Phương thức khai thác tài nguyên ở Australia có ảnh hưởng gì đến môi trường ?
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tài nguyên thiên nhiên không phải là vô hạn, và những hậu quả sau đây có thể phát sinh từ việc tiêu thụ bất cẩn và quá mức các tài nguyên này:
Ví dụ : Khi một công ty khai thác mỏ vào một quốc gia đang phát triển ở phía nam toàn cầu để khai thác nguyên liệu thô, việc ủng hộ những lợi thế về sự hiện diện của ngành và giảm thiểu những tác động tiêu cực tiềm ẩn sẽ thu được sự hợp tác của người dân địa phương. Các yếu tố thuận lợi chủ yếu nằm ở sự phát triển kinh tế để có thể thành lập các dịch vụ mà chính phủ không thể cung cấp như trung tâm y tế, sở cảnh sát và trường học. Tuy nhiên, với sự phát triển kinh tế, tiền tệ trở thành đối tượng được quan tâm chi phối. Điều này có thể dẫn đến những xung đột lớn mà cộng đồng địa phương ở một nước đang phát triển chưa từng giải quyết trước đây. Những xung đột này nổi lên do sự thay đổi quan điểm vị kỷ hơn giữa những người dân địa phương bị ảnh hưởng bởi các giá trị của chủ nghĩa tiêu dùng.
Việc khai thác đòi hỏi diện tích rừng lớn phải được giải tỏa để đất có thể được đào bởi các thợ mỏ. Vì lý do này nên việc phá rừng quy mô lớn được yêu cầu phải được thực hiện tại các khu vực khai thác mỏ phải được thực hiện.
Bên cạnh việc làm sạch khu vực khai thác, thảm thực vật ở các khu vực lân cận cũng cần phải được cắt để xây dựng đường xá và các công trình dân cư cho công nhân mỏ. Dân số con người mang theo cùng với các hoạt động khác gây hại cho môi trường. Ví dụ, các hoạt động khác nhau tại các mỏ than phát tán bụi và khí vào không khí. Vì vậy, khai thác mỏ là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm.
Ô nhiễm nguồn nước
Trước đây, các sunphua kim loại bị chôn vùi được phơi nhiễm trong các hoạt động khai thác mỏ. Khi chúng tiếp xúc với oxy trong khí quyển, chúng được chuyển thành axit sulfuric mạnh và các oxit kim loại. Các hợp chất này bị lẫn lộn trong các tuyến đường thủy địa phương và gây ô nhiễm các con sông địa phương với các kim loại nặng. Các hóa chất như thủy ngân, xianua, axit sulfuric, asen và metyl thủy ngân được sử dụng trong các giai đoạn khai thác khác nhau.
Ảnh hưởng của khai thác đối với môi trường
Hầu hết các hóa chất được thải vào các vùng nước gần đó và gây ô nhiễm nguồn nước. Mặc dù các chất thải (đường ống) được sử dụng để xử lý các hóa chất này vào trong các nguồn nước, luôn có khả năng rò rỉ. Khi các hóa chất từ từ thấm qua các lớp đất, chúng tiếp cận với nước ngầm và gây ô nhiễm nó.
Việc giải phóng các hóa chất độc hại vào trong nước rõ ràng là có hại cho hệ thực vật và động vật của các vùng nước. Bên cạnh ô nhiễm, quá trình khai thác cần nước từ các nguồn nước lân cận. Ví dụ, nước được sử dụng để rửa tạp chất từ than đá. Kết quả là hàm lượng nước của sông hoặc hồ mà từ đó nước đang được sử dụng sẽ giảm đi. Các sinh vật trong các khu vực nước này không có đủ nước để sinh tồn.
> > Xem thêm: Những phương pháp bảo vệ môi trường cực đơn giản
Nạo vét sông là một phương pháp được áp dụng trong trường hợp khai thác vàng. Trong phương pháp này, sỏi và bùn được hút từ một khu vực cụ thể của dòng sông. Sau khi các mảnh vàng được lọc ra, bùn và sỏi còn lại được thả trở lại sông, mặc dù, tại một địa điểm khác với nơi chúng đã được lấy đi. Điều này làm gián đoạn dòng chảy tự nhiên của dòng sông có thể làm cho cá và các sinh vật khác chết.
