Đóng vai nhân vật kể lại 1 câu chuyện
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
“Quê hương” – hai tiếng ấy mới thiêng liêng làm sao! Dẫu rằng tôi cùng bao người khác nữa chỉ là những người nông dân chân lấm tay bùn, ngày ngày đầu tắt mặt tối, bán mặt cho đất bán lưng cho trời thì chúng tôi cũng có quê hương của mình và rất yêu nó. Sau Cách mạng tháng Tám, tình yêu quê hương của chúng tôi còn được mở rộng ra, gắn kết, gắn liền với tình yêu nước, tinh thần kháng chiến. Tôi cũng không ngoại lệ. Ấy vậy mà có một lần, tình yêu làng, yêu nước của tôi đã bị đặt vào trong một thử thách làm tôi mất ăn mất ngủ suốt mấy ngày liền.
Trước khi kể về câu chuyện của mình, tôi nên giới thiệu về bản thân mình trước chứ nhỉ? Tuy mọi người thường gọi tôi là ông Hai nhưng tên thật của tôi là Nguyễn Hai Thu. Nhắc tới làng tôi, chắc mọi người đều biết tới rồi nhỉ, làng tôi có tinh thần kháng chiến thế cơ mà! Làng tôi chính là làng Chợ Dầu thuộc huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh đấy! Nhớ năm ấy cái lũ Pháp mất dạy chúng nó tràn sang xâm lược nước ta, tôi cũng muốn ở lại sát cánh cùng các anh em giết ***** chết mẹ chúng nó, ngặt nỗi dạo ấy trái gió trở trời, cái chân của tôi đau nhức quá, hơn nữa nhà tôi còn có một đàn con nheo nhóc, nên gia đình tôi buộc phải đi tản cư ở vùng đất Thắng theo chính sách của cụ Hồ: tản cư là yêu nước.
Ở nơi tản cư, tôi cũng chẳng nhàn hạ tẹo nào. Gia đình tôi ăn bữa nay phải nghĩ đến bữa mai, ăn năm nay phải nghĩ đến sang năm, rồi còn phải góp lương thực để phục vụ kháng chiến nữa chứ, tính kiểu gì cũng không thấy đủ, vậy nên cả gia đình tôi phải làm quần quật cả ngày. Ngày nào cũng vậy, hai tay chân tôi mỏi nhừ, tưởng như không có sức mà bước, mà cầm, mà nắm, mà cử động nữa. Ấy thế mà cứ mỗi khi nằm vật xuống giường, tôi lại vắt tay lên trán nghĩ về làng rồi lại tự tưởng tượng về những công việc kháng chiến của làng: đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá,… Chỉ nghĩ đến thôi là tôi cảm thấy mình như tràn trề sinh lực, phảng phất như tất cả mệt mỏi đều tan biến hết. Chắc tối nay tôi sẽ lại sang nhà bác Thứ để khoe về làng mất! Ôi, làng của tôi mới đáng tự hào làm sao!
Ở vùng đất Thắng này công việc ưa thích của tôi là xuống phòng thông tin nghe lỏm tin tức mà người ta đọc trên báo. Không phải là tôi không biết đọc mà thực ra tôi đã học qua một lớp bình dân học vụ rồi đấy, biết đọc, biết viết hẳn hoi ấy nhé, nhưng mà chữ in này khó nhận mặt chữ, tôi chỉ đọc được bập bõm, câu được câu không, thật là khổ tâm hết sức! May thay, hôm ấy tôi gặp trúng một anh chàng cao lớn, trên người mặc bộ quân phục màu xanh lá cây nom rất đỏm dáng. Chắc hẳn là một anh dân quân mới học, chữ nào chữ nấy đọc chậm rãi, to, rành rọt từng chữ. Bao nhiêu là tin hay, nào thì có một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kì lên Tháp Rùa, rồi anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng, hay đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người mua hàng đã bắt sống được một tên hai bốt Thao ngay giữa chợ. Lại còn bao tin đột kích nữa, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, rồi còn kiếm được cả súng nữa. Tôi càng nghe càng hăng say, càng mừng rơn, rồi bất chợt lại nghĩ đến làng: “Cái lũ Pháp tép riu này mà đi qua làng mình nhất định sẽ bị đánh cho tơi bời rồi làng mình cũng được lên báo cho mà xem.” Càng nghĩ tôi càng thấy đúng rồi cười thầm một mình.
Ra khỏi phòng thông tin, tôi rẽ vào quán dặn dò vợ mấy câu rồi đi thẳng ra lối huyện cũ. Đi được một đoạn tôi gặp phải một tốp người tản cư mới ở dưới xuôi lên, tôi vội tìm một quán gần đấy ngồi nghe ngóng tin tức. Tôi hỏi bọn họ:
- Các ông, các bà ở đâu lên ta đấy ạ!
Một người đàn bà mau miệng trả lời:
- Thưa ông, chúng cháu ở Gia Lâm lên đấy ạ. Đi bốn năm hôm mới lên đến đây, vất vả quá!
Tôi hỏi thêm mấy câu về tình hình dưới xuôi, ai biết lại nghe được tin tức bọn giặc rút giặc rút ở Bắc Ninh về qua chợ Dầu. Tôi đinh ninh làng mình phải giết được vài thằng, nào ngờ một người đàn bà cho con bú lại nói cho tôi một tin dữ: cả làng Chợ Dầu của tôi theo Tây. Tôi như bị sét đánh trúng, cả người cứng lại, đờ ra, tưởng như đã ngừng thở. Phải một lúc lâu sau, tôi phản ứng kịp, run run hỏi lại, nhưng đáp án tôi nhận được lại đập nát vụn chút hy vọng cuối cùng của tôi, họ khẳng định rằng bọn Tây vào làng, cả làng tôi vác cờ thần ra đón, rồi cả thằng chánh Bệu khuân hết đồ đạc theo giặc. Tôi thấy mắt mình nóng lên, nước mặt như chực trào ra, cổ họng như bị cái gì chặn lại. Đắng ngắt! Bây giờ tôi chỉ có một ý nghĩ muốn về nhà trốn tránh hết thảy. Tôi vội đứng dậy trả tiền trà, rồi vờ như không thèm để ý, vươn vai nói to rồi chuồn thẳng:
- Hà, nắng gớm, về nào,…
Dù đã đi ra khỏi quán, tôi vẫn nghe tiếng lanh lảnh của người đàn bà nọ vọng ra:
- Cha mẹ ***** nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cho mỗi đứa một nhát!
Về đến nhà, toàn thân tôi như bị rút cạn sức lực, nằm vật ra giường, đưa mắt nhìn lũ trẻ nhà mình đang chơi ngoài cổng. Có lẽ chúng thấy tôi khác thường nên ngoan ngoãn tránh đi. Tôi đau đớn, tủi hổ, nước mắt giàn rụa: “Ôi chao mấy đứa con số khổ của tôi, chúng nó mới tí tuổi đầu mà đã ngoan hiểu chuyện như vậy, có làm nên tội nên tình gì đâu mà bị người ta gán cho cái mác trẻ con làng Việt gian cơ chứ. Khốn nạn, cái bọn này ăn cái gì mà đổ đốn, dám bán nước, phản bội Tổ quốc, phản bội cụ Hồ muôn năm thế này hả trời.” Tức giận, tôi mắng ra lời luôn cho bõ tức.
