Hoạt động hấp thụ chất dinh dưỡng ở ruột non diễn ra như thế nào
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Sự hấp thụ các chất dinh dưỡng diễn ra chủ yếu ở ruột non.Các chất được hấp thụ tuy đi theo hai đường máu và bạch huyết nhưng cuối cùng vẫn được hoà chung và phân phối đến các tế bào cơ thể.Gan tham gia điều hoà nồng độ các chất trong máu được ổn định đồng thời khử các chất độc có hại với cơ thể.
sự hấp thụ các chất dinh dưỡng ở ruột non ik theo hai đường là mạch máu và mạch bạch huyết:
-mạch máu gồm:các chất dinh dưỡng khác(gluxit,protein,axit amin,...),30% lipit,có thể xen lẫn một số chất độc hại cho cơ thể.
-mạch bạch huyết gồm:các loại vitamik tan trong dầu(A,D,E...),và 70%lipit(hầu như ko có chứa chất độc hại.
-các chất dinh dưỡng khi ik theo mạch máu thì sẽ ik qua gan(gan co nhiệm vụ tinh lọc cac chất độc hại có trong các chất dinh dưỡng và lưu trữ chất cặn bã...)để thải bỏ phần chất độc hại bị nhiễm vào các chất dinh dưỡng.
-sau cùng khi các chất dinh dưỡng đc hòa cùng mạch máu và mạch bạch huyết thì sẽ vrrf tim và theo vòng tuần hoàn ik cung cấp chất dinhh dưỡng cho các tế bào cơ quan trong cơ thể.
Con đường vận chuyển và hấp thụ các chất:
Các chất dinh dưỡng trong ruột non đc hấp thụ qua thanhg ruột sẽ đi theo 2 con đường về tim rùi theo hệ tuần hoàn tới các tế bào :
+ Đường máu: đường đơn ,lipit axit amin các vitamin tan trong nc , muối khoáng hòa tan ,nước
+ Đường bạch huyết : litpit ( 70% dạng nhũ tương hóa )
Vai trò của gan:
+ Khử các chất độc lọt vào cungg các chất dinh dưỡng
+ Điều hòa nồng độ các chất dinh dưỡng trong máu
+ Tiết dịch mật trong quá trình tiêu hóa .
Ở ruột non diễn ra hoạt động tiêu hóa lí học và tiêu hóa hóa học
Hoạt động tiêu hóa chủ yếu ở ruột non là sự biến đổi hóa học của thức ăn dưới tác dụng của enzim trong các dịch tiêu hóa (dịch mật, dịch tụy, dịch ruột).
Các chất cần được tiêu hóa là : Protein, lipid và tinh bột
Với khẩu phần bữa ăn đầy đủ các chất và sự tiêu hoá có hiệu quả thì các thành phần chất dinh dưỡng sau tiêu hoá ở ruột non là: đường đơn,các axit amin,axit béo và glixerin,các vitamin,các muối khoáng.
* Chế độ ăn chống viêm
* Chế độ ăn giàu chất xơ.
* Bổ sung thực phẩm giàu Flavonoid.
* Chú trọng thực phẩm ít chất béo.
* Đừng bỏ qua men vi sinh.
Hoạt động tiêu hóa chủ yếu ở ruột non là sự biến đổi hóa học của thức ăn dưới tác dụng của các enzim trong các dịch tiêu hóa (dịch mật, dịch tụy, dịch ruột).
Những đặc điểm cấu tạo của ruột non giúp nó đảm nhiệm tốt vai trò hấp thụ các chất dinh dưỡng là:
- Lớp niêm mạc ruột non có các nếp gấp với các lông ruột và lông cực nhỏ làm cho diện tích bề mặt bên trong của nó tăng gấp khoảng 600 lần so với diện tích mặt ngoài.
- Ruột non rất dài (tới 2,8 - 3m ở người trưởng thành), dài nhất trong các cơ quan của ống tiêu hóa.
- Mạng mao mạch máu và mạng bạch huyết phân bố dày đặc tới từng lông ruột.
Hoạt động tiêu hóa chủ yếu ở ruột non là gì?
