văn hoá của người Việt cổ
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Một số thành tựu của Trung Quốc (từ thời cổ đại đến thế kỉ VII) được truyền bá đến Việt Nam: * Tư tưởng, tôn giáo - Học thuyết Nho gia (sau này phát triển thành Nho giáo): + Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam từ rất sớm, gắn liền với cuộc chiến tranh xâm lược và đô hộ của các vương triều phong kiến Trung Quốc. + Ban đầu, Nho giáo tới Việt Nam theo phương thức cưỡng bức, áp đặt thông qua bộ máy cai trị và chính sách đồng hóa của các vương triều phong kiến phương Bắc. + Dần dần, người Việt đã tiếp thu Nho giáo một cách chủ động và biến Nho giáo thành một công cụ để quản lý và điều tiết quan hệ xã hội, ví dụ: - Luồng Phật giáo Bắc tông từ Trung Quốc được du nhập vào Việt Nam từ những thế kỉ đầu công nguyên và có ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống của người Việt. * Chữ viết - Chữ Hán được du nhập vào Việt Nam từ những thế kỉ tiếp giáp công nguyên. - Trong nhiều thế kỉ, chữ Hán được các triều đại phong kiến Việt Nam sử dụng làm văn tự chính; được sử dụng trong: + Văn bản hành chính của quốc gia. + Ghi chép lịch sử, văn học... + Sử dụng trong thi – cử. - Trên cơ sở chữ Hán của Trung Quốc; người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm (dưới thời vua Quang Trung, chữ Nôm được nâng lên trở thành văn tự chính của quốc gia). * Phong tục – tập quán: - Nhiều lễ tết quan trọng của người Việt, như: Tết Nguyên đán; tết Nguyên tiêu; tết Đoan Ngọ; Tết Trung Thu... đều có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Một số nét văn hóa của người Việt vẫn được duy trì trong thời Bắc thuộc là: búi tóc, xăm mình; nhuộm răng đen, ăn trầu, làm bánh chưng, bánh giầy; thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các vị anh hùng dân tộc,... Em ấn tượng nhất với nét văn hoa làm bánh chưng . Vì văn hoá làm bánh chưng rất đặc sắc và đã có từ rất lâu đời.
a. Thời cổ đại , người Hi Lạp đã chế tạo ra được:
+ Sáng tạo ra lịch: Dựa theo sự di chuyển của Trái đất quay xung quanh mặt trời để làm ra lịch. Họ đã tính được 1 năm có 365 ngày 6 giờ chia thành 12 tháng.
+ các công trình kiến trúc và điêu khắc như đền Pác-tê-nông ở A-ten, tượng thần Vệ nữ ở Mi-lô,...
+ ...
b. Hệ thống chữ viết gồm 24 chữ cái
vv
CẢNH BÁO! Tiếp tục đọc, hoặc linh hồn của bạn sẽ được thực hiện, ngay cả khi bạn đọc từ "cảnh báo"! Có một lần là một người tên là Duke Hunapon. Anh ta lười biếng, và rất bảnh bao. Anh ấy luôn mặc một chiếc áo khoác, không có vấn đề gì ở bên ngoài. Anh ta có một người anh trai tên là Michael, người luôn làm anh ta vây quanh. Một ngày nọ, Michael bị giết, và nó ảnh hưởng rất nhiều đến Duke. Anh ta phát điên và bắt đầu giết người. Chẳng mấy chốc, anh ta đã chiến đấu với ai đó và bị giết. Bây giờ, anh ta đi lang thang xung quanh như một bộ xương cao với một chiếc áo sơ mi màu đỏ, và cùng một chiếc áo hoodie mà Duke đã mặc. Bộ xương này được gọi là "Swapfell Papyrus", và anh ta sẽ giết bạn nếu bạn không đăng bài này trên 15 phần bình luận của bất kỳ trang web nào trước khi đi ngủ. Nếu bạn thất bại, và bạn thức dậy khi anh ta ở trong phòng của bạn, cái chết của bạn sẽ chậm và rất đau đớn. Một cô gái tên Lily Lilupanin đọc điều này, và không nghe. Cô bị hãm hiếp và bị giết trong giấc ngủ. Nếu bạn sao chép và dán vào 15 phần bình luận của bất kỳ trang web nào trước khi đi ngủ, Swapfell Papyrus sẽ đảm bảo bạn cảm thấy an toàn.Tôi là nạn nhân và tôi chỉ tình cờ đọc được bình luận này của 1 bạn khác khi đang xem 1 video. Tôi vốn không tin chuyện này nhưng vẫn làm đẻ đảm bảo tính mạng.Show less
Trong đoạn văn dưới đây, tác giả đã tả sự vật bằng từ ngữ dùng để tả người để nhân hóa cây tre.