Nhưng mắng xong rồi tôi mới ngờ ngợ như lời mình có gì đó không đúng. Mọi người ở làng so với tôi còn có tinh thần kháng chiến hơn, quyết tâm ở lại sống chết với giặc cơ mà! Mới nghĩ như vậy, tôi lạt gạt phắt đi ngay, không có lửa làm sao có khói, người ta không có thù oán với mình thì đặt điều với mình để làm gì, huống chi tên chánh Bệu đích thị là người làng mình rồi, không có sai. Chao ôi, nhục nhã chưa, cả làng Việt gian!
Tối ấy vợ tôi về, có lẽ bà ấy cũng nghe tin rồi, bởi tôi thấy bà khang khác, cả người uể oải, mặt cúi gằm xuống, đi thẳng vào trong nhà cất thúng rồi ra thềm ôm má nghĩ ngợi. Thấy mẹ như vậy lũ trẻ cũng không dám đòi quà. Sự im lặng đáng sợ bao trùm lên gian nhà nhỏ. Mãi khuya, vợ tôi mới chống gối đứng dậy, lẳng lặng xuống bếp đếm tiền hàng như thường lệ. Lúc lâu sau bà mới nhỏ giọng gọi tôi, nhưng tôi cố tình tảng lờ đi, thậm chí cong cáu gắt ngắt lời bà khi bà dường như định nhắc lại chuyện ban sáng. Bà ấy nín bặt, lát sau mới khẽ khàng nói tiếp rằng người ta đồn nơi nay sẽ không chứa những người làng Chợ Dầu nữa. Tôi lặng đi, không dám hé nửa lời, bởi tôi biết hiện giờ tâm trạng tôi không tốt, nếu nói thêm câu gì nữa sẽ làm tổn thương tới bà ấy mất. Nhìn gương mặt gầy gò, mới ngoài bốn mươi mà tưởng chừng như đã già đi cả chục tuổi, những nếp nhăn, vết chân chim như ghi lại những tháng ngày vất vả khó nhọc bà phải trải qua khi chung sống với tôi, tôi cũng thấy hổ thẹn lắm chứ! Nhưng biết làm sao được, những lời nói ban sáng của mụ đàn bà nọ vẫn đeo bám, ám ảnh, dằn vặt tôi mãi. Tôi trằn trọc mãi mà không tài nào ngủ được. Một đêm thức trắng!
Ba bốn ngày sau đó tôi luôn cảm thấy bất an lo sợ, không dám bước chân ra khỏi nhà nửa bước dù chỉ là sang nhà bác Thứ, chỉ cần một đám đông túm tụm lại , hay nghe tiếng cười nói xa xa, tôi cũng hoang mang, cho rằng người ta đang nói về “cái chuyện ấy”, rồi chỉ loáng thoảng nghe được mấy tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông là tôi lại lủi ra một góc nhà, nín thít. Đặc biệt là mụ chủ nhà, từ ngày xảy ra chuyện ấy, thỉnh thoảng mụ lại chạy sang nói bóng nói gió, đâm chọt, chế giễu, dọa nạt gia đình tôi một hồi. Hình như mụ ta lấy điều làm cho vợ chồng tôi khổ ngấm khổ ngầm là mụ thích. Thậm chí có lần mụ còn đe dọa rằng ở đây người ta đồn rằng không chứa người làng Chợ Dầu chúng tôi ở đây nữa. Tuy đây chỉ là việc do vợ tôi kể lại nhưng cũng làm tôi khốn đốn, khổ sở một phen. Rời khỏi đây gia đình tôi biết đi đâu về đâu bây giờ, ai người ta cho ở nhờ, ai người ta buôn bán với? “Hay là quay về làng…” vừa mới chớm nghĩ như vậy, tôi lập tức phản đối ngay, về làng không phải là cam chịu cái mác Việt gian, phản bội Tổ quốc, bỏ lại kháng chiến, cụ Hồ… Cuối cùng, phải gian nan lắm tôi mới ra được quyết định: Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.
Quyết định thì như vậy nhưng cái tình yêu làng này đã ngấm vào máu thịt, là một phần cơ thể của tôi rồi, đâu phải bảo thù là tôi thù ngay được, thế là tôi phải tìm thằng Húc trò chuyện để để giải khuây. Khi tôi hỏi nó nhà ta ở đâu thì nó trả lời là làng Chợ Dầu, khi tôi hỏi nó có muốn về làng không nó chỉ khe khẽ đáp: có. Vậy mà khi tôi hỏi nó ủng hộ ai thì nó lại trả lời mạnh bạo và rành rọt: ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm. Nghe câu trả lời của nó mà lòng tôi đau như cắt, bởi tâm sự của nó cũng là tâm sự của tôi, nói với nó cũng là tôi đang tự giải tỏa lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa. Tôi biết cái ý nghĩ mong có anh em đồng chí, cụ Hồ nghe được mà biết, mà soi xét cho bố con tôi chỉ là ý nghĩ viển vông, nhưng tôi vẫn không nhịn được mà nói chuyện với con. Chí ít, mỗi lần nói chuyện với con xong, lòng tôi cũng vơi đi mấy phần.
Nhưng có một chuyện đã xảy ra khiến tảng đá trong lòng tôi biến mất hoàn toàn: ông chủ tịch đã cho hay tin làng tôi được cải chính. Hôm ấy, ngài ấy xuất hiện trước mặt tôi làm tôi sửng sốt, nhất thời không phản ứng kịp, mãi mới nhớ ra là phải mời khách vào nhà. Thì ra ngài ấy muốn mời tôi cùng báo tin. Tôi chọn ngay ra bộ quần áo sạch sẽ, tươm tất nhất mà cho dù là lễ Tết tôi cũng không nỡ diện để mặc vào, chỉnh gọn gàng lại đầu tóc rồi cùng đi với ngài ấy. Mãi đến sẩm tối tôi mới về đến nhà. Vừa chia quà cho các con xong, tôi sang ngay nhà bác Thứ và nhà chủ nhà khoe rằng ông chủ tịch vừa lên cải chính cái tin làng tôi theo giặc là “sai sự mục đích”, thậm chí khoe cả cái tin nhà tôi bị Tây đốt mất rồ. Mặc dù đối với người nông dân chúng tôi cái nhà là quan trọng nhất nhưng tôi không ức chế nổi sự sung sướng của mình. Chỉ là một căn nhà thôi, sau này chiến tranh kết thúc quay về xây dựng lại cũng được, chứ nếu danh dự của làng bị mất thì đó sẽ là một vết nhơ mà kể cả qua bao nhiêu năm cũng không xóa nhòa đi nổi.
