Hệ thống luận điểm, luận cứ trong văn bản Chiếu Dời Đô (Thiên Đô Chiếu) của Lý Công Uẩn
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Đáp án
Nêu giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản Chiếu dời đô – Lý Công Uẩn
- Giá trị nội dung: phán ánh khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, đồng thời phản ánh ý chí độc lập tự cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh. (1đ)
- Nghệ thuật: áng văn nghị luận đặc sắc, lập luận mạch lạc, chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, rõ ràng. Kết hợp hài hòa giữa lí và tình, tạo nên sức thuyết phục mạnh mẽ. (1đ)
Ngàn năm văn hiến Thăng Long không dừng lại ở Lý Công Uẩn và vương triều Lý nhưng lòng biết ơn của nhân dân Việt Nam qua ngàn năm trước hết dành cho Lý Công Uẩn. Ông đã sáng suốt đặt Thủ đô mới trên mảnh đất xứng đáng là trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa của cả nước. Ông đã tạo điều kiện cho vương triều Lý xây dựng nền tảng cho nền văn minh Đại Việt, để cho Thăng Long - Hà Nội suốt một ngàn năm tiêu biểu cho những giá trị vững bền của cả dân tộc. Nhân cách và sự nghiệp Lý Công Uẩn Các nhà khoa học từ nhiều góc độ góp phần làm sáng tỏ hơn nữa những công lao đáng kể của ông cha ta để mọi người tôn vinh và học tập. Tuy nhiên, với sứ mệnh quang vinh của mình, chúng ta nên có cái nhìn ở ông một cách khoa học nhất. Việc này chỉ góp phần tái hiện con người thật của ông, không thể làm giảm bớt hay che mờ công lao vĩ đại của ông trong quá trình phát triển của dân tộc, nhất là qua bước ngoặt lịch sử từ vương triều Lý. Thông thường khi nói về nhân cách của một nhân vật, người ta thường chỉ nhìn từ góc độ đạo đức học, nhấn mạnh những phẩm chất ứng xử của nhân vật ấy đối với cộng đồng và đối với bản thân. Nhưng nhân cách theo một ý nghĩa sâu xa hơn thì chính là sự tổng hòa những nét đặc trưng của một nhân vật đã tự khẳng định mình như một bản lĩnh độc đáo, vừa mang tính phổ biến của cộng đồng, vừa mang những giá trị tinh thần của bản thân họ. Một con người có nhân cách phải có những nét nổi bật trong suy tư, tình cảm và ý chí, qua tác phong hoạt động của họ. Từ quan điểm đó, tôi nêu lên đôi nét về nhân cách Lý Công Uẩn. Thứ nhất: Truyền thống yêu nước, yêu người của tổ tiên không ngừng nâng cao trên cơ sở giáo lý nhà Phật. Thứ hai: Đầu óc tự cường và hoài bão lớn lao, trong quyết tâm đưa đất nước trên con đường giàu mạnh. Thứ ba: Trí tuệ thông minh, sắc sảo qua cái nhìn chiến lược về tiền đồ của đất nước. Thứ tư: Tinh thần kiên quyết và khẩn trương, không bỏ lỡ thời cơ như khi giành lấy ngôi vua từ triều Tiền Lê đang đổ nát và lập tức chuyển kinh đô từ Hoa Lư ra thành Đại La. Những đặc điểm nhân cách ấy của Lý Công Uẩn đã thể hiện qua rất nhiều công việc lớn lao để xây dựng thủ đô mới, mở đường cho việc hình thành nền văn hiến ngàn năm Thăng Long với những con người Việt Nam không chỉ có chí khí anh hùng mà còn mang những tình cảm bao la, đối với cộng đồng dân tộc và với cả cộng đồng nhân loại. Những điều kiện hình thành nhân cách và sự nghiệp Lý Công Uẩn Cho đến nay một số kịch bản sân khấu, phim, điện ảnh và một số sách viết về cuộc đời Lý Công Uẩn đã không đi sâu và làm nổi bật lên những nét cơ bản trong sự nghiệp anh hùng của ông, mà thường