K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

2 tháng 9 2016

cái này pn có thể lên google hoặc cốc cốc để tìm kím nha ok

3 tháng 10 2016

google nhìu nhưng không nhanh bằng cốc cốc

14 tháng 8 2023

 Tham khảo: Giới thiệu về anh hùng Trương Định (Việt Nam)

Trương Định (Trương Công Định) sinh năm 1820, người xã Tư Cung, huyện Bình Sơn,  nay thuộc huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Trương Định là con của quan Thủy Vệ Uý Trương Cầm, tỉnh Gia Định. Năm 1854, hưởng ứng chính sách khẩn hoang của triều đình Huế do Nguyễn Tri Phương thi hành, ông đem hết tài sản đi chiêu mộ dân nghèo vùng Quảng Nam - Quảng Ngãi vào khai hoang lập đồn điền ở Gia Thuận, thuộc huyện Gò Công Đông ngày nay và được bổ chức Phó Quản Cơ của đồn điền.

Khi thực dân Pháp đưa quân đánh chiếm các tỉnh Đông Nam Kì của Việt Nam, Trương Định đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy kháng chiến ở Tân Hòa. Sau khi Hiệp ước Nhâm Tuất được kí kết (1862), triều đình nhà Nguyễn hạ lệnh cho Trương Định bãi binh, mặt khác lại điều ông nhận chức Lãnh binh ở An Giang, rồi Phú Yên. Nhưng được sự ủng hộ của nhân dân, ông đã chống lệnh triều đình, quyết tâm ở lại cùng nhân dân kháng chiến “bảo vệ non sông, xóm làng”.

Nghĩa quân do Trương Định chỉ huy đã anh dũng chiến đấu, tổ chức vây đánh địch tại các vùng như: Mỹ Tho, Tân An, Chợ Lớn,… Sau khi căn cứ Tân Hòa (Gò Công) rơi vào tay Pháp, trước hỏa lực mạnh của địch, Trương Định đã buộc phải cho quân rút lui về căn cứ Tân Phước để bảo toàn lực lượng. Tại căn cứ Tân Phước, Trương Định cùng quân sĩ ráo riết chuẩn bị để tổ chức phản công, thu phục lại căn cứ Tân Hòa. Giữa lúc đó, giặc Pháp có tay sai là Huỳnh Công Tấn (tên này trước theo nghĩa quân, nhưng sau đó đã đầu hàng Pháp) dẫn đường bí mật lọt vào căn cứ, bao vây Trương Định và các tùy tướng. Trong cuộc đấu súng quyết liệt vào hửng sáng ngày 20/8/1864, Trương Định không may bị trúng đạn, gãy xương sống. Không muốn để giặc bắt, Trương Định đã rút gươm tự sát để bảo toàn khí tiết.

4 tháng 9 2018

Phương Đông bước vào xã hội chiếm hữu nô lệ - xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử phát triển của nhân loại - tương đối sớm. Điều này cũng dễ hiểu. Như trên đã nói, nông nghiệp ở phương Đông ra đời sớm và giữ vai trò chủ đạo. Khi nông nghiệp phát triển thì tổ chức xã hội cũng phát triển, dẫn đến việc xã hội sớm phân hoá thành giai cấp và hệ quả là nhà nước sớm ra đời. Thời gian xuất hiện nhà nước phương Đông cổ đại sớm nhất (dưới hình thức nhà nước chiếm hữu nô lệ) là vào khoảng thế kỉ thứ IV TCN. Dĩ nhiên các nhà nước chiếm hữu nô lệ không ra đời cùng một lúc và cũng không chấm dứt cùng một lúc. Ra đời sớm nhất là nhà nước chiếm hữu nô lệ ở Ai Cập và Lưỡng Hà (thế kỉ thứ IV TCN), sau đó mới đến các nhà nước ở khu vực sông Ấn, sông Hằng và Hoàng Hà, Dương Tử (thế kỉ thứ III TCN). Về sự “lụi tàn” của các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông cũng tương tự. Nếu như đế quốc Ba Tư ở vùng Trung Cận Đông sụp đổ ngay từ thế kỉ thứ IV TCN thì nhà nước cổ đại Ấn Độ còn kéo dài mãi đến tận những thế kỉ đầu công nguyên.

6 tháng 8 2023

Thông tin về thành cổ Baku

- Thành phố Baku được xây dựng trên một ngọn đồi cao kiểu nhà hát vòng tròn La Mã với ba lớp tường thành bao quanh, mặt nước biển ở dưới chân và gối đầu lên dãy núi Caucasus.

- Tất cả các công trình xây dựng trong thành cổ này đều có chức năng phòng thủ, là biểu tượng của lòng yêu nước và là niềm tự hào lớn lao của quốc gia. Những chữ viết trên vách đá ở Absheron và Gobustan, những văn bản trên đá của August Guy Octavi nói về các doanh trại mà Hoàng đế Pompeii và Lukul thời La Mã đã cho dựng nên để chiếm đóng vùng Caucasus thế kỷ I trước Công nguyên đã khẳng định Baku có lịch sử hơn 5.500 năm tuổi.

- Baku từng là thủ phủ của nước Shirvanshahs (thế kỷ XII), nước Safavid (thế kỷ XVI), đế chế Ottoman (thế kỷ XVII) và công quốc Baku (thế kỷ XVIII). Hàng loạt công trình độc đáo bao gồm cung điện, pháo đài, đền tháp, những tàn tích của các khu nhà trọ và phòng tắm hơi... tạo nên danh sách dài di sản từ thời trung cổ của Baku.

- Năm 2000, thành cổ Baku, cùng với cung điện Shirvanshahs và tháp Maiden đã trở thành địa điểm đầu tiên ở Azerbaijan được UNESCO xếp hạng Di sản thế giới. Điểm xuyết cho những công trình cổ là những con ngõ cong hẹp cùng những căn nhà có mái bằng hoặc mái vòm, cửa sổ nhỏ khiến du khách như lạc trôi về quá khứ.