- Hoạt động tiêu hóa chủ yếu ở ruột non là sự biến đổi hóa học của thức ăn dưới tác dụng của các enzim trong các dịch tiêu hóa (dịch mật, dịch tụy, dịch ruột).
Những đặc điểm nào của ruột non giúp nó đảm nhiệm tốt vai trò hấp thụ các chất dinh dưỡng?
- Ruột non dài 2,8m - 3m
- Niêm mạc có:
+ Nếp gấp
+ Lông ruột
+ Lông cực nhỏ ⇒ Giúp diện tích bề mặt hấp thụ đạt 400 - 500 m2
- Lớp niêm mạc có màng mao mạch dày đặc ⇒ Chất dinh dưỡng hấp thụ vào máu được dễ dàng.
Đáp án là A
Phát biểu sai là A.
Vì thức ăn ở ruột non được biến đổi nhờ các enzyme tiêu hóa chứ không phải hệ vi sinh vật
Hoạt động nào sau đây chỉ xảy ra ở ruột non?
A. Biến đổi hoá học B. Biến đổi lí học C. Tiết dịch tiêu hoá D. Hấp thụ các chất dinh dưỡng
Quá trình hấp thụ các chất dinh dưỡng chủ yếu diễn ra ở ruột non vì chỉ đến ruột non thức ăn mới được biến đổi hoàn toàn và cũng chỉ ở ruột non mới có cấu tạo thích nghi với sự hấp thụ. Quá trình tiêu hóa ở đây thực hiện nhở enzim chứ không phải nhở hệ vi sinh vật.
Vậy: A đúng
Quá trình hấp thụ các chất dinh dưỡng chủ yếu diễn ra ở ruột non vì chỉ đến ruột non thức ăn mới được biến đổi hoàn toàn và cũng chỉ ở ruột non mới có cấu tạo thích nghi với sự hấp thụ. Quá trình tiêu hóa ở đây thực hiện nhở enzim chứ không phải nhở hệ vi sinh vật.
Vậy: A đúng
Hấp thu ở ruột non là sự xuyên thấm của các chất dinh dưỡng từ từ hốc ruột vào máu và bạch huyết ngang qua lớp tế bào niêm mạc ruột có cấu trúc tinh vi và theo những cơ chế rất phức tạp.
Tất cả các đoạn của ống tiêu hoá đều có khả năng hấp thu, nhưng ở người và động vật bậc cao sự hấp thu ở ruột non là quan trọng nhất vì các lý do sau:
- Niêm mạc ruột non có cấu trúc đặc biệt tạo nên diện tích hấp thu rất lớn.
- Các chất dinh dưỡng ở ruột non, qua quá trình tiêu hoá đã sẵn sàng ở dạng hấp thu được.
Chính nhờ sự hấp thu ở ruột non mà cơ thể nhận được các chất dinh dưỡng cần thiết đáp ứng cho hoạt động sống của con người.
Niêm mạc ruột non có nhiều nếp nhô lên là van ruột. Trên mặt van ruột có các nếp gấp nhỏ hơn gọi là nhung mao. Nhung mao được phủ một lớp liên bào hình trụ-là tế bào hấp thu, trên bề mặt mỗi tế bào có 1500-4000 vi nhung mao (còn gọi bờ bàn chải). Do cấu trúc như vậy nên diện tích của niêm mạc ruột tăng lên nhiều lần, đạt tới 500m2.
Trên mặt và khe giữa các vi nhung mao có các siêu nhung mao đan chéo nhau tạo nên hệ thống lưới 3 chiều gọi là glycocalyx, có vai trò lớn trong quá trình tiêu hoá hấp thu ở ruột.
Dưới lớp liên bào là tổ chức liên kết, trong đó có mạng lưới thần kinh, các mao động mạch và mao tĩnh mạch nối với nhau tạo nên mạng lưới dày đặc. ở giữa nhung mao có ống bạch mạch, các ống này đi ra ngoài nhung mao gom vào các bạch huyết ở ruột.
1.2- Cơ chế hấp thu các chất ở ruột non.
*- Vận chuyển thụ động: gồm khuếch tán đơn thuần, khuếch tán có chất mang và siêu lọc. Loại cơ chế này có vai trò đáng kể.