trình bày tiểu sử của ông, dựa vào những trang thư tịch cũ, cũng như những truyền thuyết dân gian còn bao phủ đầy rẫy những điều huyền ảo. Nào sự huyền bí về việc bà mẹ họ Phạm sinh ra Lý Công Uẩn, vì sao con bà không có cha và bà chẳng có chồng. Nào chuyện có con chó đẻ con sắc trắng có đốm đen hình hai chữ thiên tử cho là điềm lành sẽ có người sinh vào năm Tuất, làm thiên tử. Lý Công Uẩn sinh năm Giáp Tuất (1074) nên về sau ông làm thiên tử… Người ta cho rằng Lý Công Uẩn do trời sinh ra. Nếu quả như thế thì chúng ta chỉ cần cảm ơn Thượng đế và chả còn gì để ca ngợi Lý Công Uẩn bởi ông chỉ là sản phẩm của Thượng đế mà thôi. Nhà khoa học không đi vào hướng ấy, mà tìm hiểu ông từ tác động qua lại giữa ông và hoàn cảnh xã hội của ông để từ đó làm nổi bật lên nhân cách và sự nghiệp của ông qua bước ngoặt lịch sử của dân tộc. Chúng ta nên cùng nhau đi sâu vào thực tế hoàn cảnh xã hội của Lý Công Uẩn từ lúc sinh ra đến lúc trưởng thành và làm nên sự nghiệp. Ông là một đứa trẻ sinh ra có mẹ nhưng không có cha. Lên ba tuổi mẹ đã đem con đến nhà Lý Khánh Vân, được Khánh Vân nhận làm con nuôi và cho mang họ Lý của ông. Năm Lý Công Uẩn được 7 tuổi, Lý Khánh Vân cho con nuôi đi theo học với sư Vạn Hạnh, và từ đó sống với sư Vạn Hạnh đến lúc trưởng thành. Đây là một quá trình cực kì quan trọng đối với nhân cách và sự nghiệp của Lý Công Uẩn. Các tác giả có thể khai thác thời gian này để sáng tạo những hư cấu nghệ thuật không phải để hấp dẫn khán giả và độc giả mà để thông qua các hình tượng hư cấu ấy mà phản ánh sâu sắc chính bản lĩnh và phẩm cách của Lý Công Uẩn. Sống thanh đạm trong chùa, ông hằng ngày lao động và tụng kinh tham gia làm những việc từ thiện đối với nhân dân nghèo khổ và đói rét trong vùng nông thôn Cổ Pháp, Bắc Giang. Với thân phận con người không cha lại mất mẹ, ông càng dễ dàng gắn bó với nhân dân lao động và chia sẻ với họ những điều đau khổ trong cuộc sống hàng ngày. Hoàn cảnh này đã tác động mạnh mẽ đến suy tư, tình cảm và khát vọng của một con người vốn thông minh lại lớn lên trong không khí lành mạnh của nhà chùa, giữa hoàn cảnh đau khổ của đất nước. Được người thầy uyên bác là sư Vạn Hạnh dạy dỗ, ông sớm tiếp thu truyền thống của dân tộc qua hàng nghìn năm độc lập, trong đó mọi người coi nhau như anh em ruột thịt, cùng chung lưng đấu cật để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cũng từ người thầy này, ông không thể không day dứt về hoàn cảnh đất nước yếu nghèo, bao lần nổi lên đánh giặc ngoại xâm mà không thành công. Những cảnh đau khổ của dân tộc suốt 1.000 năm bị ngoại bang chiếm đóng, sự tủi nhục của người dân mất nước cộng với tấm gương anh hùng cứu nước của Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn càng ngày đêm thôi thúc tâm tư ấy và củng cố ý chí tự cường dân tộc ở ông. Có thể nói tuổi trẻ của ông trong điều kiện lịch sử và điều kiện xã hội như trên đã khiến ông từ khi xuất thân làm việc với Lê Trung Tôn rồi với Lê Ngọa Triều mới chỉ được 4 năm, ông đã nhanh chóng bộc lộ bản lĩnh của mình, bằng cách tự lập làm vua, gánh lấy trách nhiệm cứu dân, dựng nước thay triều Tiền Lê đã đổ nát. Thời gian ngắn ngủi này đã sớm thể hiện nhân cách của ông và mở ra sự nghiệp lẫy lừng của ông và của vương triều Lý. Vấn đề đánh giá