Tôi tưởng câu chuyện nhỏ này chỉ có gia đình tôi và vài người xung quanh biết nhưng không thể ngờ được nó lại được nhà văn Kim Lân – một nhà văn cùng quê với tôi – viết thành một truyện ngắn đăng trên báo Văn nghệ và còn được đánh giá rất cao. Nhà văn đã mượn truyện của tôi để khái quát thành tình cảm của người nông dân của khắp mọi nơi trên mọi miền của Tổ quốc. Là người nông dân ai chẳng yêu nơi chôn rau cắt rốn của mình, đất nước có giặc người nông dân khắp nơi đều đứng lên tham gia kháng chiến. Đó là sự tin tưởng tuyệt đối vào Cách mạng.
Cuộc sống ngày hôm nay của chúng ta đang ngày càng trở nên tốt hơn, tất cả là nhờ có Cách mạng. Chính vì vậy chúng ta càng phải cố gắng đem hết sức mình cống hiến cho đất nước, cho quê hương để đất nước hết giặc, cuộc sống của người nông dân sẽ được đổi mới hoàn toàn.
*Mở bài :
Giới thiệu khái quát sự việc
*Thân bài:
- Tình huống xảy ra câu chuyện: Do thiếu sưu, anh Dậu bị đánh trói ngoài đình. Nửa đêm người ta cõng anh về rũ rượi như một xác chết. Chị Dậu nấu cháo cho chồng, anh Dậu chưa kịp ăn thì cai lệ và người nhà lí trưởng ập đến.
- Qúa trình tức nước:
+ lời nói hành động trói sưu của cai lệ và người nhà lí trưởng
+ Sự van xin nhẫn nhục của chị Dậu
(Chú ý cách xưng hô của chị Dậu với tên cai lệ và người nhà lí trưởng)
-Quá trình vỡ bờ:Cảnh ẩu đả quyết liệt giữa chị Dậu với bọn cai lệ và người nhà lí trưởng
+Thái độ của anh Dậu
+Lời nói của chị Dậu(Thay đổi cách xưng hô)
*Kết bài:
Suy nghĩ của người kể khi chứng kiến cảnh này
*Mở bài :
Giới thiệu khái quát sự việc
*Thân bài:
- Tình huống xảy ra câu chuyện: Do thiếu sưu, anh Dậu bị đánh trói ngoài đình. Nửa đêm người ta cõng anh về rũ rượi như một xác chết. Chị Dậu nấu cháo cho chồng, anh Dậu chưa kịp ăn thì cai lệ và người nhà lí trưởng ập đến.
- Qúa trình tức nước:
+ lời nói hành động trói sưu của cai lệ và người nhà lí trưởng
+ Sự van xin nhẫn nhục của chị Dậu
(Chú ý cách xưng hô của chị Dậu với tên cai lệ và người nhà lí trưởng)
-Quá trình vỡ bờ:Cảnh ẩu đả quyết liệt giữa chị Dậu với bọn cai lệ và người nhà lí trưởng
+Thái độ của anh Dậu
+Lời nói của chị Dậu(Thay đổi cách xưng hô)
*Kết bài:
Suy nghĩ của người kể khi chứng kiến cảnh này
ngay xua ngay xua thanh giong danh den tung nuoc vo bo
ai hieu xin k nha
*Mở bài :
Giới thiệu khái quát sự việc
*Thân bài:
- Tình huống xảy ra câu chuyện: Do thiếu sưu, anh Dậu bị đánh trói ngoài đình. Nửa đêm người ta cõng anh về rũ rượi như một xác chết. Chị Dậu nấu cháo cho chồng, anh Dậu chưa kịp ăn thì cai lệ và người nhà lí trưởng ập đến.
- Qúa trình tức nước:
+ lời nói hành động trói sưu của cai lệ và người nhà lí trưởng
+ Sự van xin nhẫn nhục của chị Dậu
(Chú ý cách xưng hô của chị Dậu với tên cai lệ và người nhà lí trưởng)
-Quá trình vỡ bờ:Cảnh ẩu đả quyết liệt giữa chị Dậu với bọn cai lệ và người nhà lí trưởng
+Thái độ của anh Dậu
+Lời nói của chị Dậu(Thay đổi cách xưng hô)
*Kết bài:
Suy nghĩ của người kể khi chứng kiến cảnh này
Hôm nay bên trời nắng đẹp lại dỗi việc tôi quyết định cùng cô cháu gái là kĩ sư đi chơi một buổi vì hôm nay nó cũng rảnh.
Cô cháu gái của tôi hỏi: Vậy bác định đi đâu ?
Tôi trả lời: ” Đi …. Sapa cháu nhé. Lần gì bác đi công tác, anh lái xe có nói là khi nào bác dỗi bác đến tìm anh ấy và anh ấy sẽ đưa bác đến Sapa cho bác gặp một người rất đặc biệt. Anh ta còn hứa hẹn rằng chắc chắn người đó sẽ để lại cảm tình trong lòng bác. Bác đang rất tò mò xem người đó là ai đây”
“Nghe bác kể cháu cũng tò mò quá ạ” Cô cháu gái tôi mắt sáng hẳn lên, tỏ rõ vẻ thích thú khi nghe tôi kể.
Sáng sớm, xe bắt đầu chuyển bánh. Đoạn đường hơi xa cho nên tôi và cô cháu gái ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Cho đến khi xe đi vào đoạn đường xóc, xe rung chuyển, tôi mới chợt choàng tỉnh. Nhìn qua ô cửa sổ thấy cảnh sao mà đẹp quá !
Tôi gọi cô cháu gái dậy: ” Đến Sapa rồi kìa dậy đi nào”
Khung cảnh ở đây thật đẹp, thật thơ mộng. Có những rặng đào với cả đàn bò lang. Khi tiếp xúc với anh thanh niên, được nghe anh kể về những người khác thì tôi đã hiểu thêm về cuộc sống ý nghĩa của anh cũng như của những người thầm lặng trên đình núi Yên Sơn cao hai ngàn sáu trăm mét này.
Tôi bắt đầu thắc mắc về người sắp gặp, anh lái xe có hé lộ đôi chút về người đó:
Đó là một anh thanh niên, 27 tuổi, sống một mình trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m. Công việc của anh đo nắng, đo gió, tính mây.
Nghe đến đó tôi bắt đầu có những thắc mắc trong đầu:
Anh ta là thanh niên mà lại đi sống một mình đành vậy lại còn trên cái đỉnh núi cao lênh khênh như thế nữa chứ ?
Tại sao anh ta không đi tìm hạnh phúc riêng cho mình mà lại đi dấn thân vào cái công việc này ? Đứa cháu gái của tôi cũng háo hức không kém.