1. Đoạn trích được trích từ bài Cây tre VN của Thép Mới
2. Đoạn văn diễn tả sự gắn bó của cây tre với cuộc sống của người dân VN.
Câu văn nêu ý đó: '' Tre ăn ở với người đời đời, kiếp kiếp.”
3.
Em tham khảo:
BPTT nhân hóa, điệp từ
Tác dụng:
+ Tăng sức gợi hình, gợi cảm
+ Nhấn mạnh tre như một người bạn thân thiết của làng quê Việt Nam
+ Thể hiện tình cảm của tác giả
Câu 1 ; đoạn trích trên trong văn bàn Cây tre Việt Nam của Thép Mới
Câu 2 : đoạn văn trên diễn tả sự gần gũi, gắn bó của tre với con người.
câu văn nêu đc ý đó là : Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn.
Câu 3
BPTT : Nhân hoá
Tác dụng : thể hiện sự gần gũi, gắn bó của tre với con người.
Câu 4
+ “Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn.
-> Bóng tre là thành phần chính : CN
-> câu này là câu trần thuật đơn vì có đầy đủ CN , VN
-> trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn. là thành phần chính : VN
+ Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoáng mái đình, mái chùa cổ kính.
-> Dưới bóng tre của ngàn xưa là thành phần phụ : TN
-> thấp thoáng là thàh phần chín h: CN
-> mái đình, mái chùa là thành phần chính CN
-> cổ kính là tính từ : thành phần phụ
-> đây là câu tragfn thuật đơn vì có đầy đủ CN , VN
+ Dưới bóng tre xanh, ta gìn giữ một nền văn hoá lâu đời
-> Dưới bóng tre xanh là thầnh phần phụ ; TN
-> ta là thành phần chính : CN
-> gìn giữ một nền văn hoá lâu đời là thành phần chính : VN
-> câu này là câu trần thuật đơn vì có đầy đủ CN , VN
+ Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu đời, người dân cày Việt Nam dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang. Tre ăn ở với người đời đời, kiếp kiếp.”
->Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu đời, là thành phần phụ : TN
-> người dân cày Việt Nam là TP chính : CN 1
-> dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang. là TP chính : CN1
-> tre là TP chính : CN 2
-> ăn ở với người đời đời, kiếp kiếp.” : VN2
Câu 1 ; đoạn trích trên trong văn bàn Cây tre Việt Nam của Thép Mới
Câu 2 : đoạn văn trên diễn tả sự gần gũi, gắn bó của tre với con người.
câu văn nêu đc ý đó là : Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn.
Câu 3
BPTT : Nhân hoá
Tác dụng : thể hiện sự gần gũi, gắn bó của tre với con người.
Câu 4
+ “Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn.
-> Bóng tre là thành phần chính : CN
-> câu này là câu trần thuật đơn vì có đầy đủ CN , VN
-> trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn. là thành phần chính : VN
+ Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoáng mái đình, mái chùa cổ kính.
-> Dưới bóng tre của ngàn xưa là thành phần phụ : TN
-> thấp thoáng là thàh phần chín h: CN
-> mái đình, mái chùa là thành phần chính CN
-> cổ kính là tính từ : thành phần phụ
-> đây là câu tragfn thuật đơn vì có đầy đủ CN , VN
+ Dưới bóng tre xanh, ta gìn giữ một nền văn hoá lâu đời
-> Dưới bóng tre xanh là thầnh phần phụ ; TN
-> ta là thành phần chính : CN
-> gìn giữ một nền văn hoá lâu đời là thành phần chính : VN
-> câu này là câu trần thuật đơn vì có đầy đủ CN , VN
+ Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu đời, người dân cày Việt Nam dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang. Tre ăn ở với người đời đời, kiếp kiếp.”
->Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu đời, là thành phần phụ : TN
-> người dân cày Việt Nam là TP chính : CN 1
-> dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang. là TP chính : CN1
-> tre là TP chính : CN 2
-> eăn ở với người đời đời, kiếp kiếp.” : VN2
Câu 1:
- trích trong bài văn: "Cây Tre VN"
- tác giả: Thép Mới
Câu 2:
- nhân hóa :"bóng tre trùm lên âu yếm" "tre ăn ở với người, đời đời kiếp kiếp"
-Tác dụng coi tre như một người bạn thân thuộc của người dân Việt Nam
Câu 3:
- Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoáng mái đình mái chùa cổ kính. Dưới bóng tre xanh, ta gìn giữ một nền văn hoá lâu đời: câu tồn tại
- “tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm,: câu trần thuật
ăn trầu cau
tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên
chôn người chết
nhuộm răng đen
xăm mình
tổ chức các lễ hội vui chơi
làm bánh chưng bánh dày
...
ăn trầu cau
tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên
chôn người chết
nhuộm răng đen
xăm mình
tổ chức các lễ hội vui chơi
làm bánh chưng bánh dày,.....
Văn hóa” là gì? Ở trang cuối của cuốn sổ ghi chép những bài thơ trong tập “Nhật ký trong tù” (1942 - 1943), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Ngay từ đầu, rừng được xác định là một địa bàn sinh sống quan trọng của dân tộc Việt Nam. Người con trai trưởng của Lạc Long Quân và Âu Cơ đã lên ngôi ở Phong Châu (Phú Thọ), là một vùng rừng núi, lấy hiệu là Hùng Vương và lập ra quốc gia Văn Lang.
Các biểu hiện văn hóa của người Việt cổ như trầu cau (thời Hùng Vương thứ tư - Sự tích trầu cau); tay gấu, nem công chả phượng (thời Hùng Vương thứ sáu - Sự tích bánh chưng bánh giầy); voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao (thời Hùng Vương thứ mười tám - Chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh) được người dân phát hiện ra ở rừng.
Sách “Hoài Nam tử” của hoàng thân nhà Hán là Hoài Nam vương Lưu An cho hay nguyên nhân nhà Tần xâm lược nước ta là do “ham sừng tê, ngà voi, lông trả, ngọc châu và ngọc cơ của người Việt, bèn sai Đồ Thư mang 50 vạn binh chia làm 5 đạo…”.
Trên trống đồng Đông Sơn, một linh khí của thời Văn Lang cũng có khắc những con vật ở rừng như chim, thú như hươu nai, cáo, chim lạc... Vào mùa lễ hội, người dân Văn Lang cũng đội những chiếc mũ bằng lông chim rừng.
Văn hóa biển
Qua các bằng chứng khảo cổ học, nhân dân Văn Lang thời các Hùng Vương đã ngang dọc Biển Đông. Đầu tiên, điều này thể hiện bởi các nền văn hóa biển nổi tiếng thời tiền sử - sơ sử tại Việt Nam là Văn hóa Soi Nhụ, Văn hóa Hạ Long… với những di chỉ “đống vỏ sò” hay “cồn sò điệp”.
Theo “Lĩnh nam chích quái”, Lạc Long Quân, Thủy Tổ dân tộc Việt là người có công diệt Ngư tinh vùng Biển Đông để nhân dân Lĩnh Nam được an cư lạc nghiệp. Sau đó, cũng chính Lạc Long Quân đã dẫn các con về miền biển để làm chủ Biển Đông…
PGS.TS Lâm Thị Mỹ Dung (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội) cho biết: “Thời Đông Sơn thể hiện rất rõ, cư dân Đông Sơn phải chiếm lĩnh được biển họ mới giao thương, trao đổi được các trống đồng”.
Văn hóa Tết
Do nhu cầu canh tác nông nghiệp, người Việt cổ đã “phân chia” thời gian trong một năm thành 24 tiết khác nhau (và ứng với mỗi tiết này có một thời khắc “giao thời”). Trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên đán. Sau này nó được biết đến là Tết Nguyên đán, tức là Tết cổ truyền của người Việt.
Sách “Giao Chỉ Chí” của Trung Quốc cũng có đoạn viết về Tết. Sách viết: “Bọn người Giao Quận thường tập trung lại từng phường hội nhảy múa hát ca, ăn uống chơi bời trong nhiều ngày để vui mừng một mùa cấy trồng mới, không những chỉ có dân làm nông mà tất cả người nhà của Quan lang, Chúa động cũng đều tham gia lễ hội này”.