nhân cách và sự nghiệp Lý Công Uẩn Bàn về cuộc đời và cống hiến của Lý Công Uẩn trong lịch sử đã có rất nhiều ý kiến khác nhau. Tôi chỉ xin nêu một vài sự việc đáng quan tâm: Về Chiếu dời đô: Đoạn hay nhất trong Chiếu dời đô là những lời lẽ của Lý Công Uẩn nói về địa phương, về mảnh đất được lựa chọn: Thành Đại La ở khu trung tâm trời đất, ở thế rồng cuộn hổ ngồi… đã đúng ngôi nam, bắc, đông, tây lại tiện hướng nhìn sông dựa núi…", dân cư khỏi chịu cảnh khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi"… "thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước, cũng là kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời". Những lời vắn tắt ở trên đã chứng minh kế sách lâu dài của Lý Công Uẩn là hoàn toàn đúng. Nhân cách của ông còn thể hiện sức mạnh của lòng tự cường dân tộc. Ông đã có đầy dũng khí để dời bỏ đất Hoa Lư, một nơi hiểm địa để tự vệ nhiều hơn là để phát triển đất nước rộng lớn. Đặt thủ đô giữa trung tâm đất nước là để dân tộc có thể vùng vẫy giữa trời cao biển rộng, phát huy mọi tiềm năng để xây dựng một nước hùng cường, không chịu thân phận yếu nghèo như trước. Điều này chứng tỏ sự nung nấu của ông từ bao lâu về sự nghiệp của đất nước, về niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của dân tộc và chí lớn của bản thân mình. Tuy vậy, bên cạnh đó, còn điểm nói hơi nhiều về những tấm gương nước ngoài và chưa đề cao đúng mức với triều đình trước đó. Việc sùng bái đạo Phật: Lý Công Uẩn là người sống quá nửa cuộc đời ở trong chùa Phật, chịu ảnh hưởng nhiều của những người thầy như Lý Khánh Vân, Vạn Hạnh nên tất yếu ông tin theo đạo Phật. Tuy nhiên việc làm của ông không hoàn toàn chỉ vì tín ngưỡng mà sưu tầm kinh Phật, xây chùa, tạc tượng mà còn có dụng ý củng cố và phát huy truyền thống yêu nước, thương người trong nhân dân trên cơ sở giáo lý của đạo Phật. Chính vì lẽ đó mà dưới triều đại nhà Lý nhân dân yên ổn làm ăn, không có trộm cướp, lao động cần cù và chiến đấu anh hùng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy vậy do quá tập trung công sức vào xây chùa dựng tượng để thờ Phật hơn là đi sâu vào Phật học như các vua Trần sau này, cũng vì thế mà ông đã chậm khai thác những thành công của Nho giáo ở các nước Á Đông, trong việc hoàn chỉnh bộ máy chính quyền trong thời điểm đó. Về ngoại giao: ông có chính sách mềm dẻo trên cơ sở bảo vệ vững chắc nền độc lập và củng cố tình hữu nghị với các nước láng giềng. Ngay từ khi lên ngôi, Lý Công Uẩn đã đặt ngay mối quan hệ hòa hiếu với Trung Quốc, trên tinh thần cùng phát triển Nho, Phật, Lão, cùng giao lưu về kinh tế, chính trị và văn hóa. Thái độ này gắn liền truyền thống hữu nghị với độc lập dân tộc trong lòng con người Việt Nam từ triều đình tới dân chúng. Cuộc chiến đấu oanh liệt của Lý Thường Kiệt và nhân dân Đại Việt chống quân xâm lược của nhà Tống đã thể hiện thái độ nói trên. Sự nghiệp Lý Công Uẩn để lại nhiều bài học cho các triều đại về sau, nhất là ý chí của vua quan nhà Trần và toàn thể nhân dân trong sự nghiệp kiên quyết chống ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Sự nghiệp Lý Công Uẩn còn tiếp tục tỏa sáng qua ngàn năm lịch sử với những thành tích vẻ vang từ Lý Công Uẩn với vương triều Lý đến Hồ Chí Minh và dân tộc ta trong thời đại ngày nay.
