K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

22 tháng 11 2018

Bầu trời mùa thu trở nên trong xanh hơn, từng đàn chim bay chao qua chao lại như những lũ trẻ tinh nghịch chơi trò đuổi bắt. Bên cạnh bờ ao, vịt mẹ cùng chín chú vịt con của mình đang lạch bạch đi tới hòa mình xuống làn nước ao xanh xanh. Từng thân tre duyên dáng ngả mình tựa vào nhau kêu kẽo kẹt hay lại ngả mình vờn xuống mặt ao sau mỗi trận gió ngang qua. Có một ông lão ngồi trên chiếc thuyền nhỏ, tay nắm cần câu gật gù như chẳng màng tới sự đời ngoài kia. Cảnh vật sao yên bình và đẹp đẽ quá!
Số từ: chín, một
Lượng từ: từng, mỗi, những

22 tháng 11 2018

Một canh...hai canh...lại ba canh

Trằn trọc băn khoăn , giấc chẳng thành

Canh bốn , canh năm vừa chợp mắt 

Sao vàng năm canh mộng hồn quanh

5 tháng 11 2021

Em tham khảo:

Đường  xứ Nghệ quanh quanh -> vào
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ.

 

Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát, -> này
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông. -> kia

 

Tay bưng đĩa muối mà lầm

Vừa đi vừa húp  ầm xuống mương. -> ngã

 

Ngó lên Hòn Kẽm Đá Dừng

Thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu ơi. -> bạn

 

Tay bưng dĩa muối dĩa gừng -> đĩa

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.

=> Các câu này sử dụng từ ngữ ở các địa phương Trung và Nam Bộ

19 tháng 9

Ngáo chó à sai r

10 tháng 3 2018

+ ) 5 CÂU THÀNH NGỮ :

ƯỚT NHƯ CHUỘT LỘT

CÂM NHƯ HẾN

DAI NHƯ ĐỈA

CHẬM NHƯ SÊN

ĐEN NHƯ MỰC

ĐÔNG NHƯ KIẾN CỎ

LƯỢN NHƯ DIỀU HÂU

KHỎE NHƯ VOI

+) 5 CÂU CA DAO

 - ANH EM NHƯ THỂ CHÂN TAY

RÁCH LÀNH ĐÙM BỌC , DỞ HAY ĐỠ ĐẦN

- CÔNG CHA NHƯ NÚI THÁI SƠN

NGHĨA MẸ NHƯ NƯỚC TRONG NGUỒN CHẢY RA

- TRÊN TRỜI MÂY TRẮNG NHƯ BÔNG

Ở GIỮA CÁNH ĐỒNG, BÔNG TRẮNG NHƯ MÂY

- CÀY ĐỒNG ĐANG BUỔI BAN TRƯA

MỒ HÔI THÁNH THÓT NHƯ MƯA RUỘNG CÀY

- DÙ AI NÓI NGẢ NÓI NGHIÊNG

LÒNG TA VẪN VỮNG NHƯ KIỀNG BA CHÂN

~ HỌC TỐT~~

10 tháng 3 2018

1, "THUYỀN đây nhớ BẾN vô cùng 
Ngặt vì ĐỒN BÓT ngại ngùng khó qua. 
2, "Một CÂY làm chẳng lên NON 
Ba CÂY CHỤM LẠI nên HÒN NÚI CAO." 
3, "Gần MỰC thì ĐEN, gần ĐÈN thì SÁNG" 
4, ".Một con NGỰA ĐAU, cả TÀU bỏ CỎ." 
5, "Có công mài SẮT có ngày nên KIM." 
_Đây là so sánh. 
6, "Anh em như thể tay chân" 
7, "Con có cha như nhà có nóc, con không cha như nòng nọc đứt đuôi" 
8, "Mẹ già như chuối ba hương 
Như xôi nếp một, như đường mía lau". 
9, "Thân em như hạt mưa rào 
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa". 
10, "Đôi ta như lửa mới nhen 
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu". 
_Chúc bạn học tốt nhé!