Ô nhiễm nguồn nước
Mặc dù các biện pháp được đưa ra để giải phóng chất thải hóa học trong các con sông gần đó thông qua đường ống, một lượng lớn hóa chất vẫn rò rỉ ra ngoài đất. Điều này làm thay đổi thành phần hóa học của đất. Bên cạnh đó, vì các hóa chất độc hại, chúng làm cho đất không phù hợp với cây trồng. Ngoài ra, các sinh vật sống trong đất nhận thấy môi trường ô nhiễm là kẻ thù cho sự sống còn của chúng.
Lây lan bệnh
Đôi khi chất thải lỏng được tạo ra sau khi các kim loại hoặc khoáng chất đã được chiết xuất và được xử lý trong một hố khai thác. Khi hố được lấp đầy bởi các chất thải, chúng trở thành một hồ nước đọng lại. Điều này trở thành nơi sinh sản của các bệnh do nước gây ra, gây ra côn trùng và sinh vật như muỗi phát triển mạnh.
Mất đa dạng sinh học
Các khu rừng được khai thác cho mục đích khai thác là nhà của một số lượng lớn các sinh vật. Việc khai hoang bừa bãi của rừng dẫn đến mất môi trường sống của một số lượng lớn động vật. Điều này đặt sự tồn tại của một số lượng lớn các loài động vật bị đe dọa. Việc cắt giảm các cây là một mối đe dọa lớn đối với một số loài thực vật, cây cối, chim và động vật sống trong rừng.
Ví dụ về tác động môi trường của khai thác mỏ
Môi trường đất cũng bị ảnh hưởng do ô nhiễm
Rừng nhiệt đới là nguồn cung cấp oxy, gỗ và thuốc lớn nhất trên Trái Đất này. Rừng mưa Amazon được biết đến với các mỏ vàng phù sa. Vàng được tìm thấy cả trong các kênh sông và ở bờ sông sau lũ lụt. Kỹ thuật khai thác thủy lực được sử dụng để khai thác vàng.
Phương pháp này liên quan đến nổ mìn ở bờ sông. Điều này đã gây ra thiệt hại cho cây cối, chim và động vật. Trong khi tách trầm tích và thủy ngân khỏi các mỏ trầm tích có năng suất vàng, các thợ mỏ quy mô nhỏ, những người ít trang bị hơn các thợ mỏ công nghiệp, có thể sẽ phóng thích một số thủy ngân xuống sông. Thủy ngân này đi vào chuỗi thức ăn thông qua động vật thủy sinh và động vật ăn thịt của chúng.
Hợp chất có độc tính cao 'xianua' cũng được sử dụng để tách vàng khỏi trầm tích và đá. Mặc dù tất cả các biện pháp phòng ngừa, đôi khi vẫn không thể tránh khỏi bởi môi trường xung quanh chúng cũng bị ô nhiễm. Những người ăn cá có nhiều nguy cơ bị nhiễm chất độc như vậy.
Năm 1995, ở Guyana, hơn bốn tỷ lít nước thải chứa xianua, được chuyển vào một nhánh của Essequibo; khi các đập thải được đổ đầy chất thải xianua, bị sập. Tất cả những con cá trên sông chết, thực vật và động vật đã bị phá hủy hoàn toàn và đất ngập nước bị nhiễm độc nặng, khiến đất đai trở nên vô dụng đối với nông nghiệp.
Tác động môi trường của khai thác mỏ
Nguồn nước uống chính cho người dân địa phương cũng bị ô nhiễm. Đây là một trở ngại lớn cho ngành du lịch sinh thái trên sông. Khi cây bị chặt (làm sạch rừng để xây dựng đường, gỗ cho người di cư, công nhân,...) và nguồn nước bị ô nhiễm, quần thể động vật di cư hoặc chết. Hơn nữa, thợ săn được thuê để nuôi những người làm việc tại các địa điểm khai thác mỏ.
