K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

II. PHẦN VIẾT (6 ĐIỂM) Câu 1. Viết đoạn văn khoảng 200 chữ phân tích vẻ đẹp của con sông Đà trong đoạn trích sau:     Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi...
Đọc tiếp

II. PHẦN VIẾT (6 ĐIỂM)

Câu 1. Viết đoạn văn khoảng 200 chữ phân tích vẻ đẹp của con sông Đà trong đoạn trích sau:

    Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi không chớp mắt lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bung trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông Đà bọt nước lênh đênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên.

(Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân, Nguyễn Tuân toàn tập, tập IV, NXB Văn học, Hà Nội, 2000)

Câu 2. Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày tỏ ý kiến của anh/chị về vấn đề ý thức tự học ở giới trẻ.

0
5 tháng 1 2022

- Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông có sự am hiểu và gắn bó sâu sắc với cuộc sống nông thôn và hầu như chỉ viết về đề tài sinh hoạt ở làng quê cùng cảnh ngộ của người nông dân.
- Truyện ngắn “Làng” một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của đời văn Kim Lân nói riêng và của nền văn học kháng chiến chống Pháp nói chung - sáng tác đầu kháng chiến, được in năm 1948.
- Truyện đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai với tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến hài hòa, nồng thắm. Điều đó được đặc biệt thể hiện trong đoạn đối thoại của ông Hai với con trai mình – thằng cu Húc

B. Phân tích
1. Khái quát tình huống truyện, vị trí đoạn trích
- Khi kháng chiến chống Pháp nổ ra: ông Hai muốn ở lại làng để tham gia kháng chiến nhưng vì hoàn cảnh gia đình buộc ông phải rời làng đi tản cư, lòng ông luôn day dứt nỗi nhớ làng.
- Nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống có ý nghĩa: là một nông dân suốt đời sống ở quê hương, gắn bó máu thịt với từng con đường, nếp nhà, thửa ruộng và biết bao nhiêu người ruột thịt, xóm giềng. Vậy mà vì giặc ngoại xâm, ông phải rời xa quê hương đi tản cư, sống nhờ nơi đất khách. Do đó, lòng ông luôn đau đáu nỗi nhớ quê. Ban ngày lo sản xuất, ổn định cuộc sống, nhưng buổi tối lại sang hàng xóm giãi bày nỗi nhớ của mình. Nỗi nhớ của ông đều bắt nguồn từ những kỉ niệm trong cuộc sống hàng ngày.
- Thế rồi, đột ngột ông nghe tin dữ làng Dầu theo giặc, giữa lúc tâm trạng của ông đang phấn chấn vì nghe những tin thắng trận. Tâm trạng ông trở nên đau đớn, nặng nề, tủi hổ tràn ngập lòng ông. Trước ông Hai hãnh diện, tự hào về làng bao nhiêu thì nay lại đau đớn, nhục nhã bấy nhiêu. Tình huống này buộc ông Hai phải lựa chọn giữa tình yêu làng và tình yêu nước.
- Cao trào tâm trạng của nhân vật cũng là lúc bộc lộ một cách sâu sắc, cảm động nhất tình cảm chân thành, thiêng liêng của ông Hai với quê hương, đất nước, cách mạng. Đó là cảnh ông Hai trò chuyện với đứa con.

2. Phân tích đoạn trích - cuộc trò chuyện giữa ông Hai với thằng cu Húc.
- Trong tâm trạng bi dồn nén bế tắc, ông Hai chỉ còn biết trút nỗi lòng mình vào những lời thủ thỉ, tâm sự với đứa con nhỏ. Ông lựa chọn cách nói chuyện với đứa con út, vì nó nhỏ tuổi, ngây thơ, dễ nói chuyện, dễ bày tỏ.
- Đây là một đoạn đối thoại mà như độc thoại rất cảm động, bộc lộ tấm lòng gắn bó sâu sắc, bền chặt vói quê hương, đất nước, với kháng chiến của ông Hai. Nói với con mà thực chất ông đang tự nhủ với lòng mình, tự giãi bày, tự minh oan.
- Ông khẳng định vói con: “nhà ta ở làng Chợ Dầu"
-> Ông muốn con ghi nhớ Chợ Dầu là quê hương, là gốc gác, không được phép quên. Đây cũng chính là tình cảm gắn bó máu thịt của ông Hai và của hàng triệu người Việt Nam.
- Ông lựa chọn: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”.
-> Tình yêu nước và nhiệt tình ủng hộ kháng chiến của ông Hai. Lựa chọn ấy khiến ông vững vàng hơn và tin rằng đồng bào, đồng chí sẽ hiểu cho ông, cụ Hồ sẽ soi xét cho ông.

* Ý nghĩa đoạn trích:
- Ông muốn khắc sâu tình yêu chợ Dầu vào trái tim bé bỏng của thằng cu Húc và đứa con đã nói hộ lòng ông nỗi nhớ làng.
- Lời tâm sự của ông như một lời thề, một lời nguyện làm vơi bớt phần nào nỗi khổ tâm trong ông Hai. Tình yêu làng, tình yêu nước của ông thật bền chặt, thiêng liêng. Dẫu cả làng theo giặc ông vẫn một lòng theo kháng chiến.