Tôi vẫn còn nhớ giây phút được bác lái xe giới thiệu cho chúng tôi về anh thanh niên. Anh làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu, sống một mình trên đinh núi nên anh rất “thèm người”. Bác vừa nói xong thì anh xuất hiện. Vóc dáng nhỏ bé, nét mặt tràn đầy sức sống, là những gì toát lên qua cái nhìn của tôi về anh.
Anh giới thiệu về công việc của mình. Nhiệm vụ của anh là đo gió, đo mưa, đo nắng, dự báo thời tiết hằng ngày phục vụ cho sản xuất, chiến đấu. Anh kể rằng nửa đêm đang nằm trong chăn, phải chui ra khỏi chăn, ra vườn giữa khí trời lạnh buốt. Tôi thấy tội cho anh vô cùng. Không những hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình anh còn có một lối sống ngăn nắp mẫu mực.
Tôi hỏi anh:
– Sao người ta bảo anh là người cô độc nhất thế gian? Rằng anh “thèm” người lắm?
Anh thanh niên cười:
– Các từ ấy đều là của bác lái xe. Không, không đúng đâu.
Anh hạ giọng tâm sự với chúng tôi rằng lúc chưa vào nghề, nhìn ngôi sao giữa bầu trời đen kịt, anh nghĩ ngôi sao kia lẻ loi một mình.
Bây giờ vào nghề, anh mới thấy không phải vậy. Anh còn cho rằng công việc của anh gắn liền với bao công việc của anh em đồng chí dưới xuôi, Cất công việc đi, anh buồn đến chết mất. Anh tâm sự nhự đọc lại một điều suy nghĩ từ rất lâu. Bất giác anh giật mình khi thấy tôi hí hoáy vẽ mình. Anh đã từ chối một cách khiêm tốn và giới thiệu cho tôi những người xứng đáng được vẽ hơn. Nhưng dù anh có ngăn cản, tôi vẫn vẽ được nhưng hơi vất vả.
Cuộc vui nào mà chẳng đến lúc phải chia tay. Giây phút đó thật luyến tiếc. Anh còn tặng cho chúng tôi một làn trứng gà không tiễn vì bảo đã gần đến giờ “ốp”. Tôi rất cảm phục việc thực hiện giờ làm việc của anh.
Cuộc nói chuyện tuy ngắn ngủi nhưng đã để lại trong tôi và mọi người những ấn tượng khó quên. Qua cuộc gặp gỡ ấy, tôi đã có những suy nghĩ và tình cảm mới mẻ về con người và cuộc sống. Anh thánh niên đã giúp tôi cảm nhận được hơi thở tràn trề sức sống của những con người làm việc trên Sa Pa.
Tôi là Trương Sinh ở Nam Xương, cùng quê với Vũ Nương, sau này là vợ tôi. Câu chuyện thương tâm của gia đình tôi đã xảy ra cách đây mấy năm, nhưng mỗi lúc nghĩ đến, tôi vẫn thấy dường như mới chỉ xảy ra hôm qua.
Vũ Nương là một cô gái nết na, thuỳ mị và xinh đẹp. Khuôn mặt nàng thanh tú, đôi mắt đen dịu hiền, mái tóc dày óng mượt. Nàng đẹp một vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm và phúc hậu. Tôi đem lòng yêu mến nàng nên đã xin mẹ cưới nàng về làm vợ. Nàng là một người vợ hiểu lễ giáo, phép tắc, nói năng nhỏ nhẹ, một lòng thương chồng, phụng dưỡng mẹ già nên dù tôi có tính đa nghi nhưng gia đình tôi luôn được êm ấm.
Cuộc sống của chúng tôi đang êm ềm trôi qua thì chiến tranh xảy ra, tôi phải ghi tên tòng quân. Buổi tiễn đưa, nàng buồn rười rượi, lòng trĩu nặng lo âu, phiền muộn. Nàng thương tôi phải đi vào nơi gió cát nghìn trùng xa cách, đói rét, bệnh tật. Nàng lo cho tôi rồi đây giáp mặt với giặc dữ, cận kề cái chết. Nàng không mong tôi lập công được đeo ấn phong hầu mà chỉ mong tôi bình an trở về. Tay nàng nắm chặt áo tôi chẳng rời, mắt nàng rưng rưng khiến tôi cầm lòng không được. Giờ phút chia tay đã đến. Tôi dứt áo ra đi, nàng thẫn thờ nhìn theo, mắt nhoà lệ. Tôi vừa đi vừa ngoái lại, bóng dáng nhỏ bé của người vợ hiền dần khuất sau ngàn dâu xanh thẳm. Lòng tôi nhớ thương, chua xót không cùng.
Khi tôi đang ở nơi khói lửa chiến trường thì Vũ Nương đến kì đã sinh được một bé trai. Cháu được đặt tên là Đản. Nhưng mẹ tôi, vì quá nhớ thương tôi mà ốm đau mòn mỏi. Vũ Nương đã thay tôi hết lòng thuốc thang, động viên nhưng vì bệnh tình trầm trọng, cụ đã qua đời. Hàng xóm kể lại, Vũ Nương rất mực thương xót, lo ma chay chu tất như cha mẹ đẻ. Nàng là một người trọn tình, vẹn nghĩa, trọn đạo hiếu khiến tôi càng yêu thương, nể phục.
Cuối cùng, tôi cũng được bình an trở về sau bao nhiêu gian khổ hiểm nguy. Mấy năm xa cách nhớ thương, nay đoàn tụ, vợ chồng mừng mừng, tủi tủi. Hay tin mẹ qua đời, lòng tôi buồn khổ quá. Tôi hỏi thăm mộ mẹ rồi bế con đi viếng. Dọc đường, bé Đản khóc, tôi dỗ : "Nín đi con, bà mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi". Bé Đản liền nói tôi không phải là cha nó, cha nó là người trước đây đêm nào cũng đến bên mẹ. Tôi choáng váng. Đất dưới chân tôi như sụp xuống. Tôi cứ nghĩ Vũ Nương là một người vợ ngoan hiền, đức hạnh, ngờ đâu nàng trở nên hư hỏng như vậy sao? Tôi bỗng thấy căm giận Vũ Nương. Mối nghi ngờ trong tôi mỗi lúc càng được thổi bùng lên, không có cách gì dập tắt được. Về đến nhà, tôi la mắng om sòm cho hả giận. Vũ Nương bàng hoàng sửng sốt. Nàng vừa khóc vừa thanh minh : "Thiếp vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp chưa được bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác. Trong ba năm cách biệt, thiếp một mực giữ gìn tiết hạnh, không tô son điểm phấn, không bén gót chốn chơi bời hoa liễu, một mực nhớ thương và chung thuỷ với chàng. Xin chàng hãy tin thiếp, đừng nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp...". Nhưng bao nhiêu lời nói chân thật cũng không làm dịu được mối nghi ngờ trong tôi. Hàng xóm thương Vũ Nương cũng ra sức bênh vực và biện bạch cho nàng, nhưng tôi không nghe ai hết. Ngọn lửa hờn ghen đang đốt cháy mọi cảm xúc, ý nghĩ của tôi. Tôi mắng nhiếc không tiếc lời rồi đánh đuổi nàng đi. Cảm thấy không thể thuyết phục được tôi, Vũ Nương bất đắc dĩ nói trong đau đớn, xót xa, cay đắng rằng : nàng đã nương dựa vào tôi là vì mong có một gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Nhưng bây giờ, trâm gãy bình tan, tình cảm vợ chồng sứt mẻ, nàng không còn mặt mũi nào mà sống ở trên đời này thêm nữa. Rồi nàng tắm gội sạch sẽ, ra bến Hoàng Giang than khóc, thề nguyền và gieo mình xuống sông tự vẫn.