>> Xem thêm: Bao nhiêu lâu nên thông cống nghẹt định kỳ?
Công viên quốc gia Kahuzi-Biega, Congo, được tuyên bố là 'Di sản thế giới' vào năm 1980 vì sự đa dạng sinh học phong phú của nó. Bảo tồn một số loại động vật và thực vật là mục tiêu đằng sau điều này. Khi hàng ngàn người bắt đầu chiết xuất tantali và cassiterite tại hàng trăm địa điểm trên khắp công viên, hầu hết các loài động vật lớn đã bị giết trong vòng 15-20 năm.
Số lượng khỉ đột của Grauer, loài chỉ được tìm thấy trong khu vực này, giảm đáng kể. Thống kê cho thấy bây giờ, chỉ còn 2-3 nghìn gorilla Grauer còn lại.
Chính phủ Indonesia đã kiện một công ty khai thác vàng đã vứt bỏ chất thải độc hại, chẳng hạn như asen và thủy ngân vào vịnh Buyat. Cá trong vịnh đã bị chết. Người dân ở khu vực xung quanh không còn có thể ăn cá nữa. Họ đã bị các bệnh khác nhau như nhức đầu liên tục, phát ban da, khối u và khó thở.
Mỗi môi trường đều có các phương thức khai thác, sử dụng và bảo vệ thiên nhiên khác nhau:
- Môi trường xích đạo ẩm: hình thành các vùng trồng cà phê, ca cao, cao su, …
- Môi trường nhiệt đới: trồng kê, chăn nuôi dê, cừu theo hình thức chăn thả.
- Môi trường hoang mạc: phát triển chăn nuôi du mục, du lịch.
- Môi trường Địa Trung Hải: trồng cây ăn quả cận nhiệt và cây lương thực, khai thác xuất khẩu phốt phát, dầu mỏ,…
- Xây dựng và thực hiện các kế hoạch quản lý, sử dụng, khai thác và bảo vệ các vùng biển
- Hạn chế các hoạt động khai thác tài nguyên biển bừa bãi. Nghiêm cấm các hoạt động nạo vét, phá hoại tài nguyên biển
- Cải thiện nguồn tài nguyên biển, ngăn chặn các nguy cơ làm hại đến các sinh vật và tài nguyên trong môi trường biển
Theo Luật bảo vệ môi trường năm 2014 đã kế thừa các khái niệm này(Khoản 8, 9, 10 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014). Theo đó:
1) Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật (Khoản 8 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014).
Sự biến đổi các thành phần môi trường có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân chủ yếu là do các chất gây ô nhiễm. Các chất gây ô nhiễm được các nhà khoa học định nghĩa là chất hoặc yếu tố vật lí khi xuất hiện trong môi trường thì làm cho môi trường bị ô nhiễm. Thông thường các chất gây ô nhiễm là chất thải, tuy nhiên, chúng còn có thể xuất hiện dưới dạng nguyên liệu, thành phẩm, phế liệu, phế phẩm... và được phân thành các loại sau đây:
+ Chất gây ô nhiễm tích lũy(chất dẻo, chất thải phóng xạ) và chất ô nhiễm không tích lũy(tiếng ồn);
+ Chất gây ô nhiễm trong phạm vi địa phương (tiếng ồn), trong phạm vi vùng(mưa axit) và trên phạm vi toàn cầu(chất CFC);
+ Chất gây ô nhiễm từ nguồn có thể xác định(chất thải từ các cơ sở sản xuất kinh doanh) và chất gây ô nhiễm không xác định được nguồn(hóa chất dùng cho nông nghiệp);
+ Chất gây ô nhiễm do phát thải liên tục (Chất thải từ các cơ sở sản xuất kinh doanh) và chất gây ô nhiễm do phát thải không liên tục(dầu tràn do sự cố dầu tràn).