28 tháng 11 2021

Tham khảo
1. Mình nói với ta mình hãy còn son

Ta đi qua ngõ thấy con mình

Con mình những trấu cùng tro

Ta đi xách nước rửa cho con mình.

 

2. Mình về có nhớ ta chăng

Ta về ta nhớ hàm răng mình cười

 

3. Mình về ta chẳng cho về

Ta nắm vạt áo, ta đề bài thơ

 

4. Mình về mình có nhớ chăng

Ta về như lạt buộc khăn nhớ mình.

25 tháng 5 2017

Ví dụ một số bài thơ của nhà thơ Tố Hữu.

Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng....

5 tháng 12 2017

SỬ DỤNG SỐ TỪ:

- Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ.

- Một nghề cho chín còn hơn chín nghề.

- Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò.

5 tháng 12 2017

SỬ DỤNG LƯỢNG TỪ:

- Ai ơi đùng bỏ ruộng hoang

Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu.

18 tháng 12 2017

ai tìm giúp mình cái mình đang cần gấp

18 tháng 12 2017

Chỉ từ:

-Đấy vàng đây cũng đồng đen

Đấy hoa thiên lí, đây sen Tây Hồ.

- Ăn cây nào rào cây nấy

-Gieo nhân nào gặp quả nấy

Mk chỉ biết có nhiêu đây thôi. Chúc bạn học tốt!!

15 tháng 1 2018

Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi

Thương em anh cũng muốn vô , 
Sợ truông nhà Hồ , sợ phá Tam Giang

Chình ình như cái đình La Qua

- Về đi sống với ruộng vườn, 
Vòng khoai, nương sắn, xanh rờn chè tươi. 
Tội gì theo giặc, anh ơi ! 
Ngàn năm bia miệng, người đời cười chê. 
- Cho dù cha mắng mẹ treo 
Em không bỏ hội chùa keo hôm rằm. 
- Ngại gì một nỗi xa đàng 
Bác mẹ chưa biết họ hàng chưa hay. 
Anh có lòng thương chờ đợi ít ngày, 
Được phép mẹ thầy, anh hãy vãng lai. 
Trước răng sao rứa không sai. 
- Em về thưa mẹ cùng thầy, 
Cho anh cưới tháng này anh ra. 
Anh về thưa mẹ cùng cha, 
Bắt lợn sang cưới, bắt gà sang cheo. 
- Ân cha nghĩa mẹ chưa đền, 
Bậu mong ôm gối cuốn mền theo ai ? 
- Đói lòng ăn nắm lá sung 
Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng. 
Một thuyền một lái chẳng xong 
Một chĩnh đôi gáo còn nong tay nào. 
-Cơm ăn một bát sao no 
Ruộng cày một vụ sao cho đành lòng 
Sâu cấy lúa, cạn gieo bông 
Chẳng ươm được đỗ thì trồng ngô khoai. 
- Nhà em có vại cà đầy 
Có ao rau muống có đầy chĩnh tương. 
- Một bên nhà rộng áo dài 
Một bên cày cấy lấy khoai đổ bồ 
Hai bên em chuộng bên mô ? 
Hai bên em chuộng bên bồ khoai lang. 
- Lợn bột thì thịt ăn ngon 
Lợn nái thì đẻ lợn con cũng lời. 
- Ai lên rừng cho em xin miếng gỗ trắc 
Gửi ra ngoài Bắc, khắc bốn câu thơ : 
Câu thương, câu nhớ, câu đợi 
Ngoài nớ lo kiến thiết thì trong ni cũng hàng giờ lo đấu tranh. 
-Giêng hai cắn móng tay không ra máu 
Nhà con bốn người chạy ba trăm sáu đâu ra 
Phen ni hết ruộng hết nhà 
“ Cần lao”. “ nhân vị”chỉ là giết dân. 
( cần lao, nhân vị: Tên “đảng” phản động của Ngô Đình Diệm, cũng là khẩu hiệu lừa bịp của chúng ) 
- Ru em em théc cho muồi 
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu 
Mua vôi chợ quán chợ Cầu 
Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh. 
(théc : ngủ; muồi : say ) 
- Đi vay đi dạm được tám quan hai 
Xuống dưới chợ mai 
Mua một cái đó 
Trời mưa trời gió 
Vác đó đi đơm 
Chạy vô ăn cơm 
Chạy ra mất đó 
Kể từ ngày ai lấy đó, đó ơi 
Răng đó không phân qua nói lại đôi lời đây hay ?