- Baku vào thế kỷ XIX và thế kỷ XX là một trong những trung tâm sản xuất dầu chính của thế giới. Dầu mỏ là thế mạnh và cũng là nguồn kinh tế chủ yếu của thành cổ Baku. Nhiều tòa nhà lớn được xây dựng hoành tráng chứng tỏ sự giàu có của thành phố này.

20 tháng 8 2017

Nói đến lịch sử văn minh nhân loại, người ta thường nghĩ đến những giá trị to lớn mà loài người đã đạt được trong thời đại ngày nay. Nhưng chúng ta cần phải nhìn nhận lại quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, ngay từ rất sớm – thời cổ đại, loài người đã bước vào xã hội văn minh của mình, chính khu vực phương Đông chứ không phải là khu vực nào khác, những thành tựu văn minh rực rỡ đầu tiên của lịch sử nhân loại đã được hình thành và phát triển rực rỡ.

Xét về vùng lãnh thổ, phương Đông ngày nay được hiểu là khu vực bao phủ toàn bộ châu Á và phần Đông Bắc châu Phi. Mặc dù khái niệm Đông phương học (Oriental Studies) xuất phát từ phương Tây song vai trò của Đông phương học nói chung, văn minh phương Đông nói riêng càng ngày càng được giới khoa học thế giới khẳng định và quan tâm. Ngày nay, xét trên nhiều góc độ như lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hoá,… phương Đông chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Nói đến phương Đông, người ta không thể không nhắc đến những nền văn hoá – văn minh nổi tiếng như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Arập, Trung Hoa, không thể không nhắc đến Nho giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Hinđu giáo và hàng loạt tín ngưỡng bản địa mang màu sắc phương Đông. Nói đến phương Đông, người ta cũng nhắc ngay đến các đại ngữ hệ như Nam Á, Nam đảo, Hán – Tạng, Thái – Kađai, Antai…; đến những công trình văn hoá kì vĩ như Ăngco Vát, Vạn lí trường thành, Borobudur, các kim tự tháp Ai Cập… Và, từ góc nhìn văn hoá – văn minh hiện đại, phương Đông còn làm cho thế giới ngạc nhiên về “sự thần kì Nhật Bản”, về hàng loạt các con rồng châu Á như Singapore, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan,… Tóm lại, phương Đông là một khu vực văn hoá-văn minh có “bản sắc” riêng cả về phương diện truyền thống lẫn hiện đại.

Vì vậy, tìm hiểu về nền văn minh phương Đông cổ đại có một ý nghĩa to lớn, giúp chúng ta hiểu rõ bản sắc văn hóa truyền thống cũng như sự phát triển của lịch sử khu vực này. Ngoài ra, nó còn mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tiến trình hội nhập của khu vực nói chung và đất nước nói riêng trong thời đại ngày nay.

NỘI DUNG

1.Văn minh phương Đông được hình thành gắn liền với các dòng sông lớn:

Một đặc điểm mà chúng ta dễ dàng nhận thấy đối với nền văn minh phương Đông thời cổ đại, như văn minh Ai Cập, văn minh Ấn Độ, văn minh Trung Quốc, văn minh Lưỡng Hà… tất cả đều hình thành trên lưu vực các con sông lớn.

Trong các nền văn minh trên thế giới, văn minh Ai Cập được hình thành sớm nhất. Văn minh Ai Cập gắn liền với cư dân sống ở hai bên bờ sông Nil. Sông Nil hay được Việt hóa thành sông Nin, là dòng sông thuộc châu Phi, một con sông dài nhất thế giới, với chiều dài 6.650 km và đổ nước vào Địa Trung Hải, nhưng phần chảy qua Ai Cập chỉ dài 700km. Miền đất đai do sống Nil bồi đắp chỉ rộng 15-25 km, phía Bắc có nơi rộng 50 km vì ở đây sông Nil chia thành nhiều nhánh trước khi đổ ra biển. Đây là dòng sông có ảnh hưởng nhất ở châu Phi, gắn liền với sự hình thành, phát triển và lụi tàn của nhiều vương quốc cổ đại, góp phần tạo dựng nên nền Văn minh sông Nin.

Sông Nil có hai nhánh chính, quan trọng nhất là sông Nil Trắng và sông Nil Xanh. Sông Nil trắng bắt nguồn từ hồ Victoria nằm giữa Uganda , Kenya và Tanzania. Sông Nil Xanh bắt nguồn từ Hồ Tana trên vùng cao nguyên của Ethiopia. Dòng Nil Xanh chảy được khoảng 1.400 km (850 dặm) tới Khartoum thì hai dòng Nil Xanh và Nil Trắng gặp nhau, hợp lưu tạo nên sông Nil. Phần lớn nguồn nước của sông Nil được cung cấp từ Ethiopia, khoảng 80-85%, nhưng chỉ về mùa hè khi những cơn mưa lớn đổ xuống vùng này. Sông Nil với nguồn nước dồi dào đã tạo nên vùng thung lũng trù phú nhất “lục địa đen”. Nó đã góp phần rất lớn tới sự hình thành nền văn minh Ai Cập cổ đại, với những kim tự tháp kỳ vĩ. Sông Nil đã ảnh hưởng lớn tới nền văn hoá Ai Cập cổ ngay từ thời đại đồ đá, khi mà sa mạc Sahara đang ngày càng xâm lấn sang phía Đông của lục địa châu Phi. Sông Nin bắt nguồn từ hồ Victoria ở khu vực xích đạo có mưa quanh năm nên lượng mưa khá lớn. Tới Khác-tum sông Nin nhận thêm nước từ phụ lưu Nin Xanh ở khu vực cận xích đạo, lưu lượng trở nên rất lớn, mùa nước lũ lên tới 90.000 m³/s; đến biên giới Ai Cập mặc dù sông Nin chảy giữa miền hoang mạc và không nhận được thêm phụ lưu nào nữa, nước sông vừa ngấm xuống đất, vừa bốc hơi mạnh, gần biển lưu lượng nước giảm nhiều nhưng ở Cai-rô (Ai Cập) về mùa cạn lưu lượng vẫn còn 700 m³/s. Phần hạ lưu sông Nil rộng lớn, giống như hình tam giác dài 700 km, hai bên bờ sông rộng từ 10 dến 50 km tạo thành một vùng sinh thái ngập nước và bán ngập nước – một đồng bằng phì nhiêu với động thực vật đa dạng và đông đúc. Hàng năm từ tháng 6 đến tháng 11, nước lũ sông Nil dâng lên làm tràn ngập cả khu đồng bằng rộng lớn và bồi đắp một lượng phù sa khổng lồ, màu mỡ. Các loại thực vật chủ yếu như: đại mạch, tiểu mạch, chà là, sen,… sinh sôi nảy nở quanh năm. Ai Cập cũng có một quần thể động vật đa dạng và phong phú, mang đặc điểm đồng bằng-sa mạc như voi, hươu cao cổ, sư tử, trâu, bò, các loài cá, chim, …