Về phần tôi, mối nghi ngờ không chỉ làm hại Vũ Nương mà còn làm khổ tôi, dằn vặt tôi không phút nào yên. Tuy giận Vũ Nương thất tiết nhưng khi nàng tự vẫn, tôi cảm thấy lòng đau nhói. Tôi lang thang đi tìm vớt xác nàng nhưng không thấy tăm hơi. Hoá ra, lời thỉnh cầu của nàng đã linh nghiệm. Thần linh thấu hiểu và thương tình đã cho các nàng tiên dưới thuỷ cung cứu vớt, cho nàng nương nhờ trong cung điện của Linh Phi.
Hai cha con tôi sống những ngày tháng cô đơn, buồn bã đằng đẵng. Một đêm, phòng không vắng vẻ, tôi ngồi dưới ngọn đèn khuya, bóng in trên vách. Bé Đản thấy thế liền chỉ tay lên chiếc bóng và nói : "Cha Đản lại đến kia kìa!". Tôi ngỡ ngàng rồi hiểu ra. Hỡi ơi, tôi đã hại chết Vũ Nương rồi! Tôi đau đớn, ân hận, xót xa, day dứt vô hạn. Bây giờ tôi mới hiểu vợ tôi bị oan, rằng nàng đã chết trong nỗi oan ức và tuyệt vọng. Nhưng việc đã lỡ rồi, tôi chẳng biết làm gì hơn là đau khổ, buồn thương, day dứt.
Một hôm, Phan Lang - người cùng làng tôi đến kể cho tôi nghe là đã gặp Vũ Nương dưới thuỷ cung. Ban đầu tôi không tin, nhưng khi chàng đưa chiếc hoa vàng cho tôi, tôi sửng sốt vì đó chính là vật vợ tôi đem theo lúc ra đi. Phan Lang nói, Vũ Nương vẫn cảm thấy tủi cực vì chưa được minh oan, vẫn thương nhớ chồng con, đau xót ứa nước mắt khi nghe kể cảnh buồn tủi của cha con tôi, cảnh nhà cửa, vườn tược hoang vu, phần mộ mẹ cha cỏ gai rợp mắt... Được biết nàng vẫn thương nhớ chồng con, tôi rất vui. Lòng tôi chứa chan hi vọng được gặp lại nàng. Tôi làm theo lời nhắn của nàng, lập một đàn giải oan ở bến sông, những mong nàng sẽ tha thứ cho lỗi lầm của tôi mà trở về, để tôi có thể bù đắp lại những đau khổ, thiệt thòi mà tôi đã gây ra cho nàng. Quả nhiên, Vũ Nương đã trở về. Giữa dòng Hoàng Giang mênh mông sóng nước bỗng hiện lên một chiếc kiệu hoa vàng lộng lẫy, rực rỡ. Nàng ngồi trên chiếc kiệu hoa ấy, mắt phượng mày ngài, dáng vẻ thanh thoát, cử chỉ khoan thai như một nàng tiên. Theo sau nàng, hơn 50 chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lung linh trong ánh nến thoáng ẩn, thoáng hiện. Cả dòng sông như một lâu đài nguy nga tráng lệ mà nàng là người chủ lâu đài đó. Tôi vội gọi, khẩn thiết, chới với. Nàng nghe tiếng tôi nhưng cứ đứng giữa dòng, đôi mắt buồn thăm thẳm. Rồi nàng nói vọng vào, cảm tạ tình tôi, nhưng đã hứa với Linh Phi nên không trở về trần gian được nữa. Tôi đau khổ quá mức, nhưng còn biết làm sao được. Tuy vẫn còn thương nhớ nhau nhưng cốc nước đầy một khi đã đổ xuống đất thì dù có cố gắng thế nào cũng không thể vớt lại cho đầy được. Giữa chúng tôi đã có những khoảng cách không thể nào bù đắp.
Còn chưa hết cay đắng, ngậm ngùi thì khói sương đã phủ, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần rồi biến mất.
Câu chuyện của tôi, những sai lầm của tôi là có thật. Tôi đã đánh mất hạnh phúc của mình. Kể ra câu chuyện đau lòng này, tôi chỉ muốn mọi người đừng xử sự nông nổi, cả giận mất khôn như tôi. Hãy tin yêu con người, thực lòng yêu thương người thân để gia đình không rơi vào những bi kịch đau đớn.
Bạn có thể tham khảo bài viết này nhé! Chúc bạn học tốt!
Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình khá giả quê ở Nam Xương. Vừa mới đến tuổi đôi mươi mẹ tôi bèn cưới vợ cho. Vợ tôi tên là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương. Người đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Tôi có tính hay ghen đối với vợ tôi phòng ngừa thái quá. Vợ tôi cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa. Cuộc đoàn viên chưa được mấy lâu thì nhà nước có việc đi đánh Chiêm Thành, bắt nhiều lính tráng. Tôi tuy con nhà dòng nhưng không có học tên đã ghi trong sổ khai tráng phải đi sung binh loạt đầu. Lúc tôi ra đi mẹ có dặn rằng:
Nay con phải tạm đi tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm trọng, biết gặp nạn thì lui, lượng sức mà đánh đừng nên thăm miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới cá. Quan cao tước lớn để dành người ta, có như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì con được.
Tôi quỳ xuống đất vâng lời dạy. Vợ thì rót chén rượu đầy tiễn chồng rằng:
Lang quân đi chuyến này thiếp chẳng mong đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ rồi.
Vợ tôi nói đến đây mọi người đều đẫm lệ.
Rồi đó chén đưa vừa cạn dứt áo chinh phu, ngước mắt trông lên đã đẫm nỗi buồn ly biệt. Bấy giờ vợ tôi đương có thai. Sau khi tương biệt được mười ngày thì sinh được một đứa con trai đặt tên là Thằng Đản.
Ngày qua tháng lại thấm thoát đã nửa năm. Mẹ tôi không phải không muốn đợi tôi về mà là tuổi già sức yếu cộng thêm nhớ con mà sinh ốm. Vợ tôi hết sức thuốc thang chăm lo chu đáo nhưng mẹ đã không qua khỏi. Vợ tôi hết lời thương xót phàm việc mà chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra.