2 tháng 11 2018

Tục ngữ: Là một câu tự nó diễn trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một luân lý, có khi là một sự phê phán.
- Thành ngữ: Là một phần câu sẵn có, nó là một bộ phận của câu, mà nhiều người đã quen dùng, nhưng tự riêng nó không diễn được một ý trọn vẹn.
Về hình thức ngữ pháp , mỗi thành ngữ chỉ là một nhóm từ, chưa phải là một câu hoàn chỉnh.
Còn tục ngữ dù ngắn đến đâu cũng là một câu hoàn chỉnh.
Có thể nói một cách hình ảnh: thành ngữ ngang hàng với từ. Thành ngữ là anh, từ đơn độc là em.
Vì thành ngữ qua thời gian đã được tập hợp thành cụm. VD: "Áo rách, quần manh",

"Ăn trắng, mặc trơn", "Ăn trên, ngồi trốc", "Dốt đặc cán mai", "Cá bể, chim ngàn" "Bụng đói, cật rét"....
đều là thành ngữ. Còn "Chó cắn áo rách", "Bệnh quỷ thuốc tiên", "Người chửa, cửa mả"... đều là tục ngữ.
Hầu hết những câu thành ngữ, tục ngữ đầu do nhân dân sáng tác, nhưng cũng có những câu rút ra từ các thi phẩm phổ biến, hoặc rút từ ca dao, dân ca ra. Có người nói tục ngữ là ngạn ngữ (nghĩa là lời nói đã lưu hành từ xưa) (Chữ ngạn có nghĩa là lời nói của người xưa).
Như vậy, tục ngữ được cấu tạo trên cơ sở những kinh nghiệm về sinh hoạt, sản xuất... Nó là những câu đúc kết những nhận xét đã được nhiều người thừa nhận, để hướng dẫn con người ta trong sự nhìn nhận mọi khía cạnh của cuộc đời. Tục ngữ là những câu thông tục, thiên về diễn ý, đúc kết một số ý kiến dựa theo kinh nghiệm, dựa theo luân lý và công lý để nhận xét về con người và xã hội, hay dựa theo trí thức để nhận xét về con người và vũ trụ. Trong tục ngữ có cả thành ngữ:

"Chồng yêu, xỏ chân lỗ mũi", thì "xỏ chân lỗ mũi" là thành ngữ.

2. Ca dao và dân ca

- Ca dao là một thuật ngữ Hán Việt. Đứng về mặt văn học mà nhận định, khi chúng ta tước bỏ những tiếng đệm, những tiếng láy, những câu láy ở một bài dân ca, thì chúng ta thấy bài dân ca ấy chẳng khác nào một bài ca dao. Có thể nói, ranh giới giữ ca dao và dân ca không rõ.
Ca dao của ta có thể ngâm được nguyên câu. Còn dùng một bài ca dao để hát, thì bài ca dao sẽ biến thành dân ca. Vì hát yêu cầu phải có khúc điệu, và như vậy phải có thêm tiếng đệm. Vậy có thể nói, ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm được, như các loại thơ khác và có thể xây dựng thành các điệu ca dao.
Còn dân ca là câu hát đã thành khúc điệu. Dân ca là những bài hát có nhạc điệu nhất định, nó ngả về nhạc nhiều ở mặt hình thức, nó là nhạc do tiếng của con người đưa ra từ cổ họng.
Xét về nguồn gốc phát sinh thì dân ca khác với ca dao ở chỗ nó được hát lên trong những hoàn cảnh nhất định, hay ở những địa phương nhất định. Dân ca thường mang tính chất địa phương, còn ca dao thì ngược lại, dù nội dung của bài ca dao có nói về một địa phương cụ thể nào, thì nó vẫn đươc phổ biến rộng rãi