Tất cả các điều kiện thiên nhiên ưu đãi đã góp phần hình thành nền văn minh Ai Cập sớm nhất. Các ngành nghề như đánh bắt cá, nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp đều phát triển ngay từ 3.000 năm trước Công nguyên. Đặc biệt, các di sản kiến trúc đồ sộ và đạt đến một trình độ vươn lên tầm kỳ quan của thế giới như: các kim tự tháp, các kiệt tác về hội hoạ, điêu khắc và nghệ thuật ướp xác…Cũng chính vì vậy, nhà sử học Hy Lạp Hê-rô-đốt đã nói rằng: “Ai Cập là tặng phẩm của sông Nil”

Giống như văn minh Ai Cập, văn minh Lưỡng Hà cũng được hình thành gắn liền với hai con sông Euphrates ở phía Đông và Tigris ở phía Tây. Cả hai sông này đều bắt nguồn từ miền rừng núi Armenia chảy qua lãnh thổ Iraq ngày nay rồi đổ ra vịnh Ba Tư (Péc-xích). Lưỡng Hà là tên gọi của một vùng địa lý và của một nền văn minh ở nơi gồm lãnh thổ Iraq, đông Syria, đông nam Thổ Nhĩ Kỳ, và tây nam Iran hiện đại. Tên gốc của nó xuất phát từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “giữa” và “sông”, để chỉ hai vùng châu thổ sông Euphrates và sông Tigris cũng như vùng đất nằm giữa chúng.

Tigris là con sông phía đông thuộc hai con sông lớn phân định nền văn minh Lưỡng Hà, cùng với sông Euphrates (dài 2800km). Tigris chảy từ các khu vực núi của Thổ Nhĩ Kỳ qua Iraq. Sông Tigris dài khoảng 2000 km, bắt nguồn từ Dãy núi Taurus phía đông Thổ Nhĩ Kỳ và chảy theo hướng đông nam đên khi nhập vào Euphrates gần Al Qurna ở phía nam Iraq. Hai sông cùng nhau tạo ra đường thủy Shatt al-Arab chảy vào Vịnh Ba Tư. Sông Tigris có nhiều nhánh, bao gồm Diyala và thượng và hạ lưu của các sông Zab. Thủ đô Baghdad của Iraq nằm hai bờ của Tigris. Thành phố cảng Basra nằm ở tuyến đường thủy Shatt al-Arab. Trong thời kỳ cổ đại, nhiều thành phố của nền văn minh Lưỡng Hà nằm hai bên hoặc gần sông Tigris, những cư dân thời đó là lấy nước sông này để tưới nước cho những khu vực nông nghiệp của người Sumeria. Các thành phổ đáng chú ý bên sông Tigris có Nineveh, Ctesiphon, và Seleucia, còn thành phố Lagash lấy nước từ Tigris qua một con kênh từ khoảng năm 2400 TCN. Sông Tigris từ lâu đã là một con đường vận tải quan trọng ở quốc gia phần lớn là sa mạc này. Việc buôn bán qua con sông này đã giảm sút tầm quan trọng của nó trong thế kỷ 20 khi tuyến đường sắt và đường bộ đã thay thế đường thủy. Hằng năm, vào mùa xuân, băng tuyết vùng rừng núi Armenia tan ra, nước đổ vào hai con sông, làm cho mực nước dâng cao gây nên lũ lụt làm ngập cả một vung rộng lớn. Nhưng chính nhờ những trận lũ lụt ấy, đất đai ở khu vực này liên tục được phù sa bồi đắp và trở nên màu mỡ. Lượng phù sa ở đây nhiều đến nỗi, qua mấy nghìn năm, cả một vùng biển rộng lớn của khu vực này đã trở thành đồng bằng, bờ biển của vịnh Ba Tư phải lùi xa gần 200km. Cũng vì vậy, hai dòng sông Tigris và Ephrates vốn đổ ra biển bằng hai cữa sông khác nhau đã nhập lại thành một trước khi ra đến biển. Chính nhờ có đất đai phì nhiêu như vậy, nên cũng như Ai Cập cổ đại, khi công cụ sản xuất còn tương đối thô sơ, kinh tế ở đây vẫn có điều kiện phát triển; do đó đã sớm bước vào xã hội văn minh.

Nền văn minh Ấn Độ được hình thành từ khá sớm, có nguồn gốc từ nền Văn hóa Harappa và Mohenjo Daro, gọi theo địa danh của một trong những nơi khai quật chính là một nền văn minh thời Cổ đại phát triển vào khoảng thời gian từ năm 2.800 TCN đến năm 1.800 TCN dọc theo sông Ấn nằm về phía tây bắc của tiểu lục địa Ấn Độ.

Lịch sử hình thành nền văn minh Ấn Độ cũng gắn liền với sông Ấn và sông Hằng.