2) Suy thoái môi trường: là sự giảm về số lượng và chất lượng của thành phần môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật (Khoản 9 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014)
Một thành phần môi trường khi bị coi là suy thoái khi có đầy đủ các dấu hiệu:
i) Có sự suy giảm đồng thời cả về số lượng và chất lượng thành phần môi trường đó hoặc là sự thay đổi về số lượng sẽ kéo theo sự thay đổi về chất lượng các thành phần môi trường và ngược lại. Ví dụ: số lượng động vật hoang dã bị suy giảm do săn bắt quá mức hay diện tích rừng bị thu hẹp sẽ kéo theo sự suy giảm về chất lượng của đa dạng sinh học;
ii) Gây ảnh hưởng xấu, lâu dài đến đời sống của con người và sinh vật. Nghĩa là sự thay đổi số lượng và chất lượng các thành phần môi trường phải đến mức gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, đến hoạt động sản xuất kinh doanh của con người hoặc gây những hiện tượng hạn hán, lũ lụt, xóa mòn đất, sạt lở đất ... thì mới con thành phần môi trường đó bị suy thoái.
Số lượng và chất lượng các thành phần môi trường có thể bị thay thế do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do hành vi khai thác quá mức các yếu tố môi trường, làm hủy hoại các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sử dụng phương tiện, công cụ, phương pháp hủy diệt trong khai thác, đánh bắt các nguồn tài nguyên sinh vật...
Các cấp độ của suy thoái môi trường cũng được chia thành: suy thoái môi trường, suy thoái môi trường nghiêm trọng, suy thoái môi trường đặc biệt nghiêm trọng. Cấp độ suy thoái môi trường đối với một thành phần môi trường cụ thể thường được xác định dựa vào mức độ khan hiếm của thành phần môi trường đó, cũng như dựa vào số lượng các thành phần môi trường bị khai thác, bị tiêu hủy so với trử lượng của nó.
3) Sự cố môi trường là sự cố xảy ra trong quá trình hoạt động của con người hoặc biến đổi của tự nhiên, gây ô nhiễm, suy thoái hoặc biến đổi môi trường nghiêm trọng (Khoản 10 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014). Sự cố môi trường có thể xảy ra do:
- Bão, lũ, lụt, hạn hán, nứt đất, động đất, trượt đất, sụt lở đất, núi lửa phun, mưa axit, mưa đá, biến động khí hậu và thiên tai khác;
- Hỏa hoạn, cháy rừng, sự cố kỹ thuật gây nguy hại về môi trường của cơ sở sản xuất, kinh doanh, công trình kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng.
- Sự cố trong tìm kiếm thăm dò, khai thác, vận chuyển khoáng sản, dầu khí, sập hầm lò, phụt dầu, tràn dầu, vỡ đường ống dẫn dầu, dẫn khí, đắm tàu, sự cố tại cơ sở lọc hóa dầu và các cơ sở công nghiệp khác;
- Sự cố trong lò phản ứng hạt nhân, nhà máy điện nguyên tử, nhà máy sản xuất, tái chế nhiên liệu hạt nhân, kho chứa chất phóng xạ.
Minh Hiển
Australia là một quốc gia có nền kinh tế phát triển dựa trên ngành khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản. Phương thức con người khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản ở Australia được đánh giá là hiệu quả và bảo vệ môi trường.
Công nghệ tiên tiến: Australia sử dụng công nghệ tiên tiến để khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản. Các công ty khai thác tại đây sử dụng các thiết bị và công nghệ hiện đại nhất để tối ưu hóa quá trình khai thác và giảm thiểu tác động đến môi trường.
Quản lý tài nguyên: Chính phủ Australia đã thiết lập các quy định và chính sách quản lý tài nguyên khoáng sản để đảm bảo việc khai thác được thực hiện theo cách bảo vệ môi trường và đảm bảo sự bền vững của ngành công nghiệp này.
Tôn trọng văn hóa bản địa: Australia có nhiều vùng đất của các dân tộc bản địa và chính phủ đã đưa ra các chính sách để đảm bảo tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của các cộng đồng này trong quá trình khai thác tài nguyên khoáng sản.