* Giá trị nghệ thuật
- Lối kể chuyện giản dị, tự nhiên, ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ.
- Ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo.
- Kết hợp hài hòa ngôn ngữ độc thoại, đối thoại
- Hình ảnh, chi tiết giàu sức gợi. 

c. Tổng kết
- Ông Hai tiêu biểu cho tầng lớp nông dân thời kì kháng chiến chống Pháp.
- Qua nhân vật ông Hai trong tác phẩm nói chung và trong cuộc trò chuyện với thằng cu Húc nói riêng, tác giả muốn biểu đạt một cách thấm thía, xúc động tình yêu làng, yêu nước sâu sắc của người nông dân trong kháng chiến chống Pháp.
- Tác giả viết bằng trái tim, tình cảm của mình nên dễ tìm được sự đồng cảm từ người đọc.

5 tháng 1 2022

- Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông có sự am hiểu và gắn bó sâu sắc với cuộc sống nông thôn và hầu như chỉ viết về đề tài sinh hoạt ở làng quê cùng cảnh ngộ của người nông dân.
- Truyện ngắn “Làng” một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của đời văn Kim Lân nói riêng và của nền văn học kháng chiến chống Pháp nói chung - sáng tác đầu kháng chiến, được in năm 1948.
- Truyện đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai với tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến hài hòa, nồng thắm. Điều đó được đặc biệt thể hiện trong đoạn đối thoại của ông Hai với con trai mình – thằng cu Húc

B. Phân tích
1. Khái quát tình huống truyện, vị trí đoạn trích
- Khi kháng chiến chống Pháp nổ ra: ông Hai muốn ở lại làng để tham gia kháng chiến nhưng vì hoàn cảnh gia đình buộc ông phải rời làng đi tản cư, lòng ông luôn day dứt nỗi nhớ làng.
- Nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống có ý nghĩa: là một nông dân suốt đời sống ở quê hương, gắn bó máu thịt với từng con đường, nếp nhà, thửa ruộng và biết bao nhiêu người ruột thịt, xóm giềng. Vậy mà vì giặc ngoại xâm, ông phải rời xa quê hương đi tản cư, sống nhờ nơi đất khách. Do đó, lòng ông luôn đau đáu nỗi nhớ quê. Ban ngày lo sản xuất, ổn định cuộc sống, nhưng buổi tối lại sang hàng xóm giãi bày nỗi nhớ của mình. Nỗi nhớ của ông đều bắt nguồn từ những kỉ niệm trong cuộc sống hàng ngày.
- Thế rồi, đột ngột ông nghe tin dữ làng Dầu theo giặc, giữa lúc tâm trạng của ông đang phấn chấn vì nghe những tin thắng trận. Tâm trạng ông trở nên đau đớn, nặng nề, tủi hổ tràn ngập lòng ông. Trước ông Hai hãnh diện, tự hào về làng bao nhiêu thì nay lại đau đớn, nhục nhã bấy nhiêu. Tình huống này buộc ông Hai phải lựa chọn giữa tình yêu làng và tình yêu nước.
- Cao trào tâm trạng của nhân vật cũng là lúc bộc lộ một cách sâu sắc, cảm động nhất tình cảm chân thành, thiêng liêng của ông Hai với quê hương, đất nước, cách mạng. Đó là cảnh ông Hai trò chuyện với đứa con.

2. Phân tích đoạn trích - cuộc trò chuyện giữa ông Hai với thằng cu Húc.
- Trong tâm trạng bi dồn nén bế tắc, ông Hai chỉ còn biết trút nỗi lòng mình vào những lời thủ thỉ, tâm sự với đứa con nhỏ. Ông lựa chọn cách nói chuyện với đứa con út, vì nó nhỏ tuổi, ngây thơ, dễ nói chuyện, dễ bày tỏ.
- Đây là một đoạn đối thoại mà như độc thoại rất cảm động, bộc lộ tấm lòng gắn bó sâu sắc, bền chặt vói quê hương, đất nước, với kháng chiến của ông Hai. Nói với con mà thực chất ông đang tự nhủ với lòng mình, tự giãi bày, tự minh oan.
- Ông khẳng định vói con: “nhà ta ở làng Chợ Dầu"
-> Ông muốn con ghi nhớ Chợ Dầu là quê hương, là gốc gác, không được phép quên. Đây cũng chính là tình cảm gắn bó máu thịt của ông Hai và của hàng triệu người Việt Nam.
- Ông lựa chọn: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”.
-> Tình yêu nước và nhiệt tình ủng hộ kháng chiến của ông Hai. Lựa chọn ấy khiến ông vững vàng hơn và tin rằng đồng bào, đồng chí sẽ hiểu cho ông, cụ Hồ sẽ soi xét cho ông.

* Ý nghĩa đoạn trích:
- Ông muốn khắc sâu tình yêu chợ Dầu vào trái tim bé bỏng của thằng cu Húc và đứa con đã nói hộ lòng ông nỗi nhớ làng.
- Lời tâm sự của ông như một lời thề, một lời nguyện làm vơi bớt phần nào nỗi khổ tâm trong ông Hai. Tình yêu làng, tình yêu nước của ông thật bền chặt, thiêng liêng. Dẫu cả làng theo giặc ông vẫn một lòng theo kháng chiến.

