- Dựa vào đâu có thể nhận định: thời Lý - Trần dân tộc ta xây dựng được nền văn minh rực rỡ, gọi là văn minh Đại Việt?
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Ai Cập cổ đại là một nền văn minh cổ đại nằm ở đông bắc châu Phi, tập trung dọc theo hạ lưu của sông Nile thuộc khu vực ngày nay là đất nước Ai Cập. Nó là một trong sáu nền văn minh phát sinh một cách độc lập trên thế giới. Nền văn minh Ai Cập được thống nhất lại vào năm 3150 TCN (theo trình tự thời gian của bảng niên đại Ai Cập) với sự thống nhất chính trị của Thượng và Hạ Ai Cập dưới thời vị pharaoh đầu tiên. Lịch sử của Ai Cập cổ đại đã trải qua một loạt các thời kỳ vương quốc ổn định, và các giai đoạn hỗn loạn giữa chúng được gọi là các giai đoạn chuyển tiếp: Cổ vương quốc Sơ kỳ Đồ đồng, Trung vương quốc tương ứng giai đoạn Trung kỳ Đồ Đồng và Tân vương quốc ứng với Hậu kỳ Đồ đồng.
Ai Cập đạt đến đỉnh cao của quyền lực của nó vào giai đoạn Tân Vương Quốc, trong thời kỳ Ramesside, vào thời điểm đó nó sánh ngang vớiđế quốc Hittite, đế quốc Assyria và đế chế Mitanni, trước khi bước vào giai đoạn dần suy yếu. Ai Cập đã bị xâm chiếm hoặc chinh phục bởi một loạt các cường quốc nước ngoài, chẳng hạn như người Canaan/Hyksos, Lybia, người Nubia, Assyria, Babylon, Ba Tư dưới triều đại Achaemenid, và người Macedonia trong thời kỳ chuyển tiếp thứ ba và giai đoạn hậu thời Ai Cập. Sau khi Alexander Đại Đế qua đời, một trong những tướng lĩnh của ông, Ptolemy I Soter, đã tuyên bố ông ta là vị vua mới của Ai Cập. Triều đại Ptolemy gốc Hy Lạp này đã cai trị Ai Cập cho đến năm 30 TCN khi nó rơi vào tay đế quốc La Mã và trở thành một tỉnh La Mã.
Sự thành công của nền văn minh Ai Cập cổ đại một phần đến từ khả năng thích ứng của nó với các điều kiện của thung lũng sông Nile cho sản xuất nông nghiệp. Từ việc có thể dự đoán trước lũ lụt và việc điều tiết thủy lợi ở khu vực thung lũng màu mỡ đã tạo ra nhiều nông sản dư thừa, giúp nuôi dưỡng một lượng dân số đông hơn, tạo điều kiện phát triển xã hội và văn hóa. Với việc có nhiều nguồn lực dư thừa, nhà nước đã tập trung vào việc khai thác khoáng sản ở các thung lũng và các khu vực sa mạc xung quanh, cũng như việc sớm phát triển một hệ thống chữ viết độc lập, tổ chức xây dựng tập thể và các dự án nông nghiệp, thương mại với khu vực xung quanh, và xây dựng một đội quân nhằm mục đích đánh bại kẻ thù nước ngoài và khẳng định sự thống trị của Ai Cập. Thúc đẩy và tổ chức những hoạt động này là một bộ máy quan lại gồm các ký lục ưu tú, những nhà lãnh đạo tôn giáo, và các quan lại dưới sự kiểm soát của một pharaoh, người đảm bảo sự hợp tác và đoàn kết của toàn thể người dân Ai Cập dưới một hệ thống tín điều tôn giáo tinh vi.
