , có được dạy dỗ , có giá trị riêng của bản thân , có sự thông minh và đẹp đẽ toát ra từ bản thân mình . Việc " xử thế " của chúng ta như thế nào sẽ thể hiện ta là một người khéo léo, tài giỏi hoặc thể hiện ta là người khù khờ và thiếu tinh tế . Đối đãi với người khác ra sao, xử lý những tình huống như thế nào là những bài học cực kỳ ý nghĩa và thiết thực. Và chúng ta phải rèn luyện suốt cả cuộc đời chứ không phải học trong ngày một, ngày hai. Cuộc sống sẽ trở nên dễ dàng và tốt đẹp hơn . Nếu chúng ta biết " đối nhân xử thế " .
- Cuộc trò chuyện giữa Đức Giám mục Cri-xan phơ và Pê-xcốp nhiều lần được thuật lại chỉ bằng một lời thoại dưới dạng những câu hỏi tiếp nối nhau. Nhưng người đọc có thể nghe được cả câu hỏi của Giám mục và câu trả lời của nhân vật cậu bé Pê-xcốp.
- Tác dụng: Làm tăng nhịp độ đối thoại và làm nổi bật cách làm chủ tình hình và cách nói năng thân mật đi thẳng vào lòng người của nhân vật Giám mục Cri-xan-phơ, tạo bước chuyển trong các cư xử của mọi người với cậu bé.
- Lời “ân cần hỏi han” của Thuý Vân là một cách mang lại tình cảm chị em ấm áp đối với người chị đang rất mực cô đơn với gánh nặng tinh thần chưa biết chia sẻ cùng ai.
- Lời của Thuý Vân đã tạo một tình huống, cơ hội tự nhiên cho Thuý Kiều kể chuyện, bày tỏ nỗi lòng.
- 'Thuý Kiều được lời như cởi tấm lòng, mạnh bạo, tự tin để trao duyên, nhờ em thay mình lấy Kim Trọng.
- Thuý Vân chỉ ăn cẩn hỏi han rồi lặng lẽ, chăm chú lắng nghe (không ngắt lời chị), nhờ đó câu chuyện và ý nguyện “trao duyên” của Kiều được biểu đạt đầy đủ, trọn vẹn (đến mức nói xong nàng ngất đi).