"Đồng đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh"

Hay:

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ

thì nhân dân nhiều nơi đều biết ngâm nga.
Còn dân ca thì nhiều khi chỉ có dân địa phương mới biết, và mới hát được.
Nội dung của dân ca cũng nhue nội dung của ca dao, chủ yếu là trữ tình, tức biểu hiện cái nội tâm của tác giả trước ngoại cảnh.
Cũng như tục ngữ, ca dao - dân ca là những bài văn vần do nhân dân sáng tác tập thể, được lưu truyền bằng miệng và / được phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Trong tất cả những tính chất chung của văn học dân gian (trong đó có tục ngữ - ca dao - dân ca):

tính nhân dân, tính hiện thực, tính lãng mãn, tính phổ biến, tính khuyết danh, tính truyền miệng, tính tập thể... thì tính tập thể là tính chất cơ bản nhất

B. Thời kỳ xuất hiện:

So với thần thoại và truyền thuyết thì ca dao có một hình thức văn nghệ tưởng như mới hơn. Nhưng theo kết quả nghiên cứu, tục ngữ, ca dao cũng xuất hiện cùng thời với thần thoại và truyền thuyết. Trong quá trình lao động, xuất hiện những câu hò, kiểu như "Dô ta", như vậy ca hát đã có từ rất sớm, nó xuất hiện trong lao động từ thời cổ sơ, và được sửa đổi qua các thế hệ của loài người.
Xét nội dung những câu "Năm cha, ba mẹ", hay "Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông", "Con dại, cái mang", "con mống, sống mang".. ta có thể biết được thời điểm xuất hiện câu đó, đólà thời kỳ tạp giao, hay tình trạng chồng chung vợ chạ, hoặc tóm tắt quá trình tạp giao từ chế độ mẫu hệ, rồi đến Phụ hệ...
Ca dao, tục ngữ cũng mang ý nghĩa lịch sử vì nó gắn liền và phản ánh đời sống kinh tế, xã hội qua từng thời kỳ.

C. Nội dung và hình thức của tục ngữ - ca dao - dân ca:

1. Nội dung của tục ngữ:
Tục ngữ được cấu tạo trên cơ sở thực tế, do lý trí nhiều hơn là do xúc cảm. tư tưởng biểu hiện trong tục ngữ là tư tưởng đanh thép, sắc bén, rút ở cuộc đời. Ở tục ngữ, tính chất phản phong là mạnh hơn cả.
Về nội dung, tục ngữ là những nhận định sau kinh nghiệm của con người về lao động, sản xuất, về cuộc sống trong gia đình, xã hội. Nội dung ấy vừa phong phú, vừa vững chắc, vì nó đã được đúc kết qua nhiều thế hệ của con người.
VD:

Quá mù ra mưa
Đông sao thì nắng, vắng sao thì mưa
Vỏ quýt dày có móng tay nhọn
Cái sảy nảy cái ung
Cõng rắn cắn gà nhà
...

2. Hình thức của tục ngữ

Tục ngữ ban đầu chỉ là những câu nói xuôi ta, hợp lý, sau dần mới trở thành những câu đối có vần vè, gọn gàng hơn

Làm phúc phải tội
Gà què ăn quẩn cối xay
Có ở trong chăn, mới biết chăn có rận
Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm
...

Tục ngữ không nhất thiết, nhưng phần lớn đều có vần vè, hay có đối

No nên bụt, đói nên ma
Bút sa, gà chết
Có tật giật mình

Còn có những câu vần cách, cách hai chữ, ba chữ

May tay hơn hay thuốc
Đi chợ ăn quà, về nhà đánh con

Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão
Gà cựa dài thịt rắn, gà cựa ngắn thịt mềm

Hoặc thể lục bát

Cá tươi thì xem lấy mang
Người khôn xem lấy hai hàng tóc mai


Tóm lại xét về sự phong phú cả về mặt nội dung cũng như hình thức, ta có thể thấy tục ngữ đã phát triển trước ca da rất nhiều. Còn nữa, ca dao thiên về tình cảm, biểu lộ tính tình của con người...nên chỉ có thể phát triển khi mà đời sống xã hội đã phức tạp.