Những thành tựu của người Ai Cập cổ đại bao gồm khai thác đá, khảo sát và kỹ thuật xây dựng hỗ trợ cho việc xây dựng các công trìnhkim tự tháp, đền thờ, và cột tháp tưởng niệm; một hệ thống toán học, một hệ thống thực hành y học hiệu quả, hệ thống thủy lợi và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, những tàu thủy đầu tiên được biết đến trên thế giới,công nghệ gốm sứ và thủy tinh của Ai Cập, những thể loại văn học mới, và các hiệp ước hòa bình được biết đến sớm nhất, được ký kết với người Hittite. Ai Cập đã để lại một di sản lâu dài. Nghệ thuật và kiến trúc của nó đã được sao chép rộng rãi, và các cổ vật của nó còn được đưa tới khắp mọi nơi trên thế giới. Những tàn tích hùng vĩ của nó đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng của du khách và nhà văn trong nhiều thế kỷ. Sự quan tâm mới hình thành dành cho những cổ vật và các cuộc khai quật trong thời kỳ cận đại ở châu Âu và Ai Cập dẫn đến việc khai sinh ra ngành Ai Cập học để nghiên cứu nền văn minh Ai Cập và một sự đánh giá đúng đắn hơn đối với di sản văn hóa của nó.
Ai Cập cổ đại là một nền văn minh cổ đại nằm ở đông bắc châu Phi, tập trung dọc theo hạ lưu của sông Nile thuộc khu vực ngày nay là đất nước Ai Cập. Nó là một trong sáu nền văn minh phát sinh một cách độc lập trên thế giới. Nền văn minh Ai Cập được thống nhất lại vào năm 3150 TCN (theo trình tự thời gian của bảng niên đại Ai Cập) với sự thống nhất chính trị của Thượng và Hạ Ai Cập dưới thời vị pharaoh đầu tiên. Lịch sử của Ai Cập cổ đại đã trải qua một loạt các thời kỳ vương quốc ổn định, và các giai đoạn hỗn loạn giữa chúng được gọi là các giai đoạn chuyển tiếp: Cổ vương quốc Sơ kỳ Đồ đồng, Trung vương quốc tương ứng giai đoạn Trung kỳ Đồ Đồng và Tân vương quốc ứng với Hậu kỳ Đồ đồng.
Ai Cập đạt đến đỉnh cao của quyền lực của nó vào giai đoạn Tân Vương Quốc, trong thời kỳ Ramesside, vào thời điểm đó nó sánh ngang với đế quốc Hittite, đế quốc Assyria và đế chế Mitanni, trước khi bước vào giai đoạn dần suy yếu. Ai Cập đã bị xâm chiếm hoặc chinh phục bởi một loạt các cường quốc nước ngoài, chẳng hạn như người Canaan/Hyksos, Lybia, người Nubia,Assyria, Babylon, Ba Tư dưới triều đại Achaemenid, và người Macedonia trong thời kỳ chuyển tiếp thứ ba và giai đoạn hậu thời Ai Cập. Sau khi Alexander Đại Đế qua đời, một trong những tướng lĩnh của ông, Ptolemy I Soter, đã tuyên bố ông ta là vị vua mới của Ai Cập. Triều đại Ptolemy gốc Hy Lạp này đã cai trị Ai Cập cho đến năm 30 TCN khi nó rơi vào tay đế quốc La Mã và trở thành một tỉnh La Mã.
Sự thành công của nền văn minh Ai Cập cổ đại một phần đến từ khả năng thích ứng của nó với các điều kiện của thung lũngsông Nile cho sản xuất nông nghiệp. Từ việc có thể dự đoán trước lũ lụt và việc điều tiết thủy lợi ở khu vực thung lũng màu mỡ đã tạo ra nhiều nông sản dư thừa, giúp nuôi dưỡng một lượng dân số đông hơn, tạo điều kiện phát triển xã hội và văn hóa. Với việc có nhiều nguồn lực dư thừa, nhà nước đã tập trung vào việc khai thác khoáng sản ở các thung lũng và các khu vực sa mạc xung quanh, cũng như việc sớm phát triển một hệ thống chữ viết độc lập, tổ chức xây dựng tập thể và các dự án nông nghiệp, thương mại với khu vực xung quanh, và xây dựng một đội quân nhằm mục đích đánh bại kẻ thù nước ngoài và khẳng định sự thống trị của Ai Cập. Thúc đẩy và tổ chức những hoạt động này là một bộ máy quan lại gồm các ký lục ưu tú, những nhà lãnh đạo tôn giáo, và các quan lại dưới sự kiểm soát của một pharaoh, người đảm bảo sự hợp tác và đoàn kết của toàn thể người dân Ai Cập dưới một hệ thống tín điều tôn giáo tinh vi.