* Giá trị nghệ thuật
- Lối kể chuyện giản dị, tự nhiên, ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ.
- Ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo.
- Kết hợp hài hòa ngôn ngữ độc thoại, đối thoại
- Hình ảnh, chi tiết giàu sức gợi. 

c. Tổng kết
- Ông Hai tiêu biểu cho tầng lớp nông dân thời kì kháng chiến chống Pháp.
- Qua nhân vật ông Hai trong tác phẩm nói chung và trong cuộc trò chuyện với thằng cu Húc nói riêng, tác giả muốn biểu đạt một cách thấm thía, xúc động tình yêu làng, yêu nước sâu sắc của người nông dân trong kháng chiến chống Pháp.
- Tác giả viết bằng trái tim, tình cảm của mình nên dễ tìm được sự đồng cảm từ người đọc.

3 tháng 2 2018

a, Vẻ đẹp của người phụ nữ trong hai tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương và Truyện Kiều

- Đẹp về cả nhan sắc và tâm hồn:

    + Kiều: hiếu thảo với cha mẹ, thủy chung với người yêu

    + Vũ Nương: thủy chung với chồng, chăm sóc mẹ già, và con nhỏ chu đáo

    + Luôn nhân hậu, vị tha, có khát vọng về hạnh phúc, công lý, chính nghĩa

b, Bi kịch

- Đau khổ, oan khuất:

    + Vũ Nương bị nghi oan, không minh oan được, phải gieo mình xuống dòng Hoàng Giang

    + Tình yêu tan vỡ: Thúy Kiều không thể trọn vẹn mối tình với Kim Trọng, cuộc đời Kiều lưu lạc 15 năm, trải qua nhiều cay đắng, đau khổ

- Nhân phẩm bị chà đạp: Vũ Nương bị chồng mắng mỏ, phải tự vấn. Thúy Kiều bị coi như món hàng hóa.

11 tháng 3 2016

               Sông Đà qua ngòi bút Nguyễn Tuân không phải là một dòng sông vô tri vô giác mà là một sinh thể có tính cách, cá tính, có tâm trạng và hoạt động. nhà văn đã nắm bắt được hai nét tính cách cơ bản của sông Đà và gọi đó là con sông : “hung bạo và trữ tình”.

           Cái vẻ hùng vĩ, dữ tợn của con sông Đà trước hết thể hiện ở cái diện mạo bên ngoài của nó: những thác đá, những cảnh đá ở bờ sông dựng vách thành , ngàn cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,… những hút nước ghê rợn,… Miêu tả con sông Đà, nhà văn đã sử dụng những cách ví von độc đáo, gây cảm giác lạ, đập mạnh vào giác quan người đọc, vận dụng tri thức của điện ảnh (đoạn miêu tả cảnh Tà Mường Vát). Tính cách hung bạo của con sông Đà càng bộc lộ rõ hơn trong cảnh thác nước dữ dội như chặn đánh, tiêu diệt người lái đò. Cảnh thác nước được miêu tả từ xa tới gần :còn xa, đã nghe tiếng nước “réo gầm mãi réo to mãi lên”.  Tiếng thác như “oán trách” khi như “van xin”, khi như “khiêu khích”, giọng gằn mà “chế nhạo”. §ến gần thì nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đnag phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”, khi tới thác rồi, ở ngoặt khúc sông lượn, thấy “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân giời đá”.

             Con sông Tây Bắc ở đoạn này giống như một loài thủy quái khôn ngoan, giảo quyệt, nham hiểm và hung ác. Con sông quái ác như “bày thạch trận trên sông” : khi ẩn nấp mai phục, khi lừa miếng đánh lối du kích, khi lật cánh đánh quật lại theo lối vu hồi, khi “liều mạng” đánh dồn dấp tứ phía, khi đánh “miếng đòn hiểm độc nhất”…đoạn văn đặc sắc này tác giả chủ yếu sử dụng nghệ thuật quân sự , võ thuật để miêu tả tính chất hung bạo của con sông. Ngôn ngữ sinh động giàu chất tạo hình.

             Khi bộc lộ tính cách trữ tình, con sông Đà lại là một dòng sông đầy chất thơ, trở nên thân thiết với con người. Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi mèo đốt nương xuân”.

             Tác giả đã say sưa ngắm nhìn  con sông Đà qua làn mây mùa thu và mùa xuân. Mùa xuân dòng sông “xanh ngọc bích”, mùa thu nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ”.Trong mắt Nguyễn Tuân con sông Đà như một “cố nhân” khi xa thì gợi thương gợi nhớ. Ngòi bút của tác giả trở nên đằm thắm dịu dàng khi miêu tả cảnh ven sông lặng lờ, tĩnh không một bóng người, hoang vắng nhưng đầy thi vị. “Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng như tờ đến thế mà thôi”. Tác giả dùng hàng loạt những hình ảnh gợi cảm và thi vị. Con hươu vểnh tai ngơ ngác vừa nghe thấy một tiếng còi sương. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bung trắng như bạc rơi thoi. Dòng sông Đà khi thì phảng phất cái không khí của thời tiền sử, khi thì “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích”. Khi lai láng chất thơ tình tứ của Tản Đà gởi người “tình nhân chưa quen biết”.