Sông Hằng, con sông quan trọng nhất của tiểu lục địa Ấn Độ. Sông Hằng dài 2510km bắt nguồn từ dãy Hymalaya của Bắc Trung Bộ Ấn Độ, chảy theo hướng Đông Nam qua Bangladesh và chảy vào Vịnh Bengal. Tên của sông được đặt theo tên vị nữ thần Hindu Ganga. Sông Hằng có lưu vực rộng 907.000 km2, một trong những khu vực phì nhiều và có mật độ dân cao nhất thế giới. Sông Hằng được tạo thành bởi hai con sông đầu nguồn là sông Bhagirathi và sông Alaknanda ở dãy núi Himalaya của bang Uttaranchal thuộc Ấn Độ. Nguồn nước thường được mọi người thừa nhận là Bhagirathi, một con sông bắt nguồn từ một động băng tại độ cao 4000m và là con sông nhỏ hơn trong hai chi lưu của sông Hằng. Sông Alaknanda bắt nguồn từ khu vực nằm dưới đỉnh Nanda Devi gần biên giới Tây Tạng. Được tạo thành từ những khối băng tuyết tan ra từ các địa điểm như Gangotri và các đỉnh như Nanda Devi và Kamet, hai sông nhánh này chảy về phía Nam qua trung độ Haymalaya đến nơi hội tụ của chúng để tạo nên sông Hằng. Sau khi chảy hơn 200 km (125 dặm), sông Hằng đến thành phố Haridwar, nơi nó xẻ dọc Dãy núi Siwalik và bắt đầu chảy theo hướng nhìn chung là Đông-Nam qua Đồng bằng sông Hằng. Tại Haridwar, một con đập đã chuyển hướng nước đến Kênh thượng lưu sông Hằng. Giữa Haridwar và Allahabad, một khoảng cách gần 800km (500 dặm), sông Hằng theo một đường ngoằn ngoèo và không thể lưu thông bằng tàu thuyền được do có nhiều chỗ nông và thác ghềnh. Tại Allahabad, sông Hằng được sông Yamuna chảy từ Tây Nam nhập vào, sau đó sông Hằng chảy theo hướng Đông qua các thành phố Mirzapur, Varanasi, Patna, và Bhagalpur gần biên giới với Bangladesh. Tại đoạn này, sông Hằng cũng nhận được nước đổ thêm vào từ sông Son từ phía Nam, sông Gumti, sông Ghaghra, sông Gandak, và sông Kosi từ phía Bắc. Qua Bhagalpur, sông chạy quanh dãy đồi Rajmahal tại biên giới Bangladesh. Ở đây, qua hướng Nam là Đồng bằng châu thổ sông Hằng, cách Allahabad khoảng 900 km về phía thượng lưu và cách Vịnh Bengal 450 km về phía hạ lưu. Gần Pakaur, Ấn Độ, sông Hằng chia nhánh. Nhánh Bhagirathi chảy về hướng Nam để tạo nên sông Hugli, là nhánh cực Tây của đồng bằng châu thổ, cũng như là kênh vận chuyển đường thủy chính của khu vực đồng bằng này. Các tàu biển có thể chạy vào Hugli từ cửa sông Hằng ở Vịnh Bengal đến thành phố Kolkata nằm cách cửa sông khoảng130 km phía thượng lưu. Nhánh chính của sông Hằng tiếp tục chảy qua Bangladesh, nơi có đoạn nó được gọi là sông Padma. Sông Hằng đã tạo ra nhiều nhánh sông tạo thành một mạng lưới đường thủy cũng như tạo ra một trong những đồng bằng châu thổ rộng lớn và phì nhiêu nhất thế giới. Dòng chính của sông Hằng tiếp tục chảy theo hướng Nam và được nhận thêm nước từ sông Brahmaputra đổ vào và tiếp nữa là từ sông Meghna (tên mà kể từ đoạn này nó được gọi) trước khi đổ vào Vịnh Bengal. Tại Vịnh Bengal, cửa sông Meghna có bề rộng 30km. Lưu lượng nước hàng năm của sông Hằng chỉ xếp sau sông Amazon và sông Congo. Do sông Hằng mang theo trong mình lượng phù sa lớn nên vùng đồng bằng châu thổ do nó tạo ra ngày càng tiếp tục được mở rộng. Lưu vực sông Hằng là khu vực đông dân nhất, sản xuất nông nghiệp lớn nhất và rộng lớn nhất ở Ấn Độ. Ở châu Á, chỉ có vùng Bình nguyên Hoa Bắc của Trung Quốc là có mật độ dân cư tương tự ở lưu vực này. Ở phần phía Tây của đồng bằng sông Hằng, con sông này cung cấp nước tưới và một hệt thống kênh rạch chằng chịt với các kênh huyết mạch chính là Kênh Thượng lưu sông Hằng và Kênh Hạ lưu sông Hằng. Các loại lương thực và hoa màu trồng trọt và thu hoạch ở khu vực này có: lúa, mía đường, đậu lăng, hạt có dầu, khoai tây và lúa mỳ. Hầu như cả khu vực đồng bằng sông Hằng đã bị khai hoang hết rừng cây và cỏ để phục vụ cho nông nghiệp. Thông thường, hai bên bờ sông Hằng có các vùng đầm lầy và các hồ nước. Ở các khu vực đầm lầy và các khu vực ao hồ này, người ta trồng rau, lúa, ớt, cây mù tạc, vừng (mè) và cây đay. Một số khu vực khác có rừng đước và có cá sấu sinh sống. Do sông Hằng được cấp nước từ các đỉnh núi phủ băng tuyết, lượng nước của nó vẫn giữ mức cao quanh năm và dòng sông vẫn được sử dụng làm thủy lợi thậm chí vào mùa khô và nóng từ tháng 4 đến tháng 6. Vào mùa mưa mùa Hè, lượng mưa lớn có thể gây lũ lụt hoành hành, đặc biệt là vùng đồng bằng châu thổ.

