K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

6 tháng 1 2022

Nghệ An là vùng đất có nền văn hóa lâu đời, xuất hiện vào hàng sớm nhất trong lịch sử Việt Nam. Người ta đã phát hiện thấy người vượn ở hang Thẩm Ồm (Quỳ Châu), nhiều công cụ thuộc thời kỳ đồ đá cũ ở hang Thẩm Hoi (Con Cuông), hang Chùa (Tân Kỳ)...


Dấu vết người vượn và những nét văn hóa cổ

Lịch sử Việt Nam có bao nhiêu ngày với những thăng trầm ra sao thì lịch sử Nghệ An cũng có bấy nhiêu thời gian với những hưng phế như vậy. Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, Nghệ An đã cùng dân tộc vượt qua giông bão và máu lửa để tồn tại và phát triển. Mười tám đời Vua Hùng dựng nước còn để lại trên đất Nghệ An nhiều di chỉ văn hóa khảo cổ học và những truyền thuyết bất hủ với những danh tướng, lương thần, các nhà khoa học, nhà văn hóa nổi tiếng. Được ví là mảnh đất "địa linh nhân kiệt" có số lượng di tích và danh thắng đa dạng, phong phú, nhiều chủng loại, có niên đại trải dài từ thời khởi thủy. Mỗi di tích gắn với sự tích lịch sử và lễ hội truyền thống đậm đà bản sắc xứ Nghệ.Sau bao lần khai quật, tìm kiếm dưới lòng đất và trong lòng đá, chúng ta đã phát hiện dấu vết của người vượn trong hang Thẩm Ồm (xã Châu Thuận, Qùy Châu).


Hang Thẩm Ồm nằm ở hữu ngạn suối Bản Thắm, một phụ lưu của sông Hiếu. Trong lớp trầm tích màu đỏ thời Canh Tân, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy 5 chiếc răng người (gồm 1 răng nanh hàm trên, 3 răng hàm trên và 1 răng sữa). Dựa vào trầm tích chứa răng người, các nhà nghiên cứu cho rằng người vượn ở Thẩm Ồm đã sống cách chúng ta khoảng 20 vạn năm. Ngày nay, nền hang Thẩm Ồm ở cao hơn mực nước suối Bản Thắm trong mùa cạn là 17m. Qua thời gian, hang Thẩm Ồm cùng với khối đá vôi đã được nâng lên cao. Người vượn ít cư trú ở trong hang mà chủ yếu họ sống trên các thềm phù sa trong thung lũng Bản Thắm. Nơi đây thoáng mát, gần nguồn nước mà không sợ bị ngập. Họ sống thành bầy người nguyên thủy, hái lượm và săn bắn với những gậy gỗ và những công cụ đá ghè đẽo thô sơ. Đó là lúc các thị tộc và bộ lạc hình thành. Đây cũng là lúc thời đại đồ đá cũ chuyển từ giai đoạn đầu sang giai đoạn cuối.

Dấu vết của văn hóa Sơn Vi được phát hiện ở vùng đồi gò dọc sông Lam như đồi Dùng (Thanh Đồng), đồi Rạng (Thanh Hưng - Thanh Chương). Văn hóa Sơn Vi kéo dài trong khoảng từ hai vạn năm đến 12 nghìn năm cách ngày nay. Các bộ lạc Sơn Vi, trong quá trình đấu tranh với thiên nhiên để sống, đã dần dần cải tiến công cụ của mình và bước sang một giai đoạn mới, tạo ra một nền văn hóa mới mà khảo cổ học gọi là văn hóa Hòa Bình. Các nhà khảo cổ học đã nghiên cứu và thăm dò khá nhiều hang động có di tích văn hóa Hòa Bình trong các dãy núi đá vôi ở các huyện Quế Phong, Con Cuông, Tương Dương, Tân Kỳ và Quỳ Châu. Một số hang đã được khai quật như Thẩm Hoi ở Con Cuông, hang Chùa ở Tân Kỳ...

Chủ nhân văn hóa Hòa Bình là những người đi săn. Trong nơi họ ở, thường gặp xương cốt của các loài thú rừng mà họ đã săn được. Công cụ cuội ghè đẽo là đặc trưng của văn hóa Hòa Bình và người nguyên thủy. Có một đặc điểm nữa là cư dân Hòa Bình thường chôn người chết ngay trong nơi ở. Trong hang Thẩm Hoi cũng như trong hang Chùa đều tìm thấy mộ của con người thời đó. Trong ngôi mộ ở hang Chùa, còn có rìu đá.

Nối tiếp văn hóa Hòa Bình là văn hóa Bắc Sơn. Chính các bộ lạc chủ nhân văn hóa Hòa Bình, trên bước đường phát triển đã tạo ra văn hóa Bắc Sơn. Trong một vài hang động ở Nghệ An đã tìm thấy những chiếc rìu bằng đá cuội được mài một phần rất nhỏ ở rìa lưỡi. Đáng tiếc dấu vết văn hóa Bắc Sơn ở Nghệ An tìm được còn quá ít. Vì thế trong thời kỳ này, chúng tôi muốn nhấn mạnh tới các bộ lạc đã sáng tạo nên văn hóa Quỳnh Văn - Di chỉ tiêu biểu được phát hiện đầu tiên là cồn Vỏ Điệp ở xã Quỳnh Văn (Quỳnh Lưu).


Cồn Vỏ Điệp ở xã Quỳnh Văn có tên là cồn Thống Lĩnh, nằm cạnh đường Quốc lộ 1, cách Thành phố Vinh 57 km. Nhờ các cuộc khai quật khảo cổ, chúng ta biết rằng cồn Vỏ Điệp (Quỳnh Văn) là nơi cư trú của người nguyên thủy. Trong các Cồn Điệp ở Quỳnh Lưu, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều công cụ bằng đá của người nguyên thủy. Các bộ lạc Quỳnh Văn chưa biết mài đồ đá nhưng đã biết mài đồ xương và phát triển kỹ thuật làm đồ gốm.

Ngoài ra, các nhà khảo cổ học còn tìm thấy bếp của họ, đó là những đám tro than, ở giữa có những hòn đá ám khói. Một số hòn đá nứt nẻ do bị lửa nung. Trong tro than thường lẫn xương thú, xương cá và càng cua. Qua những dấu vết đó, chúng ta có thể biết được phần nào hoạt động kinh tế của các bộ lạc Quỳnh Văn. Cư dân trong các bộ lạc văn hóa Quỳnh Văn sống chủ yếu dựa vào việc bắt sò điệp ở bờ biển và vùng nước lợ. Trong các cồn điệp còn tìm thấy đốt xương sống và vây của những loài cá biển khá lớn. Muốn đánh được những loại cá như vậy, người nguyên thủy phải có thuyền ra biển.


Như vậy là cách đây khoảng trên dưới 5 nghìn năm, con người đã sinh sống trên nhiều nơi ở Nghệ An, từ miền núi đến miền biển.