Những thành tựu của người Ai Cập cổ đại bao gồm khai thác đá, khảo sát và kỹ thuật xây dựng hỗ trợ cho việc xây dựng các công trình kim tự tháp, đền thờ, và cột tháp tưởng niệm; một hệ thống toán học, một hệ thống thực hành y học hiệu quả, hệ thống thủy lợi và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, những tàu thủy đầu tiên được biết đến trên thế giới, công nghệ gốm sứ và thủy tinh của Ai Cập, những thể loại văn học mới, và các hiệp ước hòa bình được biết đến sớm nhất, được ký kết với người Hittite. Ai Cập đã để lại một di sản lâu dài. Nghệ thuật và kiến trúc của nó đã được sao chép rộng rãi, và các cổ vật của nó còn được đưa tới khắp mọi nơi trên thế giới. Những tàn tích hùng vĩ của nó đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng của du khách và nhà văn trong nhiều thế kỷ. Sự quan tâm mới hình thành dành cho những cổ vật và các cuộc khai quật trong thời kỳ cận đại ở châu Âu và Ai Cập dẫn đến việc khai sinh ra ngành Ai Cập học để nghiên cứu nền văn minh Ai Cập và một sự đánh giá đúng đắn hơn đối với di sản văn hóa của nó.
chúc bạn học tốt
Ai Cập cổ đại là một nền văn minh cổ đại nằm ở đông bắc châu Phi, tập trung dọc theo hạ lưu của sông Nile thuộc khu vực ngày nay là đất nước Ai Cập. Nó là một trong sáu nền văn minh phát sinh một cách độc lập trên thế giới. Nền văn minh Ai Cập được thống nhất lại vào năm 3150 TCN (theo trình tự thời gian của bảng niên đại Ai Cập) với sự thống nhất chính trị của Thượng và Hạ Ai Cập dưới thời vị pharaoh đầu tiên. Lịch sử của Ai Cập cổ đại đã trải qua một loạt các thời kỳ vương quốc ổn định, và các giai đoạn hỗn loạn giữa chúng được gọi là các giai đoạn chuyển tiếp: Cổ vương quốc Sơ kỳ Đồ đồng, Trung vương quốc tương ứng giai đoạn Trung kỳ Đồ Đồng và Tân vương quốc ứng với Hậu kỳ Đồ đồng.
Ai Cập đạt đến đỉnh cao của quyền lực của nó vào giai đoạn Tân Vương Quốc, trong thời kỳ Ramesside, vào thời điểm đó nó sánh ngang với đế quốc Hittite, đế quốc Assyria và đế chế Mitanni, trước khi bước vào giai đoạn dần suy yếu. Ai Cập đã bị xâm chiếm hoặc chinh phục bởi một loạt các cường quốc nước ngoài, chẳng hạn như người Canaan/Hyksos, Lybia, người Nubia,Assyria, Babylon, Ba Tư dưới triều đại Achaemenid, và người Macedonia trong thời kỳ chuyển tiếp thứ ba và giai đoạn hậu thời Ai Cập. Sau khi Alexander Đại Đế qua đời, một trong những tướng lĩnh của ông, Ptolemy I Soter, đã tuyên bố ông ta là vị vua mới của Ai Cập. Triều đại Ptolemy gốc Hy Lạp này đã cai trị Ai Cập cho đến năm 30 TCN khi nó rơi vào tay đế quốc La Mã và trở thành một tỉnh La Mã.