Qua sang năm sau giặc Chiêm chịu trói, quân nước kéo về. Tôi mới về thì mẹ đã từ trần, con vừa học nói. Tôi hỏi mộ mẹ rồi dắt con nhỏ đi thăm, song nó không chịu gào khóc. Tôi dỗ dành:
Nín đi con, đừng khóc! lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!
Con tôi nói:
Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không giống như cha trước kia chỉ nín thin thít.
Tôi ngạc nhiên gạn hỏi nó nói:
Khi ông chưa về đây thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến. Mẹ đi cũng đi mẹ ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.
Tính tôi hay ghen nghe con nói vậy tin chắc đinh ninh là vợ hư, không còn cách gì tháo cởi ra được.
Về đến nhà tôi mắng vợ một bữa cho hạ giận, Vợ tôi khóc mà rằng:
Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa tía. Xum họp chưa thỏa chăn gối, phân phôi vì đọng việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết…..Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin trần bạch để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.
Tôi vẫn không tin. Vợ tôi gạn hỏi việc kia ai nói nhưng tôi vẫn không nói ra là lời con nói. Tôi thường mắng mở và đuổi vợ ra khỏi nhà, bà con hàng xóm đến can cũng không có tác dụng gì.
Bị tôi đánh đuổi ra khỏi nhà vợ tôi bị rơi vào ngõ cụt. Vợ tôi tắm rửa sạch sẽ rồi ra Hoàng Gia ngửa mặt lên trời mà than mong trời chứng giám cho.
Nếu đoan tranh giữ tiết một lòng một dạ với chồng con thì khi chết xin được làm Mỵ Nương, cỏ Ngu Mỹ. Nếu lừa chồng dối con thì nguyện làm mồi cho cá. Nói xong vợ tôi gieo mình xuống sông mà chết.
Tuy tôi rất tức giận vì nàng không thủy chung nhưng nàng chết đi tôi cũng vô cùng thương tiếc tìm vớt thây nàng nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Một mình gà trống nuôi con vắng vẻ lạnh lẽo đêm đến tôi bấc đèn tàn, không sao ngủ được chợt con tôi nói rằng:
Cha Đản lại đến rồi!
Tôi hỏi đâu. Nó chỉ vào bóng tôi trên vách.
Thì ra tôi đi vắng vợ tôi thường đùa chỉ bóng mình mà bảo là cha. Bấy giờ tôi mới hiểu ra nỗi oan của vợ nhưng chẳng làm gì được nữa.
Cùng làng với vợ tôi có người tên là Phan Lang một đem chiêm bao thấy người con gái áo xanh , đến kêu xin tha mạng. Sáng dậy nhặt được một con rùa hắn ta nhớ đến giấc mơ hôm qua bèn phóng sinh cho con rùa. Phan Lang đi đánh cá và bị lật thuyền thây hắn trôi dặt và được một cô Vũ Nương cứu sông. Cô ấy bảo là người cùng làng với Lang, Vũ Nương sai sứ giả đưa Phan Lang lên khỏi nước, Vũ Nương cũng gửi một chiếc hoa vàng và dặn:
Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một dàn giải oan ở bến sông,đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về.
Về đến nhà Phan đem kể lại chuyện này cho tôi ban đầu tôi cũng không tin nhưng khi nhậ được chiếc hoa vàng tôi mới tin. Đây thật sự là vật dụng của vợ tôi.
Tôi bèn theo lời Phan lập một dàn giải oan trên bến sông. Vợ tôi hiện lên thật nhưng lúc ẩn lúc hiện.Tôi vội gọi nhưng nàng vẫn ở giữa dòng sông mà nói với vào:
Thiếp cảm ơn, ơn đức của Linh Phi đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng về lại được nhân gian nữa.
Trong phút chốt cảnh tượng tan biến. Tôi gục đầu thổn thức. Một sự ân hận ghê gớm vào tâm can tôi. Chỉ vì một cơn ghen mù quáng mà tôi đã làm cho vợ chông mẹ con phải li biệt mãi mãi. Sai lâm của tôi không thể nào cứu chữa được nữa. Tôi mong mọi người hãy nhìn vào tôi mà rút ra bài học cho chính bản thân mình. Đã là vợ chông thì hãy thương yêu tin tưởng lẫn nhau có như vậy hạnh phúc mới bền vững mãi mãi được.
Thời gian thấm thoát trôi đi, đã ba năm rồi, tôi vẫn còn nhớ. Hồi học lớp Hai, tôi và Quỳnh rủ nhau ra vườn hoa trong trường chơi vào giờ giải lao.
Buổi sáng hôm ấy là một buổi sáng mùa xuân, không khí ấm áp, chúng tôi tha hồ hít thở bầu không khí trong lành. Vườn trường có nhiều sắc hoa. Tôi thích nhất là cây hoa cúc vàng. Nó nhiều cánh, nhị ở giữa, cánh hoa mềm mại xếp đều vào nhau; hương hoa thơm thoang thoảng và trông thật dễ thương, sắc hoa màu vàng rực rỡ. Tôi nói:
- Quỳnh ơi, xem kìa, hoa cúc mới đẹp làm sao!
Quỳnh bĩu môi:
- Ờ đẹp thật! Nhưng làm sao đẹp bằng hoa hồng. Hoa hồng là bà chúa của các loài hoa.
Tôi và Quỳnh mải tranh cãi với nhau, ai cũng cho ý mình là đúng và có lí cả. Suốt thời gian đầu Quỳnh vẫn bảo vệ ý đúng của mình. Quỳnh giận tôi thật rồi! Từ góc vườn, bác bảo vệ lại gần chúng tôi:
- Này hai cháu, từ nãy đến giờ bác đã nghe hai cháu tranh cãi với nhau việc hoa nào đẹp hơn rồi. Bây giờ bác nói cho hai cháu nghe nhé: “Hoa nào cũng đẹp, mỗi hoa có một vẻ đẹp riêng. Cái chính là chúng ta phải biết chăm sóc cho hoa đẹp hơn, tươi hơn và đâm chồi để nở ra nhiều hoa khác”. Tôi và Quỳnh nghe bác nói mới hiểu ra. Lúc bấy giờ chúng tôi nhìn nhau với ánh mắt vui vẻ như ban đầu. Vườn hoa trước mắt chúng tôi lúc bấy giờ như đẹp hơn.
Bây giờ chúng tôi đã lớn. Ba năm qua, kỉ niệm thời thơ ấu vẫn đọng mãi trong tôi: Một tình bạn đẹp, một kỉ niệm khó quên.
đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê tôi bê đê
Trước hết, đặt mình vào nhân vật Thủy, xưng "tôi" và kể lại chuyện theo mạch cảm xúc của mình (tất nhiên! vì mình đang là Thủy mà), có thể lược bỏ một số chi tiết nhỏ và nên thêm vào những cảm xúc, suy nghĩ (hãy nhớ nếu mình là Thủy thì lúc đó mình sẽ cảm thấy ra sao, thấy buồn và đau khổ như thế nào), cứ thế mà kể lại theo cốt truyện của bản gốc thôi.
