K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

13 tháng 11 2021

nỗi nhớ mẹ 

30 tháng 5 2022

Bài 8: 

-Biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong câu thơ này là so sánh. Qua đó, giúp em cảm nhận được sự vất vả, hy sinh của người mẹ dành cho con mình và tình thương yêu của người con dành cho mẹ.

Câu 9: (Tham khảo)

Trong mỗi chúng ta, ai cũng có một người sẵn sàng hi sinh vì mình, chịu mọi cực khổ vì mình, hạnh phúc khi nhìn thấy mình khôn lớn, trưởng thành. Vâng, người đó không ai khác đó chính là mẹ.

Nhưng đối với con, mẹ chỉ là trong tâm trí theo đúng nghĩa của nó. Lên 4 tuổi, cái tuổi đang rất cần tình yêu thương, sự vỗ về của đôi bàn tay mẹ, nhưng con lại không có được hạnh phúc giản đơn ấy như bao đứa trẻ khác. Chẳng hiểu lí do gì mà bố mẹ lại chia tay khi con mới 4 tuổi. Hai anh em con là nạn nhân của sự tan vỡ ấy. Con được nghe ông bà kể lại, sau cuộc ly hôn anh em con có một thời gian ở cùng với mẹ nhưng sau đó mẹ đã gửi hai anh em cho ông bà ngoại để đi làm ăn. Thế rồi, mẹ đi mãi, đến tận bây giờ con sắp học hết cấp Tiểu học mà cũng vẫn chưa được một lần gặp lại mẹ, cũng không ai nói cho con biết mẹ đang ở đâu.

Mẹ trong tâm trí con là một người phụ nữ gầy, mảnh mai. Nước da mẹ trắng hồng. Khuôn mặt trái xoan của mẹ được tôn thêm vẻ đẹp thanh tú bởi chiếc mũi dọc dừa. Với gò má luôn ửng hồng và bờ môi trái tim căng mọng càng tăng thêm vẻ đẹp đằm thắm của mẹ. Hàng ngày, mẹ dậy từ rất sớm để nấu bữa sáng cho anh em con rồi chở hai anh em đi học. Cuối mỗi buổi chiều, mẹ đợi đón con ở cổng trường. Con sà vào lòng mẹ, nũng nịu, tíu tít kể cho mẹ nghe mọi chuyện về bạn bè, thầy cô sau một ngày xa mẹ. Mẹ trong tâm trí con là một người phụ nữ dịu hiền, luôn quan tâm đến hàng xóm, láng giềng và bà con khu phố. Tuần trước, nhà bác A bên cạnh có đám cưới, mẹ đã nhiệt tình giúp bác mọi công việc. Hôm qua bà cụ B gần nhà ốm, mẹ đã sang động viên, thăm hỏi. Và hôm nay nữa, mẹ đã đón bé Linh giúp cô C nhà bên cạnh. Mẹ trong tâm trí con là một công nhân luôn hòa đồng, cởi mở, sẵn lòng giúp đỡ đồng nghiệp. Có lần, mẹ làm hết ca nhưng mẹ ở lại công ty làm tiếp ca sau giúp cô D vì cô bị ốm. Đồng nghiệp của mẹ ai cũng yêu quý mẹ. Mẹ trong tâm trí con là người mẹ luôn quan tâm đến việc học tập của hai anh em con. Mặc dù bận mọi công việc nhưng mỗi tối, mẹ đều giúp hai anh em giải những bài toán khó. Gợi ý cho con những câu văn hay. Mẹ trong tâm trí con là… Vâng! tất cả những điều đó đều rất bình thường đối với các bạn trong lớp con. Nhưng đối với con lại chỉ là: “Mẹ trong tâm trí con”.

Con mong ước lắm tất cả những điều giản đơn ấy là hiện thực chứ không phải là trong tâm trí con. Mẹ ơi! Mẹ có biết không? Vừa qua, con viết bài văn tả về mẹ và được cô giáo khen là có cảm xúc nhất. Đó chỉ là trong tưởng tưởng thôi, giá như hàng ngày được ngắm mẹ thì có lẽ bài văn của con sẽ hay hơn rất nhiều. Mẹ ơi! Ngày Tết Nguyên đán đang đến gần, con ước lắm một mái ấm sum họp. Mong lắm bàn tay ấm áp của mẹ nắm lấy tay con, dắt con đi dạo phố, đi chúc Tết. Con không cần một bộ quần áo đẹp, một đôi dép sành điệu như các bạn để diện trong ngày Tết đâu. Con chỉ cần gục vào lòng mẹ, nũng nịu thật nhiều, ước được nghe lời dạy bảo của mẹ. Chỉ ước được ăn những món ngon do chính tay mẹ nấu. Chỉ ước người mẹ trong bài văn miêu tả của con là có thật. Mẹ ơi!!!

Con yêu mẹ!

24 tháng 3 2021

Ớ đây, cách nói quá, cực tả đã phát huy tác dụng biểu cảm cao độ. “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối” là thể hiện nỗi trăn trở, day dứt đến thành ám ảnh trong mọi lúc, cả bữa ăn lẫn giấc ngủ, cả đêm lẫn ngày. “Ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa” là hình ảnh diễn tả nỗi đau xót lớn lao từ trong cõi lòng được biểu hiện ra cả bên ngoài thành dòng nước mắt đầm đìa. Nỗi đau trong lòng đã được thể hiện thành nỗi đau rất cụ thể của cơ thể, của thần xác. Còn lòng căm thù và ý chí tiêu diệt giặc thì được thể hiện một cách mạnh mẽ bằng những hình ảnh: “...xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Điển tích “Da ngựa bọc thây” vốn quen thuộc trong văn chương cổ để nói về kẻ làm tướng sẵn sàng nhận cái chết ngoài mặt trận, thì với Trần Quốc Tuấn đã được tăng cấp lên thành”., trăm thân này phơi bày nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng” - Nghĩa là sẵn sàng chết đến trăm lần, nghìn lần miễn là tiêu diệt được quân giặc

24 tháng 3 2021

ai jup vs

8 tháng 12 2021

Tham Khảo:
 

Triều đại nhà Trần (1126-1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, nhà Trần đã ghi vào lịch sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử.

Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ca ngợi là "Hào khí Đông A". Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng – thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Toản, "Thuật hoài" (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão, "Bạch Đằng giang phú" của Trương Hán Siêu,… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.

Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: "Thuật hoài" và "Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương".

Bài thơ "Tỏ lòng" thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự họa của danh tướng Phạm Ngũ Lão.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.

Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu thơ "Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu" là một câu thơ có hình tượng kỳ vỹ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang san) vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (kháp kỉ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở "bình Nguyên" ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.

Đội quân "Sát Thát" ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo "tỳ hổ" quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. "Khí thôn Ngưu" nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu: ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: "Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu". Hình ảnh ẩn dụ so sánh: "Tam quân tì hổ…" trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân "sát thát" đánh đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:

"Thuyền bè muôn đội

Tinh kỳ phấp phới

Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…"

(Bạch Đằng giang phú)

Người chiến sĩ "bình Nguyên" mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! "Phá cường địch, báo hoàng ân" (Trần Quốc Toản) – "Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo" (Trần Thủ Độ). "…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng" (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:

"Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu".

"Công danh" mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, được tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ "công danh" tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm. Không chỉ "Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu", mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu "Khiến cho người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…" để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: "Non sông nghìn thuở vững âu vàng" (Trần Nhân Tông).

"Thuật hoài" được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng, mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kì vỹ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng, trang nghiêm, mang phong vị anh hùng ca. Nó mãi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời "hào khí Đông A".



 

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
6 tháng 12 2023

 - Hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng: hoa cúc => gợi mùa thu và niềm tâm sự buồn của con người

- “Cô phàm” => thân phận lẻ loi, cô đơn, trôi nổi của tác giả.

- “Cố viên tâm”: Tấm lòng hướng về quê cũ. Thân phận của kẻ tha hương, li hương luôn khiến lòng nhà thơ thắt lại vì nỗi nhớ quê

- Hình ảnh con người: nhộn nhịp may áo rét, giặt áo rét chuẩn bị cho mùa đông

- Âm thanh: tiếng chày đập vải => báo hiệu mùa đông đến, đồng thời đó là âm thanh của tiếng lòng, diễn tả sự thổn thức, mong ngóng, chờ đợi ngày được trở về quê

=> Bốn câu thơ diễn tả nỗi buồn của người xa quê, ngậm ngùi, mong ngóng ngày trở về quê hương.

- Hình ảnh ấn tượng: bức tranh sinh hoạt của con người

Việc mô tả khung cảnh sinh hoạt của con người ở hai câu thơ kết đã khiến tác giả như nhớ lại cuộc sống lao động đầm ấm, yên vui với những âm thanh giản dị của sự sống. Tuy nhiên, nó lại khiến con người bừng tỉnh trước thực tại và càng gia tăng nỗi nhớ quê, nhớ nhà, nhớ người thân da diết.

5 tháng 3 2023

Nỗi lòng của nhà thơ trong 4 câu thơ cuối là:

a. Câu 3 và 4

– Hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ:

+ Khóm cúc nở hoa – tuôn dòng lệ: Có hai cách hiểu khóm cúc nở ra làm rơi giọt nước mắt, khóm cúc nở ra giọt nước mắt.

→ Dù hiểu theo cách nào cùng thấy được tâm sự buồn của tác giả.

+ Cô chu – con thuyền cô độc

→ Hình ảnh gợi sự trôi nổi, lưu lạc của con người. Là phương tiện để nhà thơ gửi gắm khát vọng về quê.

– Từ ngữ:

+ “Lưỡng khai”: Nỗi buồn lưu cữu trải dài từ quá khứ đến hiện tại

+ “Nhất hệ”: Dây buộc thuyền cũng là sợi dây buộc mối tình nhà của tác giả.

+ “Cố viên tâm”: Tấm lòng hướng về quê cũ. Thân phận của kẻ tha hương, li hương luôn khiến lòng nhà thơ thắt lại vì nỗi nhớ quê (Lạc Dương), nhớ nước (Trường An – kinh đô nhà Đường).

Advertisements

 

 

– Sự đồng nhất giữa các sự vật, hiện tượng:

+ Tình – cảnh: Nhìn cúc nở hoa mà lòng buồn tuôn giọt lệ

+ Quá khứ hiện tại: Hoa cúc nở hai lần năm ngoái – năm nay mà không thay đổi

+ Sự vật – con người: Sợi dây buộc thuyền cũng là sợi dây buộc chặt tâm hồn người.

→ Hai câu thơ đặc tả nỗi lòng đau buồn, tha thiết, dồn nén vì nỗi nhớ quê không thể giải tỏa của nhà thơ.

b. Câu 7 và 8

– Hình ảnh

+ Mọi người nhộn nhịp may áo rét

+ Giặt quần áo chuẩn bị cho mùa đông tới

→ Không khí chuẩn bị cho mùa đông, gấp gáp, thúc giục.

– Âm thanh: Tiếng chày đập vải

→ Âm thanh báo hiệu mùa đông sắp đến, đồng thời diễn tả sự thổn thức, ngổn ngang, mong chờ ngày về quê của tác giả.

→ Bốn câu thơ khắc sâu tâm trạng buồn, cô đơn, lẻ loi, trầm lắng, u sầu vì nỗi mong nhớ trở về quê hương.