Sự thành công của nền văn minh Ai Cập cổ đại một phần đến từ khả năng thích ứng của nó với các điều kiện của thung lũngsông Nile cho sản xuất nông nghiệp. Từ việc có thể dự đoán trước lũ lụt và việc điều tiết thủy lợi ở khu vực thung lũng màu mỡ đã tạo ra nhiều nông sản dư thừa, giúp nuôi dưỡng một lượng dân số đông hơn, tạo điều kiện phát triển xã hội và văn hóa. Với việc có nhiều nguồn lực dư thừa, nhà nước đã tập trung vào việc khai thác khoáng sản ở các thung lũng và các khu vực sa mạc xung quanh, cũng như việc sớm phát triển một hệ thống chữ viết độc lập, tổ chức xây dựng tập thể và các dự án nông nghiệp, thương mại với khu vực xung quanh, và xây dựng một đội quân nhằm mục đích đánh bại kẻ thù nước ngoài và khẳng định sự thống trị của Ai Cập. Thúc đẩy và tổ chức những hoạt động này là một bộ máy quan lại gồm các ký lục ưu tú, những nhà lãnh đạo tôn giáo, và các quan lại dưới sự kiểm soát của một pharaoh, người đảm bảo sự hợp tác và đoàn kết của toàn thể người dân Ai Cập dưới một hệ thống tín điều tôn giáo tinh vi.
Những thành tựu của người Ai Cập cổ đại bao gồm khai thác đá, khảo sát và kỹ thuật xây dựng hỗ trợ cho việc xây dựng các công trình kim tự tháp, đền thờ, và cột tháp tưởng niệm; một hệ thống toán học, một hệ thống thực hành y học hiệu quả, hệ thống thủy lợi và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, những tàu thủy đầu tiên được biết đến trên thế giới, công nghệ gốm sứ và thủy tinh của Ai Cập, những thể loại văn học mới, và các hiệp ước hòa bình được biết đến sớm nhất, được ký kết với người Hittite. Ai Cập đã để lại một di sản lâu dài. Nghệ thuật và kiến trúc của nó đã được sao chép rộng rãi, và các cổ vật của nó còn được đưa tới khắp mọi nơi trên thế giới. Những tàn tích hùng vĩ của nó đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng của du khách và nhà văn trong nhiều thế kỷ. Sự quan tâm mới hình thành dành cho những cổ vật và các cuộc khai quật trong thời kỳ cận đại ở châu Âu và Ai Cập dẫn đến việc khai sinh ra ngành Ai Cập học để nghiên cứu nền văn minh Ai Cập và một sự đánh giá đúng đắn hơn đối với di sản văn hóa của nó.
chúc bạn học tốt
Đáp án B.
Giải thích:
- Nhận định đúng là 1 và 2.
- Nhận định 3 sai vì: Phần lớn dân cư Tây Nam Á theo đạo Hồi.
- Nhận định 4 sai vì: Những phần tử cực đoan của các tôn giáo góp phần mất ổn định trong khu vực.
I. CÁC CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN XÂM LƯỢC TỐNG
1. Kháng chiến chống Tống thời Tiền Lê
- Năm 980 nhân lúc triều đình nhà Đinh gặp khó khăn, vua Tống cử quân sang xâm lược nước ta.
- Trước tình hình đó Thái hậu họ Dương và triều đình nhà Đinh đã tôn Lê Hoàn làm vua để lãnh đạo kháng chiến.
- Năm 981 quân dân Đại Cồ Việt chiến đấu anh dũng,thắng lớn nhanh chóng ở vùng Đông Bắc khiến vua Tống không dám nghĩ đến việc xâm lược Đại Việt, củng cố vững chắc nền độc lập.
2. Kháng chiến chống Tống thời Lý (1075 - 1077)
- Thập kỷ 70 của thế kỷ XI nhà Tống âm mưu xâm lược Đại Việt, đồng thời tích cực chuẩn bị cho cuộc xâm lược.
- Trước âm mưu xâm lược của quân Tống, nhà Lý đã tổ chức kháng chiến.
+ Giai đoạn 1: Lý Thường Kiệt tổ chức thực hiện chiến lược "tiên phát chế nhân" đem quân đánh trước chặn thế mạnh của giặc.