 

12 tháng 10 2021

tham khảo và viết có chọn lọc nha, bài không hay lắm đâu

   Nhân vật Thúy Vân trong văn bản 'chị em Thúy Kiều ' là một người con gái hiện lên với một vẻ đẹp toàn diện. Vẻ đẹp đó được tác giả miêu tả trong hai câu 'hoa cười ngọc thôt đoan trang' và 'mây thua nước tóc tuyết nhường mầu da'. Câu 'hoa cười ngọc thốt đoan trang' trong đó tác giả đa lây hai biểu tượng mang vẻ đẹp thần khiết là 'hoa' và 'ngọc' cũng như muốn nói đến vẻ đẹp thần khiết của Thúy Vân. Câu ;'mây thua nước tóc tuyết nhường nầu da' là muốn so sánh vẻ đẹp bên ngoai của Van với một mầu da trắng đến nỗi tuyến cũng phải nhú nhường, may cũng phải thua mái tóc của Vân. từ những điều đó cho ta thẩy một vẻ đẹp thần khiết đến từ tâm hồnvà một vẻ đẹp lộng lẫy toát lên từ Thúy Vân

8 tháng 5 2021

12 câu sau: Nguyễn Du đã miêu tả vẻ đẹp và tài năng của Thúy Kiều bằng thủ pháp đòn bẩy, nghệ thuật ước lệ, liệt kê, dự báo về số phận tương lai của nhân vật thông qua những chi tiết miêu tả.

- Sau khi miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân, tác giả miêu tả vẻ đẹp nhan sắc và tài năng của Thúy Kiều. Mặc dù Kiều là chị nhưng lại được miêu tả sau. Đây chính là dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Du, sử dụng thủ pháp đòn bẩy, miêu tả cô em trước để làm nền cho Thúy Kiều nổi bật.

-                              “Kiều càng sắc sảo mặn mà

                                  So bề tài sắc lại là phần hơn”

Với việc sử dụng từ láy “sắc sảo”, “mặn mà” có tính chất gợi tả để nhấn mạnh Kiều sắc sảo về mặt trí tuệ và mặn mà trong tình cảm. So với Vân, Kiều đẹp hơn và có tài hơn rất nhiều.

- Khi miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả không liệt kê nhiều chi tiết như khi miêu tả Thúy Vân mà chỉ tập trung vào đôi mắt, bởi đôi mắt là cửa sổ tâm hồn.

                                  “Làn thu thủy, nét xuân sơn

                         Hoa hen thua thắm, liễu hờn kém xanh”

Bút pháp ước lệ cùng nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa đã họa nên đôi mắt của Thúy Kiều long lanh như làn nước mua thu. Đôi mắt ấy ẩn dưới đôi lông mày đẹp, sắc nét nhưng thanh thoát như dáng núi mùa xuân. Vẻ đẹp của Kiều khiến cho “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”, một vẻ đẹp khiến cho các vẻ đẹp khác phải ganh ghét, đố kị. Và điều này cũng dự báo trước một tương lai không mấy tốt đẹp, nhiều đau khổ của Kiều, vì “hồng nhan bạc phận”.

- Miêu tả Thúy Kiều, Nguyễn Du không chỉ miêu tả nhan sắc mà còn tập trung vào tài năng của nàng: 

                   “Một hai nghiêng nước nghiêng thành

                     Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”

- Tác giả đã sử dụng thành ngữ kết hợp với điển tích, lấy ý của câu “nghiêng nước nghiêng thành” để nói sắc đẹp của Thúy Kiều làm người ta say mê đến đổ thành, mất nước. Nhan sắc ấy chỉ mình Kiều có được, còn tài năng thì họa chăng trong thiên hạ có đến người thứ hai. Cũng chính vì vậy, tác giả sử dụng đến sáu câu thơ liền để miêu tả tài năng của Kiều:

        “Thông minh vốn sẵn tính trời

       Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

         Cung thương làu bậc ngũ âm

   Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương

        Khúc nhà tay lựa nên chương

   Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân” 

- Ở những câu thơ trên, tác giả đã sử dụng bút pháp liệt kê để ca ngợi tài năng của Kiều, nàng đa tài, thông thuộc từ cầm, kì đến thi, họa…. Kiều biết chơi cờ, đánh đàn, làm thơ, vẽ tranh… Tài năng nào của nàng cũng đạt đến mức tuyệt đỉnh và do thiên bẩm. Tác giả sử dụng một loạt các từ “vốn sẵn”, “đủ mùi”, “làu bậc”, “ăn đứt” để khẳng định các tài năng của Kiều đều đạt tới đỉnh cao. Đặc biệt, Kiều rất giỏi về nhạc, thuộc lòng các cung bậc, nắm vững năm nốt cung, thương, dốc, chủy, vũ của âm giai nhạc cổ. Kiều thường chơi đàn tì bài, ngoài tài đàn, nàng còn giỏi về sáng tác. Nàng đã soạn riêng cho mình khúc nhạc có tên “Bạc mệnh” và mỗi khi Kiều gảy khúc nhạc ấy, ai nghe thấy cũng sầu não, chau mày, rơi lệ. Điều đó thể hiện Kiều là người có trái tim đa sầu, đa cảm. Tài năng của Kiều cũng dự báo trước một tương lai nàng sẽ gặp phải nhiều sóng gió, bất hạnh bởi “chữ tài liền với chữ tai một vần”. Như vậy, vẻ đẹp của Thúy Kiều là sự tổng hòa của sắc, tài, tình.