tham khảo ở đây nha
https://olm.vn/hoi-dap/detail/107591441723.html
Lí Công Uẩn là một vị vua anh minh , có tầm nhìn xa trông rộng. Ông đã nhận ra địa thế ''rồng cuộn hổ ngồi '' của thành Đại La (Thăng Long) và sự chật hẹp, cô lập của kinh đô Hoa Lư. Chứng tỏ ,Lí Công Uẩn là người am hiểu về địa lí. Ông còn là người hiểu biết , thông thạo về lịch sử. Trong bài '' Chiếu dời đô'' ,ông đã lấy ví dụ về việc dời đô của nhà Thương ,nhà Chu để làm gương bởi nhà Thương ,Chu đều là những triều đại phồn thịnh, tồn tại lâu dài trong lịch sử Trung Quốc . Ông còn phê phán việc nhà Đinh , nhà Lê không chịu dời đô , cứ đóng đô ở Hoa Lư chật hẹp. Vì vậy , nên triều Đinh , Lê không tồn tại được lâu . Ngoài ra, Đại La cũng là kinh đô cũ của Cao Vương . Theo Lí Công Uẩn , việc dời đô là thực sự cần thiết , rất quan trọng với vận mệnh đất nước. Nhờ kinh nghiệm của mình, ông đã dự đoán được sự thuận lợi của thành Đại La , giúp đất nước phát triển phồn thịnh.
em tham khảo:
Chiếu dời đô không chỉ cho thấy tài năng, tầm nhìn xa rộng của người trị vì đất nước mà còn phản ánh được khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt. Mở đầu bài chiếu, nhà vua đã nêu lên mục đích của việc dời đô thông qua những minh chứng rõ ràng, thiết thực từ sử sách bên Trung Quốc rồi đến chuyện nước nhà, thời nhà Đinh, nhà Lê “ theo ý riêng mình, khinh thường, mệnh trời... ” Qua đó, tác giả cho thấy vận nước muốn được lâu dài, phát triển phồn thịnh cần xem xét các yếu tố thiên thời - địa lợi - nhân hòa. Nhà vua cũng bày tỏ tâm trạng “đau xót” khi nghĩ về những thăng trầm của vận nước trải qua. Đồng thời Người khẳng định, việc chuyển dời cũng vì lợi ích của muôn dân, cho thấy tấm lòng yêu nước thương dân, luôn lo nghĩ cho sự phát triển phồn thịnh của dân tộc. Phần thứ hai của bài chiếu đã thể hiện tầm nhìn chiến lược cùa nhà vua về mảnh đất Đại La – nơi sẽ dời đô đến. Đó là mảnh đất hội tụ đầy đủ những thuận lợi về địa lí, văn hóa, nhân văn…Câu văn súc tích, giàu hình ảnh và biểu cảm đã gợi lên trước mắt người đọc về mảnh đất là nơi “thắng địa”, “chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước”. Ở nơi ấy muôn dân sẽ được an hưởng thái bình hạnh phúc. Khát vọng của vua cũng là khát vọng của nhân dân muôn đời. Và ở phần kết, nhà vua đã hỏi ý kiến của các quần thần về việc dời đô. Câu hỏi ấy gợi nhắc ta đến hội nghị DIêm Hồng năm xưa khi quyết định về vận nước, tất cả đều đồng lòng chung sức, lo nghĩ cho vận mệnh dân tộc. Đọan kết chỉ với 14 chữ ngắn ngủi nhưng nhà vua đã thể hiện tinh thần dân chủ vốn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt vào những giờ phút quyết định của lịch sử. Qua đó, ta thêm cảm phục một con người tài trí mà đức độ, kín đáo. Như vậy, Chiếu dời đô với lời lẽ ngắn gọn, trang trọng, mang khẩu khí của bậc đế vương, có thể coi là áng văn xuôi cổ độc đáo, đặc sắc trong kho tàng văn học Việt Nam. Thế hệ con cháu hôm nay và mai sau mãi mãi tự hào về trang lịch sử vàng của dân tộc được hun đúc từ ngàn đời.
1. Nội dung: Chiếu dời đô phản ánh khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, đồng thời phản ánh ý chí tự lực tự cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh.
2. Nghệ thuật:
- Đây không chỉ là một văn kiện lịch sử thể hiện tại năng của vị vua anh mình mà còn có sức thuyết phục mạnh mẽ bởi: nêu đúng được ý nguyện của nhân dân, có sự kết hợp hài hòa giữa lí và tình.
- Nghệ thuật lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục.
cảm ơn bạn ạ