Nói thế để bạn dễ hiểu và có thể tự làm được, chứ làm cụ thể ra thì văn bản dài quá!
VD: đoạn anh em Thành và Thủy không nỡ chia đồ chơi, bị mẹ mắng có thể viết như sau:
Hai anh em tôi cứ dùng dằng mãi, không nỡ chia đôi đồ chơi, tôi muốn nhường tất cả cho anh, và anh Thành cũng vậy, anh muốn nhường cho đứa em bé bỏng này. Và đúng hơn là cả hai anh em đều không muốn chia lìa nhau. Nhưng tiếng mẹ quát lại vọng ra khiến tôi giật mình, buồn bã, lo sợ, bao nhiêu cảm xúc lẫn lộn khiến nước mắt tôi lại tuôn trào. Tôi bật khóc nức nở
VD: MB:Tôi là con Vệ Sĩ trong câu chuyện''Cuộc chia tay của những con búp bê''.Các bạn có muốn biết vì sao chúng tôi lại phải chia tay nhau không? Nếu các bạn muốn biết thì hãy nghe mình kể lại nhé.
Đoạn sau bạn chỉ cần dựa theo bài thay lời của Thành thành lời của con búp bê Vệ Sĩ là được.
Tham khảo:
Tôi là Thạch Sanh. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, tôi sống lủi thủi một mình trong túp lều cũ dựng dưới gốc đa. Cả gia tài của tôi chỉ có một lưỡi búa để hàng ngày lên rừng đốn củi kiếm ăn.
Một hôm, có người hàng rượu tên là Lý Thông đi qua chỗ tôi, nghỉ ở gốc đa. Lý Thông thấy tôi gánh củi về liền lân la gợi chuyện và nói kết nghĩa anh em với tôi. Tôi cảm động lắm, vui vẻ nhận lời. Lý Thông là anh còn tôi là em. Tôi từ giã gốc đa, đến sống chung với mẹ con Lý Thông.
Đi kiếm củi về, tôi thấy mâm cơm có rất nhiều thức ăn ngon. Chưa hiểu nhà có việc gì thì anh Lý Thông nói với tôi:
- Đêm nay, đến phiên anh canh miếu thờ, ngặt vì dở cất mẻ rượu, em chịu khó thay anh, đến sáng thì về.
Tôi không nghĩ ngợi gì, vui vẻ nhận lời. Đêm hôm ấy, khi tôi đang mơ màng nửa ngủ nửa thức thì một con trăn tinh hiện ra. Nó nhe răng, giơ vuốt định vồ lấy tôi. Tôi giơ cao búa đánh vào con chằn tinh. Tôi xả xác nó làm hai mảnh. Trăn tinh hiện nguyên hình là một con trăn khổng lồ và để lại bên mình một bộ cung bằng vàng.
Tôi chặt đầu quái vật và nhặt bộ cung tên bằng vàng rồi xách đầu quái vật về nhà. Tôi gọi cửa mãi anh Lý Thông mới ra mở cửa. Không hiểu sao mẹ con anh Lý Thông cứ van lạy tôi rối rít.
Khi vào nhà, tôi kể đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, anh Lý Thông nói với tôi: - Con trăn ấy là của vua nuôi đã lâu. Nay em giết nó, tất không khỏi bị tội chết. Thôi, bây giờ nhân trời chưa sáng em hãy trốn đi ngay đi. Có chuyện gì để anh ở nhà lo liệu.
Tôi không nghi ngờ gì liền trở về túp lều dưới gốc đa ngày nào. Tôi lại sống bằng nghề kiếm củi.
Một hôm, tôi đang ngồi dưới gốc đa thì trông thấy một con đại bàng quắp một người con gái. Tôi liền lấy cung tên vàng ra bắn con đại bàng. Mũi tên trúng vào cánh làm nó bị thương. Nhưng nó vẫn cố bay về hang trong núi. Theo vết máu, tôi tìm được chỗ ở của con đại bàng.
Nghe có lễ hội đông vui, tôi liền tìm đến xem. Nào ngờ, ở đó, tôi gặp anh Lý Thông. Anh ấy đã kể cho tôi nghe việc tìm công chúa. Tôi thật thà kể cho anh nghe về việc tôi bắn đại bàng và biết được chỗ ở của nó. Anh Lý Thông liền nhờ tôi dẫn đến chỗ đại bàng.
Tôi xin được xuống hang cứu công chúa. Quân sĩ lấy dây buộc ngang lưng tôi rồi dòng xuống hang. Xuống tới đáy hang, tôi thấy đại bàng hiện nguyên hình là một con yêu tinh ở trên núi. Tuy bị thương nặng nhưng con quái vật vẫn rất hung dữ. Nó giơ vuốt và lao vào tôi. Tôi dùng cung tên vàng bắn mù hai mắt nó. Tôi chặt đứt vuốt sắc, bổ vỡ đầu con quái vật. Tôi lấy dây buộc ngang người công chúa và ra hiệu cho quân sĩ của Lý Thông kéo lên.
Tôi chờ quân sĩ thả dây xuống kéo tôi lên, nào ngờ cửa hang đã bị lấp lại. Lúc đó, tôi mới biết là Lý Thông hại tôi. Tôi tìm cách lên. Đi đến cuối hang, tôi thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú bị nhốt trong cũi sắt. Tôi dùng cung tên vàng bắn tan cũi sắt và cứu chàng ra. Chàng trai cho biết mình là thái tử con vua Thủy Tề.
Thái tử thoát nạn, cám ơn tôi và mời tôi xuống thủy phủ chơi. Vua Thủy Tề vui mừng được gặp lại con. Biết tôi là người cứu con trai mình, vua Thủy Tề cảm ơn tôi và biếu tôi rất nhiều vàng bạc châu báu. Tôi không lấy vàng bạc châu báu mà chỉ xin một cây đàn, rồi tôi trở về gốc đa.
Một hôm, tôi bị quân lính của nhà vua tới và bắt giam tôi vào ngục. Lúc đó, tôi mới biết của cải của nhà vua bị mất trộm và được giấu ở gốc đa nơi tôi ở. Tôi bị bắt vì nhà vua cho là chính tôi đã ăn trộm. Lúc đó tôi mới nghĩ là chính chằn tinh và đại bàng bị giết đã báo thù tôi.
Trong ngục tối, tôi đem đàn vua Thủy Tề cho ra gảy. Không ngờ tiếng đàn của tôi vẳng đến hoàng cung. Nàng công chúa được tôi cứu đòi vua cha cho được gặp người đánh đàn. Nhà vua cho đưa tôi đến. Trước mặt mọi người, tôi kể hết đầu đuôi câu chuyện của mình, từ chuyện kết bạn với Lý Thông, đến chuyện chém chằn tinh, giết đại bàng, cứu công chúa và cuối cùng bị bắt oan vào ngục thất.