3. Nội dung của ca dao

Có thể nói muốn hiểu biết về tình cảm của con người Việt Nam xem dồi dào, thắ m thiết và sâu sắc đến cỡ nào...thì không thể nào không nghiên cứu ca dao mà hiểu được.

Ca dao Việt nam là những bài tình tứ, là khuôn thước cho lối thơ trữ tình của ta.

Ca dao thể hiện tình yêu: tình yêu đôi lứa, gia đình, quê hương, đất nước, lao động, giai cấp, thiên nhiên, hoà bình...

Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ , canh gà Thọ Xương
Tuyệt mù khói toả ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ...

Ca dao còn thể hiện tư tưởng đấu tranh của con người với thiên nhiên, với xã hội.
Có thể nói nội dung của ca dao chủ yếu là trữ tình. Tìm hiểu được cái tình trong ca dao chúng ta sẽ thấy được tính chiến đấu, tính phản phong, tính nhân đạo chủ nghĩa chứa đựng trong ca dao.

4. Hình thức nghệ thuật của ca dao

Ca dao thường là những bài ngắn, hai, bốn, sáu, hoặc tám câu., âm điệu lưu loát và phong phú.
Đặc điểm của ca dao về phần hình thức là vần vừa sát lại vừa thanh thoát, không gò ép, lại giản dị, và tươi tắn. Nghe có vẻ như lời nói thường mà lại nhẹ nhàng, gọn gàng, chải chuốt, miêu tả được những tình cảm sâu sắc. Có thể nói về mặt tả cảnh , tả tình không có một hình thức văn chương nào ăn đứt được hình thức diễn tả của ca dao.
Ca dao dùng hình ảnh để nói lên những cái đẹp, những cái tốt, nhưng cũng có khi để nói về những cái xấu, nhưng không nói thẳng. Nhờ phương pháp hình tượng hoá, nên lời của ca dao tuy giản dị, mà rất hàm súc.
Người con gái không được chủ động trong việc hôn nhân, đã ví mình như hạt mưa:

Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa

Hay để tả một tình yêu trong trắng mới chớm nở của đôi lứa, ca dao noi:

Đôi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu

Đến như tả hạng người ngu đần, ca dao cũng đã đưa ra những hình ảnh táo bạo:

Mặt nạc đóm dày
Mo nang trôi sấp biết ngày nào khôn
Ca dao ngoài nghệ thuật cụ thể hoá, còn có nghệ thuật nhân cách hoá, dùng vật vô tri để gán cho những tâm tư, tình cảm con người.

Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thời một dạ khăng khăng đợi thuyền

Một số thể cổ điển của ca dao:
Thể phú: Là trình bày, diễn tả...

Đường lên xứ lạng bao xa
Cách một trái núi với ba quãng đồng
Ai ơi đứng lại mà trông
Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ
Em chớ thấy anh lắm bạn mà ngờ
Bụng anh vẫn phẳng như tờ giấy phong...

Thể tỉ: là so sánh, người ta thường mượn một cái khác để ngụ ý, so sánh, hay gửi gắm tâm sự của mình. Đây là phương pháp nghệ thuật chủ yếu trong sự diễn đạt tư tưởng và tình cảm. So sánh cũng là một lối cụ thể hoá những cái trừu tượng, làm cho lời thêm ý nhị, tình tứ và thắm thiết. So sánh trực tiếp:

Gối mền, gối chiếu không êm
Gối lụa không mềm bằng gối tay em

Lối tỉ gián tiếp, tức nghệ thuật ẩn dụ, một phương pháp nghệ thuật tế nhị hơn:

Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa, bến cũ, con đò khác đưa

....
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
- Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
- Đan sàng thiếp cũng xin vâng
Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng?
..........
Thể hứng: Ca dao còn một phương pháp nghệ thuật độc đáo nữa là cách biểu lộ cảm xúc đối với ngoại cảnh, mở đầu cho sự biểu lộ tâm tình. Hứng là do cảm xúc mà nảy nở tình cảm, có thể là vui, cũng có thể là buồn
[center]Cơm trắng ăn với chả chim
Chồng đẹp vợ đẹp, những nhìn mà no