Đào tạo và nghiên cứu: Australia có các trường đại học và tổ chức nghiên cứu hàng đầu thế giới trong lĩnh vực khoáng sản, cung cấp đào tạo chất lượng cao cho các chuyên gia trong ngành và đưa ra các giải pháp mới để tối ưu hóa việc khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản.
Tóm lại, phương thức con người khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản ở Australia được đánh giá là hiệu quả và bảo vệ môi trường, thông qua việc sử dụng công nghệ tiên tiến, quản lý tài nguyên, tôn trọng văn hóa bản địa và đào tạo và nghiên cứu.
Tham khảo
- Ví dụ 1:
+ Từ năm 2000 đến nay sản lượng ngành than đã không ngừng tăng. Song vấn đề bức xúc nhất đối với các mỏ khai thác than về góc độ bảo vệ môi trường là đất đá thải. Để sản xuất 1 tấn than, cần bóc đi từ 8 - 10 m3 đất phủ, thải từ 1 - 3 m3 nước thải mỏ. Chỉ tính riêng năm 2006, các mỏ than của Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt nam đã thải vào môi trường tới 182,6 triệu m3 đất đá, khoảng 70 triệu m3 nước thải mỏ, dẫn đến một số vùng của tỉnh Quảng Ninh bị ô nhiễm đến mức báo động như Mạo Khê, Uông Bí, Cẩm Phả...
+ Đất đá thải loại trong khai thác khoáng sản cũng là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến tác động cộng hưởng về phát thải bụi từ các mỏ, gây suy giảm môi trường không khí do nhiễm bụi ở các khu dân cư ở trong vùng khai thác. Trên các mỏ than thường có mặt với hàm lượng cao các nguyên tố Sc, Ti, Mn...Các khoáng vật sunphua có trong than còn chứa Zn, Cd, HG...làm cho bụi mỏ trở nên độc hại với sức khỏe con người
- Ví dụ 2: Trong khai thác mỏ kim loại, tác động rõ nét nhất là tàn phá mặt đất, ảnh hưởng lớn đến rừng và thảm thực vật. Việc khai thác vật liệu xây dựng, nguyên liệu cho sản xuất phân bón và hóa chất như đá vôi làm ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước nghiêm trọng. Do quy trình khai thác lạc hậu, không có hệ thống thu bụi nên hàm lượng bụi tại những nơi này thường lớn gấp 9 lần so với tiêu chuẩn cho phép.
- Ví dụ 3: Một trong những loại vật liệu xây dựng được khai thác từ các lòng sông là cát. Hoạt động này diễn ra trên toàn bộ hệ thống sông suối ở nước ta. Tại miền Nam có tới 120 khu vực được UBND các tỉnh cấp phép khai thác cát xây dựng, khối lượng cát đã khai thác từ những con sông lớn như Đồng Nai - Nhà Bè, Sài Gòn, Vàm Cỏ Đông, sông Tiền và sông Hậu... kể từ năm 1990 đến nay lên tới 100 triệu m3. Hậu quả môi trường mà các tỉnh này đang phải gánh chịu là làm đục nước sông, cản trở thuyền bè qua lại và nguy cơ gia tăng tai nạn giao thông đường thủy. Đặc biệt là gây sạt lở nghiêm trọng các bờ sông, nhất là ở sông Đồng Nai và sông Sài Gòn đã và đang sạt lở nặng nề nhất.
THAM KHẢO:
Gia tăng dân số đang gây sức ép nặng nề tới môi trường toàn cầu. Diện tích trái đất hầu như không thay đổi nhưng số dân thì tăng gấp nhiều lần. Dân số tăng nhanh làm cho môi trường không đáp ứng được các nhu cầu cơ bản của con người. ... ở những nơi mà số lượng bò và cừu vượt quá mức thì đồng cỏ dần biến thành đất hoang.
Vấn đề ô nhiễm môi trường (đất, nước,...) và cạn kiệt tài nguyên.