Cho đến lúc này tôi mới biết chằn tinh không phải vua nuôi mà Lý Thông đã nham hiểm lừa tôi đi chết thay cho hắn. Và lúc này, tôi cũng mới biết, nàng công chúa đã bị câm sau khi được tôi cứu khỏi hang. Nàng chỉ vui cười trở lại khi nghe tiếng đàn của tôi.
Nhà vua cho bắt mẹ con Lý Thông giam lại và giao cho tôi xét xử. Nhà vua gả công chúa cho tôi. Lễ cưới tưng bừng nhất kinh kì. Hoàng tử các nước chư hầu trước kia bị công chúa từ hôn lấy làm tức giận, họ hội binh lính của mười tám nước sang đánh. Tôi xin nhà vua đừng động binh.
Tôi lấy đàn thần ra gảy. Quân mười tám nước bủn rủn chân tay không còn nghĩ gì đến chuyện đánh nhau nữa. Cuối cùng, tất cả đều phải xin hàng.
Tôi sai dọn một bữa cơm thết đãi những kẻ thua trận. Tôi cho dọn ra một niêu cơm nhỏ. Cả mấy vạn tướng lính thấy niêu cơm như vậy liền bĩu môi cười. Tôi liền hứa sẽ trọng thưởng cho người ăn hết niêu cơm. Quân mười tám nước ăn mãi không hết. Cơm trong niêu hết lại đầy. Tất cả cúi đầu lạy tạ vợ chồng tôi rồi kéo quân về nước.
Vì không có con trai nối ngôi, nhà vua đã nhường ngôi cho tôi. Từ đó, tôi làm một ông vua tốt và dân chúng có cuộc sống no ấm, yên bình.
Tham khảo:
Một hôm, trời nắng to. Tôi đi vào rừng hái củi cho chủ, nhưng khát nước quá mà không tìm thấy suối. Thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, tôi bưng lên uống.
Không ngờ, về nhà thì mang thai. Tôi sinh ra một đứa trẻ không chân, không tay, tròn như một quả dừa. Tôi buồn lắm, toan vứt đi đứa con bảo:
- Mẹ ơi, con là người đấy. Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp.
Nghĩ lại, thấy thương con, tôi đành để con lại nuôi và đặt tên cho nó là Sọ Dừa. Lớn lên, Sọ Dừa vẫn không khác lúc nhỏ, cứ lăn lông lốc trong nhà, chẳng làm được tích sự gì. Tôi cứ than phiền:
- Con nhà người ta bảy, tám tuổi đã đi chăn bò, chăn trâu. Họ giúp bố mẹ được nhiều việc. Còn mày thì chẳng làm được việc gì cả.
Nghe lời tôi nói như vậy, Sọ Dừa nói:
- Gì chứ chăn bò thì con chăn cũng được. Mẹ cứ nói với phú ông cho con ở chăn bò.
Nghe con nói như vậy, tôi liền đến hỏi phú ông. Phú ông đồng ý. Sọ Dừa chăn bò rất giỏi, con nào con nấy bụng no căng. Phú ông mừng lắm. Đến mùa, tôi tớ trong nhà ra đồng hết nên ba cô con gái phải thay phiên nhau đi đưa cơm cho Sọ Dừa. Nghe Sọ Dừa kể lại thì hai cô chị rất ác nghiệt, kiêu căng luôn hắt hủi nó. Còn cô út rất hiền lành, tính hay thương người nên đối đãi với nó rất tử tế. Có của ngon vật lạ cô út thường giấu đem cho Sọ Dừa.
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi cuối năm ấy, Sọ Dừa giục tôi đến hỏi con gái nhà phú ông làm vợ. Tôi nghĩ một người ở như Sọ Dừa làm sao sánh được với con gái nhà phú ông nhưng vì thương con nên cũng nghe theo. Tôi sắm một buồng cau rồi đến nhà phú ông thưa chuyện. Thấy tôi đặt vấn đề hỏi con gái phú ông cho Sọ Dừa. Ông ta cười mỉa và nói vẻ thách thức:
- Ừ, được! Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
Nghe ông ta nói vậy tôi bàng hoàng và nghĩ rằng chẳng bao giờ có đủ các thứ đó. Về nhà tôi nói với Sọ Dừa và khuyên nó đừng bao giờ nghĩ đến việc lấy vợ nữa. Không ngờ Sọ Dừa nói với tôi một cách quả quyết:
- Mẹ đừng lo con sẽ lo đủ các thứ đó.
Đúng hẹn, tự nhiên tôi thấy trong nhà có bao nhiêu đồ sính lễ, lại có cả chục gia nhân ở dưới nhà chạy lên khiêng lễ vật sang nhà phú ông. Lúc đó tôi nghĩ rằng Sọ Dừa không phải là người trần. Phú ông nhìn thấy lễ vật, hoa cả mắt, lúng túng nói với tôi:
- Để ta hỏi con gái ta xem, có đứa nào ưng lấy thằng Sọ Dừa.
Lão gọi ba đứa con gái ra rồi lần lượt hỏi. Hai cô chị bĩu môi chê bai. Còn cô út cúi mặt xuống, tỏ ý bằng lòng. Phú ông đành phải nhận lễ và gả cô con gái cho Sọ Dừa.
Lúc gần rước dâu, tôi chẳng thấy Sọ Dừa đâu mà chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú cùng cô út của phú ông từ phòng cô dâu đi ra. Mọi người đều sửng sốt, mừng rỡ. Hai vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau rất hạnh phúc. Thấy cô út là đứa con dâu hiền lại hiếu thảo nên tôi cũng mừng thầm.
Ngày ngày Sọ Dừa thì mải mê đèn sách chờ khoa thi, còn cô út thì se tơ dệt vải. Ngày thi đã đến Sọ Dừa đã đỗ Trạng nguyên không bao lâu nhà vua ban chiếu quan trạng đi sứ. Hai vợ chồng Sọ Dừa chia tay nhau nhưng vô cùng quyến luyến, khiến tôi không khỏi động lòng. Trước khi lên đường Sọ Dừa còn gọi vợ vào nhà và dặn dò kĩ lắm.
Một hôm hai cô chị đến xin phép tôi cho cô út đi chơi. Nghĩ bụng con dâu phải xa chồng nên buồn bực, tôi liền đồng ý cho cô út đi chơi cùng cho khuây khoả. Thế rồi từ hôm đó, chẳng thấy cô út về, tôi lo lắng chạy sang nhà hỏi phú ông thì hai cô chị kể rằng: Khi chèo thuyền ra biển cô út đã sảy chân ngã xuống biển chết. Nghe tin đó tôi vô cùng đau lòng, thương xót cho cô con dâu hiền lành xấu số. Hết hạn đi sứ Sọ Dừa đã trở về, tôi không ngờ nó lại cùng đi với vợ nữa. Nghe con kể lại, tôi mới biết rõ sự tình.