- Năm 1075 Thái Uý Lý Thường Kiệt đã kết hợp quân triều đình cùng các dân tộc miền núi đánh sang đất Tống, Châu Khâm, Châu Liêm, Ung Châu, sau đó rút về phòng thủ.
+ Giai đoạn 2: Chủ động lui về phòng thủ đợi giặc.
- Năm 1077 ba mươi vạn quân Tống kéo sang bờ bắc của sông Như Nguyệt , cuộc kháng chiến hoàn toàn thắng lợi , ta chủ động giảng hòa và kết thúc chiến tranh.
Lược đồ đường tiến công thành Ung Châu của Lý Thường Kiệt 1075 ( mũi tên mầu đỏ ),quân Tống 1077 (Mũi tên màu xanh )
Lược đồ trận chiến tại phòng tuyến sông Như Nguyệt
II. KHÁNG CHIẾN CHỐNG XÂM LƯỢC MÔNG - NGUYÊN THỜI TRẦN (THẾ KỶ XIII)
- Năm 1258 - 1288 quân Mông - Nguyên 3 lần xâm lược nước ta. Giặc rất mạnh và hung bạo.
- Các vua Trần cùng nhà quân sự Trần Quốc Tuấn đã lãnh đạo nhân dân cả nước quyết tâm đánh giặc giữ nước.
- Những thắng lợi tiêu biểu: Đông Bộ Đầu, Hàm Tử, Chương Dương, Vạn Kiếp, Bạch Đằng.
+ Lần 1: Đông Bộ Đầu (bên sông Hồng từ dốc Hàng Than đến dốc Hóc Mai Ba Đình - Hà Nội).
+ Lần 2: Đẩy lùi quân xâm lược năm 1285.
Tiêu biểu nhất là trận Bạch Đằng năm 1288 đè bẹp ý chí xâm lược của quân Mông - Nguyên bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc.
+ Nhà Trần có vua hiền, tướng tài, triều đình quyết tâm đoàn kết nội bộ và đoàn kết nhân dân chống xâm lược.
+ Nhà Trần vốn được lòng dân bởi những chính sách kinh tế của mình Þ nhân dân đoàn kết xung quanh triều đình vâng mệnh kháng chiến.
Bạch Đằng năm 1288
Lược đồ khởi nghĩa Lam Sơn
III. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG QUÂN XÂM LƯỢC MINH VÀ KHỞI NGHĨA LAM SƠN
- Năm 1407 cuộc kháng chiến chống quân Minh của nhà Hồ thất bại, nước ta rơi vào ách thống trị của nhà Minh.
- Năm 1418: Khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ do Lê Lợi - Nguyễn Trãi lãnh đạo.
- Thắng lợi tiêu biểu:
+ Cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ Lam Sơn (Thanh Hóa) được sự hưởng ứng của nhân dân vùng giải phóng cánh mở rộng từ Thanh Hóa vào Nam.
+ Chiến thắng Tốt Động, đẩy quân Minh vào thế bị động.
+ Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang đập tan 10 vạn quân cứu viện khiến giặc cùng quẫn tháo chạy về nước.
- Đặc điểm:
+ Từ một cuộc chiến tranh ở địa phương phát triển thành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
+ Suốt từ đầu đến cuối cuộc khởi nghĩa tư tưởng nhân nghĩa được đề cao.
+ Có đại bản doanh, căn cứ địa.
Diễn biến trận Tốt Động - Chúc Động
Chi Lăng - Xương Giang năm 1427
* Nhân dân Đại Việt từ thế kỉ X-XV đã xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc:
Trong các thế kỉ X-XV, dưới các triều đại phong kiến Lý, Trần, Hồ, Lê sơ nền văn hóa của dân tộc phát triển rực rỡ và đạt được nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực: tôn giáo, tín ngưỡng, giáo dục, văn học, nghệ thuật, khoa học - kĩ thuật.
- Nho giáo: được giai cấp thống trị tiếp nhận và từng bước nâng cao thành hệ tư tưởng chính của giai cấp thống trị.