8 tháng 5 2021

- Miêu tả Thúy Vân trước rồi mới đến Thúy Kiều bởi: tác giả muốn làm nổi bật vẻ đẹp ngoại hình, tài năng và tâm hồn của Kiều so với Vân.

- Thủ pháp đòn bẩy được thể hiện rõ trong ý đồ so sánh của Nguyễn Du. Theo quan niệm phong kiến, Thuý Kiều là chị lẽ ra phải được giới thiệu trước Thuý Vân thế mới đúng trật tự quan hệ thứ bậc trong các gia đình thời phong kiến. Nhưng Nguyễn Du đã có chủ ý giới thiệu vẻ đẹp chân dung Thuý Vân trước bởi muốn dùng bức chân dung Thuý Vân làm đòn bẩy để khắc sâu, tô đậm, tạo ấn tượng sâu sắc với người đọc về bức chân dung Thuý Kiều. Hai từ “càng”, “hơn” điệp ý so sánh, muốn nhấn mạnh sự nổi bật, sự hơn hẳn về tâm hồn, vượt trội về tài sắc của Kiều so với Vân. 

13 tháng 7 2020

*Vẻ đẹp của Thúy Vân:

“Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.”

+Khuôn trăng đầy đặn : khuôn mặt tròn trĩnh , phúc hậu

+Nét ngài nở nang : lông mày đậm

+Hoa cười ngọc thốt : nụ cười tươi tắn như hoa , giọng nói trong trẻo như ngọc

+Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da : Nước  tóc đẹp hơn mây , da trắng hơn tuyết

=> Bằng bút pháp ước lệ ,liệt kê , ẩn dụ cùng với các từ ngữ miêu tả vô cùng đặc sắc , tác giả Nguyễn Du đã khắc họa thành công vẻ đẹp nhẹ nhàng,thùy mị , đoan trang , phúc hậu , quý phái của Thúy Vân :'' khuôn mặt của Thúy Vân tròn trĩnh , phúc hậu , nụ cười của nàng thì tươi như hoa , giọng nói của nàng trong trẻo như ngọc ,lông mày hình cánh cung nở nang , viên mãn ,nước tóc đẹp hơn mây làn da trắng như tuyết.''Đồng thời , tính từ ''thua , nhường'' dự báo một tương  lai êm đềm , suôn sẻ .

*Vẻ đẹp của Thúy Kiều :

“Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn.

Làn thu thủy nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.

Một hai nghiêng nước nghiêng thành,

Sắc đành đòi một tài đành họa hai.

Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

Khúc nhà tay lựa nên chương,

Một thiên “bạc mệnh” lại càng não nhân.”

+ Tác giả miêu tả khái quát Kiều : ''sắc sảo về trí tuệ , mặn mà về tài năng , tâm hồn'' ( sắc sảo mặn mà)

+Đôi mắt : trong như nước mùa thu.

+Lông mày : thanh tú , đẹp như nét núi mùa xuân.

+Dùng điền cố ''Nghiêng nước nghiêng thành'' nhằm diễn tả vẻ đẹp hoàn hảo , đầy sức lôi cuốn mạnh mẽ của Kiều.

+Đặc biệt , tác giả Nguyễn Du còn gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều tuyệt đối đến mức thiên nhiên còn phải ''hờn,ghen'' Vẻ đẹp đó lại đối lập với Thúy Vân.Nếu Thúy Vân ''khiêm nhường'' thì ngược lại , Thúy Kiều lại khiến thiên nhiên phải ''hờn , ghen''.

+Chính tính từ ''hờn ,ghen'' đã dự báo  số phận long đong , lận đận , bị vùi dập của Thúy Kiều

Tác giả Ngô Tất Tố là nhà văn của những người nông dân. Ông là nhà văn xuất sắc, tiêu biểu của trào lưu văn học hiện thực phê phán trước cách mạng tháng Tám. Nói đến Tắt đèn là chúng ta nhớ đến nhân vật chị Dậu. Đó là một người phụ nữ nông dân nghèo khổ, cần cù lao động, giàu tình thương yêu chồng con, dũng cảm chống lại cường hào.

Với đoạn trích Tức nước vỡ bờ, ông dã phản ánh lại cảnh thu thuế của xã hội ngày xưa đồng thời qua đó ông muốn lên án, phê phán chế độ thực dân nửa phong kiến bất công vô nhân đạo. Cảnh Tức nước vỡ bờ dã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về nhân vật chị Dậu - một người phụ nữ điển hình biểu tượng cho người phụ nữ Việt Nam.