Sông Ấn Độ gọi tắt là Sông Ấn (Sindh darya), còn được biết đến như là Sindhu trong tiếng Phạn, Sinthos trong tiếng Hy Lạp, và Sindus trong tiếng Latinh, là một con sông chính của Pakistan. Trước khi diễn ra sự chia cắt Ấn Độ thành các quốc gia ngày nay là Ấn Độ và Pakistan năm 1947 thì sông Ấn là con sông lớn thứ hai sau sông Hằng khi xét về khía cạnh tầm quan trọng văn hóa và thương mại của khu vực, và nó là nguồn gốc của tên gọi của Ấn Độ. Con sông này bắt nguồn từ Tây Tạng, chảy từ dãy núi Himalaya theo hướng đông bắc-tây nam qua Kashmir, và sau đó chảy theo hướng nam gần như theo toàn bộ đường chiều dài biên giới của Pakistan với Ấn Độ nhưng sâu trong lãnh thổ của Pakistan. Chiều dài của sông này được tính toán theo các nguồn khác nhau dao động từ 2.900 đến 3.200 km. Nền văn minh lưu vực sông Ấn có một số điểm định cư dân kiểu đô thị sớm nhất thế giới. Thượng nguồn của sông Ấn nằm ở Tây Tạng; nó bắt đầu ở chỗ hợp lưu của hai sông là sông Sengge và sông Gar là các con sông tiêu nước cho các dãy núi Nganglong Kangri và Gangdise Shan. Sông Ấn sau đó chảy theo hướng đông bắc-tây nam tới Gilgit-Baltistan ở phía nam của dãy núi Karakoram, sau đó dần dần chuyển hướng theo hướng nam, ra khỏi các vùng núi ở đoạn giữa Peshawar và Rawalpindi. Nó bị đắp đập ngăn nước ở khu vực này, tạo ra hồ chứa nước Tarbela. Phần còn lại trên hành trình của nó ra tới biển là các khu vực đồng bằng của Punjab và Sind, và dòng chảy của nó bị chậm đi rất nhiều. Nó nối với sông Panjnad tại Mithankot. Chảy qua Hyderabad, nó kết thúc tại khu vực đồng bằng châu thổ lớn ở phía đông nam Karachi. Sông Ấn là một trong số rất ít sông trên trên thế giới có hiện tượng sóng cồn khi thủy triều dâng. Sông Ấn, theo lưu lượng, là “sông ngoại lai lớn nhất (dòng chảy chính của nó không chảy qua quốc gia mà nó mang tên) trên thế giới”. Nền văn minh thung lũng sông Ấn là một trong bốn nền văn minh của thế giới cổ đại, ba nền văn minh cổ đại khác là nền văn minh Lưỡng Hà (Mesopotamia), nền văn minh Ai Cập cổ đại và nền văn minh Trung Hoa. Các đô thị chính của nền văn minh thung lũng sông Ấn, chẳng hạn như Harappa và Mohenjo Daro đã ra đời vào khoảng năm 3000 TCN, và là hiện thân của những khu vực con người cư trú lớn nhất trong thế giới cổ đại.

Ngoài ra, điều kiện thiên nhiên ở Ấn Độ có nét rất đặt biệt: miền Bắc có nhiều sông ngoài và miền Nam lắm rừng nhiều núi, có núi cao và rừng già bí hiểm lại có hai dải bờ biển dài vào loại nhất trên thế giới, có sa mạc nóng cháy lại có mưa theo gió mùa. Thật lài một thiên nhiên, vừa đóng kín vừa cởi mở, vừa là một tiểu lục địa thống nhất; cách biệt với bên ngoài, vừa chia cắt và khác nhau bên trong, vừa hùng vĩ lại vừa cực kì đa dạng. Với điều kiện thiên nhiên như vậy, cùng với sự bồi đắp của sông Ấn và sông Hằng đã hình thành nên hai đồng bằng màu mỡ cho miền Bắc Ấn Độ. Vì vậy, nơi đây từ rất sớm đã trở thành một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại.

Nếu như văn minh Ấn Độ gắn liền với sông Ấn và sông Hằng thì văn minh Trung Quốc đã được hình thành trên lưu vực sông Trường Giang và sông Hoàng Hà. Trung Quốc có hàng ngàn con sông lớn nhỏ, nhưng có hai con sông quan trọng nhất là sông Hoàng Hà và sông Trường Giang (hay sông Dương Tử). Hai con sông này đều chảy theo hướng tây-đông và hàng năm đem phù sa về bồi đắp cho những cánh đồng ở phía đông Trung Quốc.

Hoàng Hà, nghĩa là “sông màu vàng”, là con sông dài thứ hai ở Trung Quốc với chiều dài 5.464 km sau sông Dương Tử. Cũng như các tên gọi khác có nguồn gốc từ Trung Quốc, tiếng Việt gọi sông này làsông Hoàng Hà, tuy nhiên về mặt ngữ nghĩa có vẻ không chính xác vì Hà đã có nghĩa là sông còn Hoàngchỉ màu vàng của nước sông này.