- Phật giáo: ngày càng thấm sâu vào cuộc sống tinh thần của nhân dân, được giai cấp thống trị tôn sùng, nhiều chùa được xây dựng mới, nhiều sư sãi.
- Thời Lý, Trần, phật giáo trở thành quốc giáo, thời Lê sơ, nho giáo được nâng lên địa vị độc tôn.
- Các tín ngưỡng dân gian như thờ tổ tiên, thờ những người có công với làng với nước ngày càng phổ biến.
- Giáo dục: nhà nước rất quan tâm đến giáo dục như thời Lý cho lập Văn Miếu, tổ chức khoa thi đầu tiên. Thời Trần, tổ chức các khoa thi đều đặn, mở rộng Quốc tử giám cho con em quý tộc, quan lại đến học.
- Thời Lê sơ, giáo dục đi vào quy củ, nhà nước cho dựng bia ghi tên tiến sĩ, số người đi học, đi thi ngày càng đông, nâng cao dân trí.
- Các công trình kiến trúc độc đáo. Ngoài những cung điện, đền đài còn có những công trình nổi tiếng tiêu biểu như Chuông Quy điền, tháp Báo Thiên, tượng Phật chùa Quỳnh Lâm, Vạc Phổ Minh.
- Điêu khắc tinh tế, độc đáo với nhiều loại hình khác nhau như phù điêu khắc hình rồng nổi cuộn trong lá đề, chân bệ cột hình hoa sen nở, hình bông cúc nhiều cánh, tượng Phật ở các chùa.
- Nghệ thuật dân gian ra đời từ thời Lý và ngày càng phát triển như: tuồng, chèo, múa rối nước.
- Âm nhạc dân gian phát triển với nhiều nhạc cụ: tiêu, đàn tranh, cồng, chiêng.
- Văn học chữ Hán và chữ Nôm đều phát triển với nhiều tác phẩm nổi tiếng.
- Khoa học - kĩ thuật đạt nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực: sử, địa lí, khoa học quân sự, chính trị, y học, thiên văn.
* Đặc điểm văn hóa Đại Việt
- Thể hiện một nền văn hóa phát triển rực rỡ, phong phú, độc đáo.
- Gắn liều với cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ đất nước.
- Mang đậm tính dân tộc và dân gian.
Trước thời Lý - Trần, vào buổi bình minh của nền độc lập dân tôc, năm Nhâm Dần (1002), dưới triều vua Lê Đại Hành (khi kinh đô còn ở Hoa Lư), nước ta bắt đầu có luật thành văn. Sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê chép: “Năm Nhâm Dần, niên hiệu ứng Thiên thứ 3 (1002), mùa Xuân, tháng 3, định luật lệnh”. (Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1983, tr. 228). Cũng sự kiện này, sách Việt sử thông giám Cương mục chép là “định luật lệ” (Việt sử thông giám Cương mục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, tập I, tr. 2687). Những tư liệu này cho thấy, cho đến trước năm 1042 thời điểm ban hành Hình thư thời Lý nước ta đã có luật thành văn được soạn thảo từ năm 1002 dưới triều vua Lê Đại Hành. Nhà Lý, từ Lý Thái Tổ đến Lý Thái Tông, đều vẫn sử dụng bộ luật này; đồng thời bổ sung thêm nhiều văn bản luật mới. Thống kê từ sách Đại Việt sử ký toàn thư cho thấy, trong 32 năm đầu của nhà Lý (1010 - 1042), không kể các văn bản pháp luật liên quan đến việc củng cố quân đội và các cuộc chinh phạt, 2 nhà vua đầu tiên của vương triều này đã ban hành 23 chiếu, 2 lệnh và 3 “định lệnh” về các mặt: Hành chính, văn hoá, hình luật (xét kiện), cứu tế xã hội...