Trên trời có đám mây vàng
Bên sông nước chảy có nàng quay tơ
Nàng buồn nàng bỏ quay tơ
Chàng buồn chàng bỏ thi thơ học hành

MỘT SỐ LÀN ĐIỆU DÂN CA NGHỆ TĨNH

1. Hát giặm
Tiếng giặm có nghĩa là ghép vào, điền vào, đan vào một chỗ thiếu....xuất hiện ở Nghệ Tĩnh cách đây khoảng ba , bốn trăm năm.
Về nội dung, có nhiều bài hát giặm rất tình tứ, cũng có nhiều bài có tính chất chống giai cấp phong kiến.
Về hình thức, phần nhiều các bài hát dặm đều gồm những câu năm chữ và cước vận, tức vần ở cuối câu: cứ hai câu cuối mỗi đoạn lại lấy một ý, điệp cả về ý, lẫn lời:
vd:
Tôi lấy chân khoả lại
Tôi lấy bàn khoả lại
hay:
Thấy những lời kêu trách
Nghe những lời kêu trách
Bài hát có bao nhiêu đoạn thì có bấy nhiêu lần điệp lại như vậy, nghe đọc thì thấy vướng, nhưng khi hát, nólàm nổi ý của câu hát, của cả bài.
Hát giặm cũng có ba lối trình diễn: nam nữ đối đáp, có lối vài ba người hát kể lên một giai thoại, hay một sự việc vừa xảy ra, lại có lối kể một sự tích gì có tình tiết nội dung, và hình thức đều được trau chuốt.
Hát giặm Nghệ Tĩnh không hoàn toàn do dân sáng tác, có khi do một số nho sĩ sáng tác, được nhân dân ưa thích và phổ biến rộng rãi
VD:

Trai:
Tiết thanh nhàn thong thả
Muốn thăm hỏi vài câu
Cuốc thánh thót kêu sầu
Gió phảng phất mùa sâu
Nhớ trong sách đã lâu:
Chuyện "Tư mã phượng cầu"
Thương thì mũi tìm trâu
Trâu đâu tìm chạc mũi

Gái:
Trời mở rộng phong quang
Giã ơn trời mở rộng phong quang
Em đánh tiếng đua sang
Đêm tàn canh vò võ
Tay em cầm con bấc đỏ
Mong bỏ đĩa dầu đầy
Mời bạn ở lại đây
Đôi ta giở lời rày
Tình đó với nghĩa đây

Trai:
Giống như đọi nác đầy
Bưng nhẩn nhẩn trên tay
Không khuy sơ một hột
Gió nỏ triềng một hột
Công đôi ta thề thốt
Kể đã mấy niên rồi
Lòng đã quyết lứa đôi
Ngãi đã quyết thề bồi
Nhất ngôn nói hẳn lời
Đừng bốn chốn ba nơi
Đừng trăn gió chào mời
Trăng nhiều trăng rạng rỡ
Trăn nhiều đèn rạng rỡ

Gái:
Em đã có chồng rồi
Em đã có lứa rồi
Vung úp đã vừa nồi
Đũa ghép đã thành đôi
Bạn đừng có ỡm ờ với tôi!
Tôi lấy chân khoả lại
Tôi lấy bàn khoả lại

Trai:
Têm một quả trầu không
Bỏ vô hộp con rồng
Đi băng nội băng đồng
Qua năm bảy khúc sông
Qua chín mười đỗi đồng
Nghe tin em đã có chồng
Anh quăng lắc vô bụi
Bạn gạt tùa vô bụi.