*- Vận chuyển tích cực: thuộc loại vận chuyển tích cực thứ phát, cần sự có mặt của ion Na+. Loại cơ chế này có vai trò chủ đạo.
*- Thực bào (phagocytose), ẩm bào (pinocytose): vai trò không đáng kể.
(Xem lại bài vận chuyển vật chất qua màng tế bào).
Nhiều chất được hấp thu nhờ sự kết hợp của các cơ chế trên.
*- Dây chuyền tiêu hoá hấp thu.
Ugolev nêu ra (1970): quá trình tiêu hoá hấp thu các chất dinh dưỡng ở ruột non diễn ra theo một dây chuyền liên tục, nhanh chóng và có hiệu quả. Các men tiêu hoá thuộc dịch tuỵ và dịch ruột bố trí ở glycocalyx theo hướng từ lòng ruột tới màng vi nhung mao theo một trật tự nhất định. Đại phân tử các chất thức ăn bị chặt nhỏ dần trên đường di chuyển tới màng vi nhung mao. Trên màng vi nhung mao, các men tiêu hoá màng thực hiện giai đoạn thuỷ phân cuối cùng và chuyển giao trực tiếp sản phẩm thuỷ phân cho hệ chất tải đặc hiệu. Do đó làm tăng hiệu quả gắn nối, giảm bớt sự cạnh tranh trong quá trình hấp thu, và tránh hiện tượng khuếch tán ngược chất hấp thu vào lòng ruột. Do đó hấp thu các acid amin và đường đơn tạo ra từ oligopetid và oligosaccarid với tốc độ nhanh hơn sự hấp thu các đường đơn và acid amin đưa vào ruột dưới dạng tự do.
Trong hội chứng giảm hấp thu có sự rối loạn cấu trúc vi nhung mao và vùng glycocalyx.
1.3- Hấp thu các chất ở ruột non.
1.3.1- Hấp thu glucid.
Glucid được hấp thu dưới dạng monosacarid (đường đơn). Sản phẩm glucid có 3 loại monosacarid chính, là glucose, galactose và fructose.
-Glucose và galactose được hấp thu từ lòng ruột vào tế bào theo cơ chế vận chuyển tích cực thứ phát (secondary active transport) cùng với ion natri. Đường đơn và Na+ được gắn lên vị trí tương ứng của protein mang, lúc đó protein mang sẽ thay đổi cấu hình không gian, chuyển đồng thời hai chất cào tế bào, rồi lại quay ra thực hiện vòng vận chuyển mới. Từ trong tế bào glucose và galactose được khếch tán vào hệ mạch máu. Khi thiếu ion Na, sự hấp thu đường đơn sẽ bị giảm nhiều thậm chí bị ngừng hoàn toàn.
Cơ chế này không bị rối loạn trong bệnh tiêu chảy. Dùng dung dịch orezol, là dung dịch muối đường để điều trị bệnh tiêu chảy giúp cho sự hấp thu đường và muối ở ruột được tốt.
-Fructose được hấp thu từ lòng ruột vào tế bào và từ tế bào vào mạch máu đều theo cơ chế khếch tán có chất mang.
1.3.2- Hấp thu protid.
Protid được hấp thu dưới dạng các acid amin, chủ yếu theo cơ chế vận chuyển tích cực thứ phát cùng ion natri. Có 5 loại protein mang trong hấp thu các acid amin, hình thức hoạt động của các protein mang cũng tương tự như trong hấp thu glucose. Năng lượng cho quá trình vận chuyển này cũng phụ thuộc vào thế năng chênh lệch của ion Natri. Protid động vật hấp thu tốt hơn protid thực vật.
Tế bào niêm mạc ruột non của trẻ nhỏ có khả năng hấp thu protein nguyên dạng (native protein), đó là các gâmm globulin từ sữa mẹ. Khi trẻ lớn lên, khả năng này dần bị giảm và mất hoàn toàn ở người lớn. Một số người còn khả năng này là cơ sở của dị ứng thức ăn.1.3.3- Hấp thu lipid.
Lipid thức ăn được thuỷ phân thành monoglycerid, acid béo, cholesterol tự do và glycerol. 30% glycerol và acid béo mạch ngắn (nhỏ hơn 12 C) được khuếch tán thẳng vào tế bào niêm mạc, rồi vào máu tĩnh mạch.