Hoàng Hà bắt nguồn từ dãy núi Côn Lôn ở phía tây bắc tỉnh Thanh Hải, từ độ cao 4.500m trong vùng lòng chảo Yekuzonglie nằm ở phía bắc của dãy núi Bayankara (hay Ba Nhan Khách Lạp) trên cao nguyên Thanh Tạng. Từ đầu nguồn của nó, con sông chảy theo hướng nam, sau đó tạo ra một chỗ uốn cong về hướng đông nam và sau đó lại chảy theo hướng nam một lần nữa cho đến khi tới thành phố Lan Châu, thủ phủ của tỉnh Cam Túc, là nơi mà điểm uốn cong lớn về phía bắc, bắt đầu. Con sông chảy về phía bắc qua Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ tới khu tự trị Nội Mông, đoạn cong này gọi là Hà Sáo. Sau đó con sông này lại đổi hướng, chảy gần như thẳng về phía nam, tạo ra ranh giới của hai tỉnh Thiểm Tây và Sơn Tây. Khoảng 130 km về phía đông bắc của thành phố Tây An, thủ phủ tỉnh Thiểm Tây, Hoàng Hà lại đổi hướng để chảy về phía đông. Nó chảy tới những vùng đất trũng ven biển ở miền đông Trung Quốc gần thành phố Khai Phong và chảy qua chúng về phía cửa sông của nó theo hướng đông bắc. Nó tưới tiêu cho một khu vực rộng 944.970 km vuông (364.417 dặm vuông), nhưng do tính chất khô cằn chủ đạo của vùng này (không giống như phần phía đông thuộc Hà Nam và Sơn Đông) nên lưu lượng nước của nó tương đối nhỏ. Tính theo lưu lượng nó chỉ bằng 1/15 của sông Trường Giang và 1/5 của sông Châu Giang, mặc dù khu vực tưới tiêu của con sông cuối (Châu Giang) chưa bằng một nửa của Hoàng Hà. Trong lịch sử hàng ngàn năm của Trung Quốc, Hoàng Hà vừa đem lại lợi ích vừa đem lại tai họa cho người dân, vì thế nó còn được coi là “Niềm kiêu hãnh của Trung Quốc” và “Nỗi buồn của Trung Quốc”. Các ghi chép chỉ ra rằng, từ năm 602 đến ngày nay, con sông này đã ít nhất 5 lần đổi dòng và các con đê bao bọc đã vỡ không dưới 1.500 lần. Lần thay đổi dòng năm 1194 đã phá vỡ hệ thống tưới tiêu của sông Hoài trong gần 700 năm sau. Phù sa Hoàng Hà đã ngăn chặn dòng chảy của sông Hoài và làm hàng ngàn người mất nhà ở. Mỗi lần đổi dòng nó khi thì đổ ra biển Hoàng Hải, khi thì ra vịnh Bột Hải. Hoàng Hà có dòng chảy như ngày nay từ năm 1897 sau lần đổi dòng cuối cùng năm 1855.

Hiện tại Hoàng Hà chảy qua Tế Nam, thủ phủ của tỉnh Sơn Đông và đổ ra biển Bột Hải (vịnh Bột Hải).Màu nước vàng của con sông là do phù sa mà nó mang theo. Hàng thế kỷ của việc bồi đắp và sự bao bọc của các con đê đã làm con sông này chảy ở độ cao lớn hơn so với đất nông nghiệp hai bên bờ, làm cho việc ngập lụt trở nên nguy hiểm hơn. Ngập lụt của Hoàng Hà đã gây ra sự chết chóc khủng khiếp trong lịch sử. Mặc dù vậy, sau khi nước lũ rút đi, nó đã để lại một khối lượng phù sa khổng lồ, tạo nên đồng bằng phì nhiêu, thuận lợi cho cư dân quần cư để sinh sống. Đôi khi người ta còn gọi nó làTrọc Lưu, nghĩa là dòng nước đục. Thành ngữ Trung Quốc “Khi nước Hoàng Hà trong” ám chỉ điều không bao giờ xảy ra.

Sông Dương Tử, còn có tên gọi phổ biến hơn là Trường Giang, là con sông dài nhất châu Á. Sông Trường Giang dài khoảng 6.300 km, bắt nguồn từ phía tây Trung Quốc – tỉnh (Thanh Hải) và chảy về phía đông đổ ra Đông Hải, Trung Quốc. Thông thường sông này được coi như điểm phân chia giữa hai miền Hoa bắc và Hoa nam Trung Quốc, mặc dù sông Hoài cũng đôi khi được coi như vậy. Tên gọiDương Tử nguyên thủy là tên gọi của người dân khu vực hạ lưu sông này để chỉ khúc sông chảy qua đó. Vì được phổ biến qua những nhà nhà truyền giáo châu Âu nên tên Dương Tử đã được dùng trong tiếng Anh để chỉ cả con sông (Yangtse, Yangtze Kiang). Con sông này đôi khi còn được gọi là Thủy lộ Vàng (Golden Waterway). Ngoài ra, con sông này mang nhiều tên khác nhau tùy theo khu vực mà nó chảy qua. Ở cao nguyên Thanh Tạng, Tây Tạng, nó được gọi là Vbri-chu. Ở thượng nguồn, thuộc tỉnh Thanh Hải nó được gọi là Đà Đà Hà, Đương Khúc Hà, Thông Thiên Hà. Đoạn từ Thanh Hải chảy đến Nghi Tân tỉnh Tứ Xuyên được gọi là Kim Sa Giang. Đoạn từ Nghi Tân đến Nghi Xương được gọi là Xuyên Giang . Đoạn từ Nghi Đô tỉnh Hồ Bắc đến Nhạc Dương tỉnh Hồ Nam được gọi là Kinh Giang (xưa là đất Kinh Châu). Cuối cùng, khi chảy qua khu vực Dương Châu tỉnh Giang Tô nó được gọi là Dương Tử Giang. Trường Giang là con sông lớn nhất của Trung Quốc về chiều dài, lượng nước chảy, diện tích, lưu vực và ảnh hưởng kinh tế. Trường Giang bắt nguồn từ vùng cao nguyên tỉnh Thanh Hải, chảy về hướng nam, dọc theo ranh giới cao nguyên Tây Tạng vào địa phận tỉnh Vân Nam, sau đó rẽ sang hướng đông bắc vào tỉnh Tứ Xuyên, qua các tỉnh Hồ Bắc, Giang Tây, An Huy và Giang Tô rồi đổ ra biển ở giữa Hoàng Hải và Đông Hải. Sông Trường Giang là đầu mối giao thông quan trọng của Trung Quốc. Nó nối liền Trung Hoa lục địa với bờ biển. Việc vận chuyển trên sông rất đa dạng từ vận chuyển than, hàng hóa tiêu dùng và hành khách. Các chuyến tàu thủy trên sông trong vài ngày sẽ đưa ta qua các khu vực có phong cảnh đẹp như khu vực Tam Hiệp ngày càng trở nên phổ thông hơn làm cho du lịch Trung Quốc phát triển.