Để khắc phục những điểm hạn chế trong bộ luật của triều vua Lê Đại Hành ra đời năm 1002, và phải có một bộ luật xứng đáng với tầm vóc của nước Đại Việt, sau khi đã định đô ở Thăng Long, năm Nhâm Ngọ (1042), nhà Lý cho ra đời bộ Hình thư. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mùa Đông, tháng 10 năm Nhâm Ngọ niên hiệu Càn Phù Hữu Đạo (1042), ban Hình thư. Trước kia, việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ pháp luật câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí nhiều người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương xót, sai trung thư san định luật lệ, châm chước cho thích đáng với thời thế, chia ra môn loại, biên thành điều khoản, làm thành sách Hình thư của một triều đại, để cho người đời sau. Sách làm song, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây, phép xử án được bằng thẳng rõ ràng, cho nên mới đổi niên hiệu là Minh Đạo và đổi tiền Minh Đạo”. (Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Sđd, tập I, tr. 271). Những ghi chép trên đây dù ngắn ngủi nhưng được người đời sau rất trân trọng. Các nhà nghiên cứu sử học và luật học đánh giá đây là sự kiện quan trọng trong lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử Nhà nước pháp luật Việt Nam. Hình thư được xem như bộ luật thành văn đầu tiên, đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử pháp quyền Việt Nam, chứng tỏ bộ máy Nhà nước Trung ương tập quyền đã có tính ổn định và được xây dựng với thiết chế tương đối hoàn bị.
Việc ban hành Hình thư dưới thời vua Lý Thái Tông thể hiện một tầm nhìn rộng và trình độ cao của tổ chức bộ máy Nhà nước đương thời, một xã hội văn minh được quản lý bằng pháp luật. Đây là cơ sở, là di sản pháp lý quan trọng để các triều vua sau kế thừa, vận dụng vào việc soạn thảo luật, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của đất nước.
Bộ Hình thư này không còn nên ngày nay chúng ta không thể hiểu được nội dung của nó. Theo Lê Quý Đôn, bộ luật này gồm ba quyển. (Lê Quý Đôn, Toàn tập, tập III (Đại Việt thông sử), Nxb KHXH, Hà Nội, 1978, tr. 103). Tuy nhiên, căn cứ vào những ghi chép của chính sử, ta thấy bộ luật được vua chỉ đạo tổ chức soạn thảo một cách có hệ thống. Trong triều đình lúc bấy giờ đã có “trung thư san định luật lệnh” (trung thư là những viên quan phụ trách về pháp luật của triều đình). Bộ luật có nội dung phù hợp với thực tế cuộc sống: “Có châm chước cho thích đáng với thời thế”. Luật được biên soạn không chỉ trở thành bộ luật “của triều đại” mà còn “để cho người đời sau” đảm bảo tính ổn định lâu dài. Luật soạn thảo song, triều đình tổ chức công bố rộng rãi cho cả nước biết: “Xuống chiếu ban hành”. Luật có hiệu lực thực tế ngay theo hướng giảm phiền hà cho dân, xoá bỏ những bất cập trong việc xét án trước đây: “Dân lấy làm tiện, đến đây, phép xử án được bằng thẳng rõ ràng”. Đây là tư tưởng thân dân, khoan dung, quan tâm đến quyền lợi của dân mà các vua nhà Lý nhận thức rất sâu sắc. Đúng như nhận xét của Phan Huy Chú: “Hình của nhà Lý thì khoan rộng”. (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập III, Nxb Sử học, Hà Nội, 1961, tr. 94). Việc nhà vua đổi niên hiệu là Minh Đạo (Con đường sáng) và đổi tiền Minh Đạo vào năm ban hành bộ luật quan trọng này thể hiện ý chí dùng pháp luật để quản lý xã hội, lấy lòng tin vào pháp luật của dân, để ổn định đời sống mang lại hạnh phúc cho dân.
Xã hội Đại Việt thời Lý mở đầu cho thời định đô Thăng Long và cũng là vương triều tồn tại liên tục dài nhất trong lịch sử Việt Nam. Một vương triều trội vượt lên cả về sự thịnh vượng, độc đáo cũng như về sự trường tồn, đã từng được người xưa đánh giá là “nổi tiếng văn minh” (Lê Quý Đôn).