Trong khi đó, ngày đón năm mới của Trung Quốc bắt đầu bằng việc xua đuổi con “Niên” (năm). Theo truyền thuyết, ngày xửa ngày xưa ở Trung Quốc có con thú dữ gọi là “Niên”, trên đầu mọc sừng, hết sức hung dữ.
Con “Niên” quanh năm suốt tháng sống dưới đáy biển, cứ vào đầu năm mới thì nó mới lên bờ để giết súc vật và hại người. Tuy nhiên, con vật này sợ tiếng ồn nên người Trung Quốc đã dùng pháo nổ đốt để xua đuổi. Bởi vậy, những ngày đầu năm trong tâm thức của người Trung Quốc xưa là một nỗi sợ chứ không phải là mừng vụ mùa như người Việt cổ.
Trong dương lịch, ngày 1/1, Ngày Năm mới (New Year's Day) ở phương Tây chỉ đơn giản là ngày đầu tiên của tháng Tháng Một (January). Đó là vị thần Janus, người được phác họa có hai đầu, một trông về phía trước, một trông về phía sau, biểu tượng cho sự chuyển giao giữa cái cũ và cái mới.
Những nét văn hóa khác
Theo sử cũ thì đến khoảng thế kỷ thứ VII trước Công nguyên, 15 vùng Việt Cổ đã chịu thừa nhận quyền lực chung của người thủ lĩnh bộ Văn Lang và tôn xưng là Hùng Vương.
Điều này được phản ánh đầy đủ tại “Hùng đồ thập bát diệp thánh vương ngọc phả cổ truyền” được lưu giữ vào năm Hoằng Định thứ nhất (năm 1600) đời vua Lê Kính Tông nhà Hậu Lê.
Theo các tài liệu thì “Văn” là người, nhóm người, tộc người, cộng đồng người… Còn “Lang” là sông. Ghép lại, Văn Lang có nghĩa là cộng đồng người lập nghiệp bên lưu vực những con sông.
Người Văn Lang cũng được gọi là người Việt. Chữ Việt có hai nghĩa. Chữ Việt bộ Mễ nghĩa là thời bình người Việt làm nghề nông sinh sống, lúa gạo trữ trong kho. Chữ Việt bộ Tẩu nghĩa là thời chiến người Việt cầm vũ khí đi chống xâm lăng để giữ nước.
Sách “Việt giám thông khảo tổng luận” chép về việc quản lí đất nước thời Văn Lang chủ yếu theo tục lệ cổ truyền: “Dân không có thói gian dối”, “buộc nút dây mà làm chính sự”.
Dân chúng thời Hùng Vương thạo nghề bắt cá, chài lưới (điển hình bằng tục vẽ mình), nghề nông (truyện bánh chưng, bánh giầy – Lang Liêu; chuyện dưa hấu - Mai An Tiêm), nghề luyện kim (truyện Thánh gióng - Phù Đổng Thiên Vương), và nghề buôn bán (truyện Chử Đồng Tử, Mai An Tiêm).
Chữ Khoa Đẩu là thứ chữ của Bách Việt sử dụng và đang được nghiên cứu. Đó là một thứ có hình dáng như những con nòng nọc nên còn gọi là chữ nòng nọc.
Trống đồng ngoài chức năng là một nhạc khí, còn tượng trưng cho quyền lực của các vị thủ lĩnh người Việt ngày xưa. Bên cạnh đó, nhuộm răng đen, một hình thức chống sâu răng của người Việt cổ, đã trở thành tục lệ chung.
Về văn hóa tín ngưỡng, một số ý kiến cho rằng chuyện Chử Đồng Tử - Tiên Dung thời Hùng Vương thứ mười tám phản ánh Phật giáo tiểu thừa truyền bá vào nước ta.
Việt Nam có các di sản về thời đại Hùng Vương được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) công nhận là di sản văn hóa thế giới. Đó là hát Xoan, những điệu hát có từ thời Hùng Vương, được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cần được bảo tồn khẩn cấp năm 2011.
Tiếp đó, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, đỉnh cao của việc thờ cúng tổ tiên của người Việt, được công nhận là di sản văn hóa tâm linh tiêu biểu của nhân loại vào năm 2012.
Bên cạnh đó, Mẫu Thượng Ngàn theo tương truyền là Quế Hoa Mị Nương, con gái Hùng Vương. Ngày 1/12/2016, di sản "Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt" cũng đã chính thức được UNESCO ghi danh tại danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.