Hoàng Hà và Trường Giang từ xưa thường gây ra nhiều lũ lụt, nhưng qua đó đã bồi đắp cho đất đai thêm màu mỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp khi công cụ sản xuất còn tương đối thô sơ. Chính vì vậy, nơi đây đã trở thành cái nôi của nền văn minh Trung Quốc…

Ngoài ra, nền Văn minh sông Hồng của Việt Nam ở thời cổ đại cũng được hình thành trên lưu vực các con sông như: sông Hồng, sông Mã.

Như vậy, những trung tâm văn minh lớn của phương Đông cổ đại, mặc dù thời gian xuất hiện có khác nhau nhưng cùng có chung đặc điểm vô cùng quan trọng, đó là hình thành trên lưu vực các con sông lớn.

2.Văn minh cổ đại phương Đông được hình thành trên nền nông nghiệp lúa nước

Với những điều kiện vô cùng thuận lợi, đó là: thuỷ lượng cao, khí hậu ấm áp, đất đai màu mỡ, dễ canh tác. Cho nên, ngay từ rất sớm, cư dân phương Đông đã bước vào nền văn minh nông nghiệp, chủ yếu là kinh tế nông nghiệp lúa nước. Nền kinh tế phương Đông mang nặng tính chất tự nhiên, nông nghiệp chủ đạo. Do đặc điểm của tự nhiên ở vùng sông nước, cho nên có rất nhiều đồng bằng màu mỡ, phì nhiêu, có nguồn nước dồi dào do các con sông lớn cung cấp…Do đó, nền kinh tế phương Đông có những đặc thù riêng, kinh tế tự nhiên chiếm địa vị thống trị. Hoạt động kinh tế chủ đạo là nông nghiệp, qui mô sản xuất nhỏ, gắn liền với công tác thủy lợi. Vì nông nghiệp là hoạt động kinh tế chính của phương Đông nên tư liệu sản xuất chính là ruộng đất. Không chỉ trong thời kỳ cổ đại mà trong suốt chiều dài lịch sử của các quốc gia phương Đông, vấn đề ruộng đất luôn là một vấn đề hết sức quan trọng. Kinh tế công thương ở phương Đông có phát triển nhưng rất yếu ớt, chỉ là một hoạt động kinh tế phụ hay kinh tế thứ yếu trong các gia đình nông dân. Sự phân công chuyên môn hóa giữa các ngành chưa diễn ra một cách sâu sắc, vì năng suất lao động thấp kém, kỹ thuật sản xuất lạc hậu, công cụ lao động thô sơ. Những sản phẩm của nền kinh tế phương Đông thì rất đơn điệu, chủ yếu là nông sản, lương thực thực phẩm và các nhu yếu phẩm cần thiết khác.

Bên cạnh nông nghiệp và luôn luôn đi cùng với nông nghiệp, cư dân phương Đông còn thể hiện trình độ văn minh của mình thông qua công cuộc chinh phục tự nhiên, đặc biệt là trong công tác trị thủy và làm thủy lợi. Điều kiện tự nhiên của phương Đông vô cùng thuận lợi đối với nền kinh tế nông nghiệp nhưng nó cũng đặt ra không ít những khó khăn, thách thức. Vì vậy, để có được cuộc sống ổn định lâu dài, cư dân phương Đông trong quan hệ ứng xử với thiên nhiên, phương Đông không chỉ nghiêng về hoà đồng, thuận tự nhiên mà họ còn tìm cách từng bước chinh phục tự nhiên để phục cho cuộc sống của mình.

Một trong những điều kiện thuận lợi khác của phương Đông chính là việc cư dân phương Đông đã sớm bước vào thời đại kim khí, tức là có sự xuất hiện của những công cụ lao động bằng kim khí như đồng đỏ, đồng thau và sắt. Sự xuất hiện của công cụ lao động bằng kim khí đã làm biến đổi to lớn xã hội loài người. Ngay từ thiên niên kỷ IV TCN, con người đã biết phát minh ra và sử dụng công cụ bằng đồng, đầu tiên là đồng đỏ. Vào khoảng 5500 năm trước đây, cư dân Tây Á và Ai Cập đã biết sử dụng đồng đỏ. Đến khoảng 4000 năm trước đây thì nhiều cư dân trên trái đất đã biết dùng đồng thau. Từ đồng thau, người ta đã biết chế tạo ra nhiều loại công cụ như: lưỡi cày, lưỡi cuốc, rìu, dao…Đến khoảng cuối thiên niên kỷ II, đầu thiên niên kỉ I TCN, con người đã biết chế tạo ra công cụ lao động bằng sắt-một thứ kim loại cứng và sắc hơn đồng rất nhiều. “Sắt cho phép người ta có thể trồng trọt trên những diện tích rộng lớn hơn, có thể khai hoang những miền rừng rú rộng lớn hơn; sắt khiến cho người thợ thủ công có được một công cụ cứng và sắc mà không có một loại đá nào hay một loại kim khí quen thuộc nào có thể đương đầu với nó được”. Lần đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người, trong suốt thời kỳ đồ đá, cuộc sống của con người từ chỗ sống bấp bênh, đến chỗ tìm kiếm thức ăn để nuôi sống mình và lúc này, vào buổi đầu của thời đại kim khí, sản phẩm họ làm ra không chỉ đủ ăn mà còn dư thừa thường xuyên.