Hoàn cảnh của chị Dậu thật đáng thương. Chị phải bán chó, bán khoai và đứt ruột bán đứa con bảy tuổi để đủ tiền nộp sưu cho chồng. Tưởng mọi chuyện đã xong và anh Dậu được về nhà nhưng bọn chúng lại còn bắt chị nộp thêm tiền sưu cho chú em chồng đã chết. Nộp một suất đã làm cho chị khổ lắm rồi nay nộp thêm suất nữa thì chị lấy đâu ra khoai, lấy đâu ra chó, lấy đâu ra con để bán mà nộp bây giờ? Anh Dậu bị ốm, bị trói suốt ngày đêm, anh ngất xỉu như cái xác chết. Bọn cường hào cho người vác anh Dậu về trả lại cho chị Dậu. Đau khổ, tai họa chồng chất, đè nặng lên người chị làm cho chị khốn đốn vô cùng.

Cuộc đời là vậy, chị làm chăm chỉ, cần cù lao động quần quật nhưng chị vẫn nghèo, vẫn khổ, vẫn đói. Thế nhưng chị Dậu là một người vợ, một người mẹ giàu tình thương yêu chồng con. Khi anh Dậu được trả về với cái xác không hồn chị đã tìm mọi cách cứu chữa cho chồng. Hàng xóm kéo đến an ủi, người cho vay gạo nấu cháo... Tiếng trống, tiếng tù và đã nổi lên. Chị Dậu cất tiếng khẩn khoản, tha thiết mời chồng: Thầy em cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xốt ruột. Lời người dàn bà nhà quê mời chồng ăn lúc hoạn nạn chứa đựng biết bao tình thương yêu, an ủi, vỗ về. Cái cử chỉ của chị Dậu bế cái Tỉu cố ý chờ xem chồng ăn cổ ngon miệng hay Không đã biểu lộ sự săn sóc và yêu thương của người vợ vởi người chồng đang đau ốm, tính mạng đang bị bọn cường hào de dọa.

Chị Dậu là một người phụ nữ cứng cỏi, dũng cảm, có tinh thần phản kháng chống cường quyền mặnh liệt. Bọn cai lệ và tên hầu cận lý trưởng với tay thước, tay roi, dây thừng lại sầm sập xông vào nhà chị Dậu thét trói kẻ thiếu sưu. Anh Dậu vừa run rẩy kề miệng vào bát cháo, nghe tiếng thét của tên cai lệ anh đã lăn đùng xuống phản. Tên cai lệ gọi anh Dậu là thằng kia, hắn trợn ngược hai mát quát chị Dậu : Mày định nói cho chú mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà cũng mở mồm xin khất. Chị Dậu đã hạ mình van xin, lúc thì run run, xin khất, lức thì thiết tha xin ông trông lại. Chị Dậu càng van xin thì bọn chúng càng hung hăng, dữ tợn hơn. Tên cai lệ đùng đùng... giật phát cái dây thừng trong tay anh hầu cận lý trưởng, hắn chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu để bắt trói điệu ra đình chị Dậu van xin hắn tha cho... thì hắn bịch luôn vào ngực chị mấy bịch, tát đánh bốp vào mặt chị rồi nhảy vào cạnh anh Dậu.

Trước thái độ của bọn cường hào, mọi sự nhẫn nhục đều có giới hạn. Để bảo vệ tính mạng cho chồng và nhân phẩm của bản thân, chị Dậu đã kiên quyết chống cự chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ. Không chịu lui bước, chị Dậu nghiến hai hàm răng như thách thức: mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem.

Tư thế của chị Dậu có một bước nhảy vọt. Từ chỗ nhún mình tự gọi là cháu xưng ông, sau đó lại là tôi với ồng cuối cùng là bày chồng bà với mày. Chị Dậu đã phản kháng. Tên cai lệ bị chị túm lấy cổ, ấn dúi ra cửa làm cho bọn chúng ngã chỏng quèo. Tên hầu cận lý trưởng bị chị túm tóc lẳng cho một cái ngã nhào ra thềm. Với chị nhà tù thực dân chẳng làm cho chị run sợ.

Ngô Tất Tố đã hả hê khi tả cảnh chị Dậu cho tên cai lệ và tên hầu cận lý trưởng một bài học đích đáng, ông đã chỉ ra một quy luật tất yếu trong xã hội có áp bức, có đấu tranh.

Ngô Tất Tố đã miêu tả một cách rất chân thực, đã xây dựng một đoạn văn như một màn kịch vừa có bi vừa có hài. Cách sử dụng ngôn ngữ đối thoại nhuần nhuyễn, hợp lý, sử dụng lời ăn tiếng nói rất bình dị của đời sống hàng ngày. Mỗi nhân vật đều có ngôn ngữ riêng để thể hiện tính cách của mình. Ông đã thành công trong việc khắc họa nhân vật điển hình : chị Dậu - một người phụ nữ cần cù, chịu khó và có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, mang những vẻ đẹp của người phụ nữ nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.