Nhà nước quân chủ Trần, do Trần Thủ Độ gây dựng bước đầu, “là một Nhà nước quân chủ Phật giáo có tính chất pháp quyền”. (Trần Thủ Độ con người và sự nghiệp, Viện Sử học Việt Nam - Sở Văn hoá Thông tin Thái Bình, Hà Nội 1995, tr.33). Hai tháng sau khi thành lập (tháng 2 năm Bính Tuất, 1226) nhà Trần đã “định luật lệnh, điều lệ”. Một năm sau (Đinh Hợi - 1227) đã có chiếu quy định thể thức giấy tờ - đơn khế (Dân luật - Luật Hành chính), lại tuyên bố điều khoản minh thệ. Một năm sau nữa (Mậu Tý) đã thi công chức (lại viên) bằng thể thức công văn, người trúng tuyển sung làm thuộc lại (công chức) ở các sảnh viện.
Năm Canh Dần đời vua Trần Thái Tông (1230) cho khảo cứu luật lệ các thời trước, quy định các thể lệ mới, làm sách Thông chế Quốc triều (một dạng sơ khai của Hiến pháp) và các sách Hình luật, lễ nghi, gồm tất cả 29 quyển. Sau đó, vào năm Tân Tỵ đời vua Trần Dụ Tông (1341) biên soạn bộ Hoàng triều đại điển và bộ Hình thư đời Trần.
Luật pháp thời Trần không biết rõ được từng điều tỉ mỉ, cũng như bộ Hình thư đời Lý đã bị thất truyền, nhưng cũng theo Phan Huy Chú, pháp luật đời Trần nghiêm khắc hơn đời Lý, người càng ở cương vị cao càng triệt để thi hành pháp luật.
Thái sư Trần Thủ Độ là người nổi tiếng triệt để nêu gương thi hành pháp luật, thưởng phạt rất nghiêm minh: “Thủ Độ từng duyệt định sổ hộ khẩu, Quốc mẫu xin riêng cho một người làm câu đương. Thủ Độ gật đầu và biên lấy họ tên quê quán của người ấy. Khi xét duyệt đến xã ấy, ông cho gọi người ấy lại. Người ấy mừng chạy đến. Thủ Độ nói: “Ngươi vì có công chúa xin cho được làm câu đương (ông công khai nói về việc lo lót của chính vợ mình), không ví như người câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt với người (chân chính) khác”. Người ấy kêu van xin hồi lâu mới tha cho. Từ đấy không ai dám đến nhà xin riêng nữa. Bốn mươi năm sau ông, Trần Nhật Duật ngồi vào ghế Thái sư (như cương vị của Thủ Độ trước đó), cũng hành xử y như ông trước lời xin của vợ cho một người quen khác. Trần Thủ Độ là một mẫu mực, một tấm gương sáng về tinh thần tôn trọng pháp luật, “chí công vô tư”. (Trần Thủ Độ con người và sự nghiệp, Viện Sử học Việt Nam - Sở Văn hoá Thông tin Thái Bình, Hà Nội, 1995, tr. 35 - 36).
Sau nhà Lý (1009 - 1224), nhà Trần tồn tại 175 năm (1225 - 1400) qua 12 đời vua, trong đó có hơn 100 năm (1225 - 1329) và 5 đời vua: Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông và Minh Tông ở thời kỳ thịnh trị, để lại một di sản to lớn độc đáo trong mọi lĩnh vực, chính trị, kinh tế, xã hội, những đỉnh cao về văn trị, những võ công hiển hách, những nhà hoạt đông chính trị và danh tướng kiệt xuất - đã đưa Đại Việt thành một nước hùng manh nhất vùng Đông Nam Á, có một tầm cao mới, chính vì vậy mà triều đại này đã toả hào quang sáng chói trong lịch sử Việt Nam, đóng một vai trò đặc biệt trong tiến trình lịch sử dân tộc. Văn hoá Thăng Long đời Trần phát triển rực rỡ cùng với văn hoá đời Lý trước đó, tạo nên kỷ nguyên văn minh Đại Việt.