Còn lại acid béo mạch dài, choleserol tự do và monoglycerid được hấp thu vào tế bào niêm mạcổtng phức hợp micell do muối mậ tạo nên. Trong tế bào niêm mạc ruột các chất này lại được tổng hợp thành triglycerid, cholesterol este và photpholipid, rồi cùng với protein tạo nên chất chylomicron (loại lipoprotein nhẹ nhất), chất này được khếch tán vào hệ bạch mạch.1.3.4- Hấp thu các vitamin.
*- Các vitamin tan trong nước: vitamin nhóm B, C, PP ... chủ yếu hấp thu theo cơ chế khuếch tán. Riêng vitamin B12 được hấp thu do vận chuyển tích cực, cần sự có mặt cảu yếu tố nội của dạ dày.
* các vitamin tan trong dầu: gồm vitamin A, K, D, E hấp thu cùng các sản phẩm lipid, cần sự có mặt của muối mật (trong phức hợp micell).1.3.5- Hấp thu các chất muối khoáng.
Các chất muối khoáng khác nhau có cơ chế hấp thu khác nhau.
- Các ion dương hoá trị một nhiều nhất là Na+, K+ được hấp thu theo cơ chế vận chuyển tích cực thứ phát và khếch tán.
- Các ion hoá trị dương hai chủ yếu hấp thu theo cơ chế tích cực rất phức tạp, nhiều nhất là Ca++ và Fe++.
- Các ion âm chủ yếu được hấp thu thụ động theo các ion dương.
- Một số ion âm ít được hấp thu như sulfat, photphat, citrat ... và một số chất
không được hấp thu: oxalat, fluosur ... Người ta dùng các loại muối này để làm thuốc tẩy (như sulfat Mg ...).1.3.6- Hấp thu nước.
Nước được hấp thu do khếch tán theo chênh lệch áp lực thẩm thấu.
Hàng ngày có khoảng 8-10 lít nước đựơc đưa vào ống tiêu hoá gồm 1,5-2,0 lit do ăn uống và 7-8 lit do các ống tiêu hoá bài tiết ra. ống tiêu hoá có khả năng tái hấp thu tới 99% lượng nước nói trên trong một ngày đêm, chỉ có 0,12-0,15 lit nước đào thải ra ngoài theo phân. Phần cuối đại tràng có khả năng hấp thu nước khá mạnh. Do đó phân đọng lâu ở đại tràng sẽ dễ gây táo bón.1.4- Các đường hấp thu.
Từ niêm mạc ruột non, các chất được hấp thu theo hai đường:
14.1- Đường tĩnh mạch cửa.Các chất nước, acid amin, monosaccarid, 30% glycerol và acid béo mạch ngắn sau khi hấp thu sẽ vào mao mạch ở nhung mao. Các mao mạch này gom lại thành các tiểu tĩnh mạch rồi tập trung lại theo tĩnh mạch cửa về gan. Ở gan các chất qua quá trình chuyển hoá phức tạp, rồi theo tĩnh mạch trên đổ vào tĩnh mạch chủ dưới.1.4.2- Đường bạch mạch.Khoảng 70% các sản phẩm thuỷ phân lipid và các vitamin tan trong dầu, sau khi hấp thu qua tế bào niêm mạc ruột vào mao bạch mạch ở nhung mao, rồi gom về các hạch bạch huyết ở thành ruột, rồi đổ về bể Pecquet. Từ đây chúng đi theo ống ngực, đổ vào tĩnh mạch dưới đòn trái vào tuần hoàn chung.
1.5. Điều hoà hấp thu.
1.5.1-.Cơ chế thần kinh.
-Thần kinh phó giao cảm: làm tăng nhu động ruột, giãn mạch ® tăng hấp thu.
-Thần kinh giao cảm làm giảm nhu động ruột, co mạch ® giảm hấp thu.
1.5.2. Cơ chế thể dịch.
Các hormon villikrinin, duokrinin, gatrin, CCK... với mức độ khác nhau làm tăng hấp thu.
Cảm ơn bạn nhưng mà sao nhiều vậy mình chỉ hỏi là hoạt động diễn ra như thế nào thôi mà