Anh thương em một tháng hai kỳ
Dồn đi tính lại, cũng như mười ngày
Năm rộn mà chầy
Có hai mươi bốn miện (Miện = kỳ)
Xuân qua rồi hè /đến
Thu đã muộn, đông rồi
Nhớ bạn cũ chưa nguôi,
Sang lập xuân vũ thuỷ
Đêm em nằm em nghĩ
Nghĩ kinh trập, xuân phân,
Lòng tưởng sự ái ân
Sang thanh minh, cốc vũ
Đêm dêm nằm nỏ ngủ
Nhớ bạn mãi thường thường
Tiết lập hạ nhớ thương
Bước sang tuần tiểu mãn
Trông ra ngoài chán chán
Tiết mang hiện lại gần
Người đập đất, gánh phân
Để mùa màng gặt hái
Anh thương em mãi mãi
Sang hạ chí tiết hè
Em nghe tiếng sầu ve
Em buồn trong gia sự
Bạn buồn trong gia sự

Tiết tiểu thử, đại thử
Trời nắng sốt lắm thay!
Ra ngồi tựa cột cây
Anh với em than thở
Bạn với mình than thở

Tiết lập thu, xử thử
Ai diều sáo mặc ai
Vàng lác đác giếng tây
Ta thương người bạn cộ (Cộ = cũ)
Nhớ mãi người bạn cộ

Vừa đến tiết bạch lộ
Bầy chim trắng bay sang
Cây heo hắt lá vàng
Sang thu phân hàn lộ.

Đêm em nằm, em chộ (chộ = thấy)
Tiết sương giáng lại kề
Trông bạn cũ ta về
Sang lập đông giá rét
Tiết tiểu tuyết, đại tuyết
Trời giá rét lắm thay
Sang đông chí cấy cày
Dạ bồi hồi nhớ bạn
Tiết tiểu hàn chưa dạn
Đã bước sang đại hàn
Dạ tưởng nhớ người ngoan
Vừa năm cùng tháng tận
Vừa cuối mùa cuối tận.

Phận lại ngồi trách phận
Phận nỏ giám trách phận
Anh thương em từ tháng giêng đến tháng chạp

6. Hát ví Nghệ Tĩnh

Hát Ví Nghệ Tĩnh là những loại dân ca xuất hiện trong nghề nông và nghề thủ công. Có nhiều điệu hát ví như: hát phường vải, hát phường cấy, hát đò đưa, hát phường buôn.... Trong những điệu hát này, hát phường vải và hát phường cấy có tổ chức và phổ biến hơn cả.

1. Hát phường vải

Những câu hát phường vải là những câu biểu lộ tâm tình của hai bên trai gái, hoặc là những ước mơ về yêu đương, hoặc là những lời oán trách kẻ chia rẽ tình duyên, và bao giờ cũng lạc quan, tin tưởng.
Hat phường vải gồm có bốn giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất: hát dạo, hát mừng, hát chào và hát hỏi. Giai đoạn thứ hai: hát đố và hát đối. Giai đoạn thứ ba: hát mời và hát xe kết. Giai đoạn thứ tư: hát tiễn.

Giai đoạn 1:

Hát dạo


Bấy lâu thức nhắp mơ màng
Bên rèm tiếng gió, đầu giường bóng trăng

Bấy lâu nghe hết tiếng nàng
Bên anh nức tiếng đồn vang đã lừng
Nghe tin anh cũng vội mừng
Vậy nên chẳng quản suối rừng anh sang

Bấy lâu anh mức chi nhà
Để em dệt gấm thêu hoa thêm sầu

Đồn rằng cá uốn thân vây
Đồn em hay hát, hát hay anh tìm

Chốn này vui vẻ, tưng bừng
Hạc nghe tiếng phượng xa chừng tới nơi

Đêm khuya trời tạnh sương im
Tai nghe tiếng nhạc, chàng Kim tới gần.

Dừng xa, khoan kéo, ơi phường!
Hình như có khách viễn phương tới nhà

Đi qua nghe tiếng em reo,
Nghe xa em kéo, muốn đeo em về.