28 tháng 8 2019

Giai đoạn 1936-1939, văn đàn Việt Nam xuất hiện nhiều tác phẩm có giá trị, ình thành một trào lưu văn học hiện thực phê phán mạnh mẽ xã hội và phản ánh sinh động cụ thể những nỗi đau khổ, lầm than của nhân dân Việt trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ngô Tất Tố là một cây bút hiện thực phê phán xuất sắc của dòng văn học này. “tắt đèn” là một tác phẩm thành công nhất của ông. Đó là một bản cáo trạng lên án chế độ thối nát của bọn thực dân nửa phong kiến, đồng thời xây dựng hình tượng nhân vật chị Dậu tiêu biểu cho người phụ nữ nông dân Việt nam với những phẩm chất tốt đẹp.

Đoạn trích “tức nước vỡ bờ” kể lại sau khi anh Dậu bị ngất ở sân đình, sợ bị vạ lây bọn tay sai đem anh trả về gia đình như một cái xác chết. Chị Dậu cùng bà con hang xóm ra sức chăm sóc cho anh. Chị vô cùng đau đớn xót xa lo lắng cho mạng sống của chồng. Chị ân cần chăm sóc từng giấc ngủ, bữa ăn cho anh Dậu. trong lúc anh Dậu đau nặng, chị rón rén bưng bát cháo lớn đến chỗ chồng nằm và dịu dàng nói “ Thầy hãy cố dậy híp một ít cháo cho đỡ xót ruột”. rõ rang cị tận tụy, hết lòng chăm sóc chồng. Việc làm của chị xuất phát từ tấm lòng yêu thương chân thành sâu sắc của người vợ. chị cố ngồi xem chồng có ăn ngon miệng không. Hình ảnh này khiến ta liên tưởng đến bà Tú, vợ Tú Xương cũng tần tảo, đảm đang lo lắng hi sinh tất cả cho chồng con

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Những tình cảm cao đẹp đó chính là đặc điểm tiêu biểu nhất của người phụ nữ Việt Nam. Cũng chính vì tình cảm vợ chồng cao đẹp, chị Dậu đã dung cảm đấu tranh chống lại bọn tay sai để bảo vệ người chồng yêu quý. Khi anh Dậu run rẩy bê bát cháo lên thì bọn cai vệ và người nhà lí trưởng rầm rập kéo vào với những roi song, tay thước, dây thừng. Chúng chưa hành hung nhưng mồm vẫn chửi bới mỉa mai. Đối phó với hoàn cảnh bất ngờ đó, thái độ ban đầu cảu chị Dậu hoàn toàn bị động, chị run rẩy van xin thiết tha: “khốn nạn nhà cháy đã không có, dẫu ông có chửi mắng cũng thế thôi, xin ông trông lại”. Chị đã hạ mình nhẫn nhục xưng hô ông- cháu để bảo vệ tính mạng cho chồng. Nhưng chúng nào có nghe, bọn tay sai vẫn hung hang xông tới. bọn chúng giật phắt dây thừng, đùng đùng chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu. đến giờ phút này, trước sự ức hiếp tàn bạo của chúng, chị không còn nhẫn nhục được nữa, rõ rang nước càng tức càng vỡ bờ, chị đã chủ động đấu tranh chống lại kẻ thù. Tinh thần phản kháng biểu hiện ở thái độ hành động. chị xám mặt lại và cách xưng hô cũng thay đổi dần. lần cuối chị không gọi chúng bằng ông và xưng con cháu nữa mà là mày-bà, chị đã tự đặt mình lên trên kẻ thù và giành lại thế chủ động: “mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem”. Hành động cảu chị quyết liệt và nhanh như cắt chị nắm ngay gậy của hắn, túm tóc lẳng cho một cái ngã nhào ra thềm.

Câu nói đầy vẻ thách thức cùng hành động quyết liệt vừa là biểu hiện của long thương chồng vừa cho thấy sự dung cảm, tinh thần đấu tranh quyết liệt cảu chị. Rõ rang “tức nước vỡ bờ”. câu nói đầy khí phách của chị Dậu “Thà ngồi tù chứ để cho bọn chúng làm tình làm tội mãi thế tôi không chịu được” biểu hiện mãnh liệt sức phản kháng, lòng căm thù giai cấp chất chứa lâu nay. Bao nhiêu nỗi tủi nhục bấy lâu cam chịu giờ đây không còn dằn ra được nữa, nhất là chúng cố tình hành hạ anh Dậu. chị đã lấy thân che chở chồng mà cũng không yên, cuối cùng chị vùng lên đấu tranh chống lại áp bức với một sức mạnh quật khởi của lòng căm thù

Hành động của chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ chứng minh “ở đây có áp bức ở đó có đấu tranh”. Sự phản kháng của chị Dậu cũng là biểu hiện tinh thần đấu tranh chống áp bức, dù mang tính chất tự phát nhưng vẫn thể hiện một tiềm lực tốt của giai cấp nông dân. Khi có sự lãnh đạo cảu Đảng giai cấp nông dân vùng lên đấu tranh với sức mạn quật khởi bằng ý thức tự giác cách mạng.

Với nghệ thuật miêu rả tính cách nhân vật qua các diễn biến căng thẳng của tình tiết Ngô Tất Tố đã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu. đó là hình tượng chân thực, đẹp đẽ về người phụ nữ nông dân trước Cách mạng tháng Tám có lòng yêu thương chồng con, có tinh thần đầu tranh dung cảm chống mọt áp bức, bất công của chế độ thực dân nửa phong kiến

BÀI LÀM 2: PHÂN TÍCH CẢM NGHĨ CẢM NHẬN VỀ NHÂN VẬT CHỊ DẬU TRONG ĐOẠN TRÍCH TỨC NƯỚC VỠ BỜ CỦA NGÔ TẤT TỐ
Ngô Tất Tố là bậc thầy trong làng văn học hiện thực giai đoạn trước năm 1945, ông đã rất thành công trong đề tài liên quan đến người nông dân và đoạn trích Tức Nước Vỡ Bờ đã làm nên tên tuổi của ông. Với tài hoa của mình, ông khắc họa hoàn hảo hình tượng người phụ nữ Việt Nam qua nhân vật chị Dậu- nhân vật chính trong đoạn trích Tức Nước Vỡ Bờ.
Lấy bối cảnh là một vụ thúc sưu thuế của một làng nọ, Ngô Tất Tố đã xây dựng một câu truyện xoay quanh số phận của người nông dân Việt Nam trước năm 1945 đặc biệt là người Phụ Nữ. Họ phải chịu nhiều đau khố và bất công biết nhường nào. Trong đoạn trích này, ta được thưởng thức ngòi bút tài hoa và sắc sảo của ông khi khắc họa hình ảnh chị Dậu. 

Trong hoàn cảnh gia đình nghèo khó , hạng cùng đinh trong làng, bị thúc sưu thuế đến nỗi phaỉ chạy vạy, bán chó, bán gà, bán cả đứa con gái đầu lòng rất khổ và khó khăn thì chị Dậu hiện lên là một người phụ nữ hết mực yêu thương chồng con và là một người phụ nữ can đảm và mạnh mẹ vô cùng. Khi chông trong cơn nguy kịch, chị tìm đủ mọi cách cứu chồng, chị khẩn khoản tha thiết mời chồng " thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột". Lời yêu thương ấy xuất hát từ một người đàn bà cục mịch và quê mùa nhưng chứa bao tình người tha thiết cùng sự an ủi và vỗ về. Cái cách mà chị Dậu bế cái Tỉu rồi ngồi xuống cạnh chồng cố ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng không đã thể hiện sự săn sóc và tình thương của người vợ đối với người chồng đang đau ốm và bệnh tật

Và chị Dậu cũng là một người phụ nữ cứng cỏi và dũng cảm khi chống lại sự áp bức và cường bạo của tên Cai Lệ- bộ mặt tàn ác đại diện cho giai cấp thống trị, chúng đâm sầm vào nhà chị với tay cầm thước, roi song, dây thừng để thúc sưu, đòi trói anh Dậu đưa ra đầu đình. Anh Dậu run rẩy sợ đến suýt ngất, lăn đùng xuống phản. Tên Cai lệ cứ thế chửi bới nạt nổ và mỉa mai. Ban đầu chị Dậu còn khiêm nhường, quỳ mà van lạy để khất sưu nhưng chúng lại trợn chừng mắt lên rồi quát: Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất. Chị Dậu đã hạ mình van xin, lúc thì run run xin khất, lúc thì thiết tha xin ông trông lại" Tên cai lệ mỗi lúc lại nổi trận lôi đình:" Đùng đùng giật phắt cái thừng trong tay anh hầu cận lý trưởng, hắn chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu để bắt trói điệu ra đình. Chị Dậu van hắn tha cho thì hắn"bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch, tát đánh bốp vào mặt chị, rồi nhảy vào cạnh anh Dậu ". Tên Cai Lệ, một "kẻ hút nhiều xái cũ” đã làm ra những việc vô cùng dã man đôi với những người dân lành. Sau cùng, sức chịu đựng đã lên đến đỉnh điểm nên chị đã phản kháng lại bằng những lí lẽ chính đáng:" chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ" rồi chị Dâu đã nghiến hai hàm răng mà thách thức:"Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!" Từ chỗ chị nhún mình xưng cháu gọi là ông, chị Dậu sau đã xưng là bà và gọi Cai Lệ là mày. Với tư thế của kẻ yếu chị đã phản kháng lại những bất công vô lí từ kẻ thống trị bạo tàn. Kẻ đi thúc sưu giờ đã bị lép vế trước người bị thúc sưu. Hắn bị chị Dậu túm lấy cổ y ấn dúi ra cửa, ngã chỏng queo trên mặt đất !Tên hầu cận lý trưởng bị chị Dậu túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm" Trước sự can ngăn của anh Dậu chị Dậu đã quả quyết mà trả lời: "Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được"

Hình ảnh chị Dậu đã được khắc họa rất hoàn hảo bởi ngòi bút tài hoa của Ngô Tất Tố. Ông đã thể hiện sự đồng cảm và ngợi ca người đàn bà lực điền bằng tình cảm chân thành. Qua chị Dậu, Ngô Tất Tố còn cho ta nhìn thấy một quy luật tất yếu: Có áp bức thì sẽ có đấu tranh.