Đi ngang trước cửa nàng Kiều,
Dừng chân đứng lại, dặt dìu đôi câu

Đi ngang thấy búp hoa đa`o
Muốn vào mà bẻ, sợ bờ rào lắm gai

Đồn đây là chốn Đao` Nguyên
Trăng thanh gió mát, cắm thuyền dạo chơi

Lạ lùng anh mới tới đây,
Thấy hoa liền hái, biết cây ai trồng

Đến đây vàng cũng như son
Ai ai thời cũng như con một nhà

Hát mừng, hát chào


Khi nháy mắt, khi nhện sa
Khi chuột rích trong nhà
Khi khách kêu ngoài ngõ
Tay em đưa go đủng đỉnh
Tay em chìa khoá động đào
Bước năm lần cửa, ra chào bạn quen

Mừng rằng bạn đến chơi nhà
Cam lòng thục nữ gọi là trao tay

Hát hỏi

Em có chồng rồi, em nói rằng chưa
Tội riêng em đó, nỏ lừa được anh

Em chưa có chồng, em mới đến đây
Chồng rồi chiếu trải, màn vây ở nhà

Giai đoạn 2:

Hát đố và hát đối

Anh về chẻ lạt bó tro
Rán sành ra mỡ, em cho làm chồng.
Em về đục núi lòn qua,
Vắt cổ chày ra nước, thì ta làm chồng

Trai thanh xuân ngồi hàng thuốc bắc,
Gái đông sàng cảm bệnh lầu tây
Hai ta tình nặng nghĩa dày,
Đối ra đáp được, lúc này tính sao?

- Đến đây hỏi khác tương phùng
Chim chi một cánh bay cùng nước non?
-Tương phùng nhắn với tương tri,
Lá buồm một cánh bay đi khắp trời

- Lá gì không nhánh, không ngành?
Lá gì chỉ có tay mình trao tay?
- Lá thư không nhánh, không ngành,
Lá thư chỉ có tay mình trao tay.

- Nghe tin anh hoc có tài
Cha thầy Mạnh Tử là ai rứa chàng?
- Thầy Mạnh, cụ Mạnh sinh ra
Đù mẹ con hát, tổ cha thằng bày!

- Người Kim Mã cưỡi co ngựa vàng
Đất Phù Long rồng nổi, thì chàng đối chi?
- Người Thanh Thuỷ gặp khách nước trong
Hoành sơn ngang núi, đã thoả lòng em chưa?

Nghe anh bôn tẩu bấy lâu
Nghệ An có mấy chiếc cầu hỡi anh?
- Nghệ An có ba mươi sáu chiếc cầu
Phồn hoa đi lại bốn cầu mà thôi
Cầu danh, cầu lợi, cầu tài
Cầu cho đây đó làm hai giao hoà

Nhớ em nhất nhật một ngày
Đêm tơ tưởng dạ, làng rày nhớ trông
- Chờ em nửa tháng ni rồi
Ôm đờn bán nguyệt, dựa ngồi cung trăng

- Nghe tin anh giỏi, anh tài
Đào tiên một cõi Thiên Thai ai trồng?
- Thiên thai là của nàng Kiều
Riêng chàng Kim Trọng sớm chiều vào ra

7 tháng 3 2018

1. Quýt làm cam chịu (nhân hoá) 
2. Anh em như thể tay chân 
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần (so sánh) 
3. Lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều (nhân hoá) 
4. Bầu ơi thương lấy bí cùng 
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn (nhân hoá) 
5. Đường vô xứ Huế quanh quanh 
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ (so sánh) 
6. Thân em như củ ấu gai 
Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen (so sánh) 
7. Thân em như tấm lụa đào 
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai (so sánh) 
8. Thân em như thể bèo trôi, 
Sóng dập gió dồi, biết ghé vào đâu? (so sánh) 
9. Thân em như tấm lụa điều 
Đã đông nơi chuộng lại nhiều nơi thương.(so sánh) 
10. Thân em như thể hoa lài, 
Hỡi người quân tử thương ai mà gầy. (so sánh)

7 tháng 3 2018

      Gánh cực mà đổ lên non
Còng lưng mà chạy cực còn theo sau.
    Đêm nằm lưng chẳng tới giường
Mong trời mau sáng ra đường gặp em.
    Bao giờ cây cải làm đình

Gỗ lim làm ghém thì mình lấy ta.