Với Ai Cập, ngay từ thời kỳ sơ khai, nền nông nghiệp đã bắt đầu xuất hiện với công cụ sản xuất đều làm bằng đá, bằng gỗ, phương pháp canh tác thô sơ, lạc hậu; người ta chỉ biết xới đất lên rồi gieo hạt giống. Tuy vậy, nhờ đất đai màu mỡ nên đã được thu hoạch một cách đều đặng. Theo các văn tự cổ, thời Cổ vương quốc đã có những loại lúa mì đặc biệt ở Thượng và Hạ Ai Cập; nghề trồng nho, trồng cây ăn quả và trồng cây gai cũng được nói đến trong các văn tự cổ. Sang đến thời kỳ Tân vương quốc, nền kinh tế Ai Cập chủ yếu vẫn dựa trên sự phát triển của kinh tế nông nghiệp tưới tiêu. Ở thời kỳ này, nền nông nghiệp đã có bước phát triển mới. Bước tiến đó thể hiện trước hết trong kỹ thuật canh tác. Công cụ bằng đồng thau được sử dụng rộng rãi trong sản xuất, người ta biết dừng loại cày cán đứng có lỗ cầm và biết dùng vồ để đập đất.

Từ thời Cổ vương quốc, người Ai Cập đã biết chú trọng đến công tác thủy lợi và đã tiến hành xây dựng nhiều công trình thủy lợi có quy mô to lớn. Herodote cũng nói rằng vùng châu thổ sông Nil chằng chịt những kênh đào. Nhà nước còn đặt ra chức nông quan có nhiệm vụ trông nom các công trình thủy lợi. Ở thời kỳ Trung vương quốc, các Pharaon đã hiểu một cách sâu sắc tác dụng của các công trình thủy lợi và tầm quan trọng của việc quan sát mực nước sông Nil đối với sản xuất nông nghiệp. Vì thế, chính quyền nhà nước rất quan tâm đến công tác thủy lợi. Có quy mô to lớn nhất trong thời kỳ này là công trình sửa chữa hồ Phayum thành một bể chứa nước nhân tạo rộng lớn. Đến thời vương triều XII, người ta đã đào một con kênh dẫn nước nối từ hồ tới sông Nil dài 19 km. Sang thời Tân vương quốc, nhà nước đã cử quan Vizir lãnh đạo mọi công việc sản xuất nông nghiệp cũng như công tác thủy lợi trong cả nước.

Với Lưỡng Hà, ngay từ đầu, nền kinh tế nông nghiệp cũng khá phát triển. Do được phù sa bù đắp từ hai con sông Tigris và Euphrates, đất đai ở khu vực này rất màu mỡ, dày đặt thích hợp cho việc gieo trồng lúa mạch lúa mì. Vì khí hậu Lưỡng Hà nóng và khô nên lượng mưa hằng năm không đáng kể; do vậy nông nghiệp chủ yếu được tiến hành trên những vùng đất đã được nước sông tưới tiêu tự nhiên hay bằng sức lao động của con người. Từ xa xưa, cư dân Lưỡng Hà đã biết chăm lo đến công tác thủy lợi, đào kênh máng để tưới tiêu cho đồng ruộng. Dưới thời thống trị của vương triều III Ur, kinh tế nông nghiệp đã được phục hưng và phát triển mạnh mẽ. Công tác thủy lợi được phục hồi, sửa chữa và đào đắp thêm. Cư dân Lưỡng Hà thời kỳ này đã biết dùng gầu, guồng đơn giản để đưa nước lên cao. Việc sử dụng sức kéo của bò, ngựa cũng được phổ biến rộng rãi, diện tích canh tác được mở rộng, sản phẩm nông nghiệp phong phú. Bên cạnh ngũ cốc, chà là, người Lưỡng Hà cũng bắt đầu biết trồng và và sử dụng nho. Sang thời kỳ trị vì của vua Hammurabi, với sự xuất hiện của công cụ lao động bằng kim khí như đồng và sắt, điều này đã thúc đẩy cho nền kinh tế nông nghiệp phát triển; công tác thủy lợi được triển khai rộng, nó không chỉ là công việc của nhà nước mà đã trở thành việc của toàn dân, những điều luật trong bộ luật Hammurabi đã minh chứng cho điều ấy. Sản phẩm làm ra trong nông nghiệp không những đủ tiêu dùng mà còn được tiến hành trao đổi mua bán với các vùng lân cận, nhất là cho các bộ lạc chăn nuôi ở Xiri. Nền kinh tế nông nghiệp của Lưỡng Hà tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong thời gian trị vì của Vua Nabuchodonosor, với sự quan tâm của nhà nước phong kiến, kinh tế nông nghiệp tiếp tục giữ vị trí hàng đầu trong hoạt động kinh tế ở Tân Babylone.

Ngay từ thời tiền sử, với nền văn hóa sông Ấn, cư dân Ấn Độ đã tiến hành làm kinh tế nông nghiệp. Với điều kiện thuận lợi do sông Ấn và sông Hằng mang lại, kinh tế nông nghiệp ở Ấn Độ từng bước phát triển qua các thời kỳ lịch sử. Ấn Độ cũng là một trong những quốc gia có được nền văn minh lúa nước. Ở Ấn Độ, các vị Vua vẫn được xem là người sở hữu tối cao về ruộng đất, nhưng cũng thừa nhận hình thức chiếm hữu tư nhân. Cây lúa nước vẫn được xem là cây trồng chính của cư dân Ấn Độ. Sự xuất hiện của nàng Sita trong bộ sử thi Ramayana đã minh chứng cho điều này. Cuộc xung đột của Rama và Ranava phải chăng là sự đấu tranh trên con đường phát triển giữa cư dân nông nghiệp ở lưu vực sông Hằng với cư dân săn bắn và hái lượm trong vùng núi Vindia. Từ khi cư dân Arya định cư ở lưu vực sông Hằng, cư dân ở đây đã bắt đầu biết dùng ngựa và trồng lúa nước. Họ đã biết sử dụng công cụ lao động bằng đồng. Từ năm 800 TCN, kỹ nghệ sắt đã được áp dụng, đã thúc đẩy nghề rèn đúc kim khí, thợ mộc và thợ rèn là những tầng lớp được xã hội quý trọng. Sang thời trị trị vì của vương triều Morya, kinh tế nông nghiệp tiếp tục được phát triển, nông dân tự nhận ruộng đất của làng để tự canh tác và phải nộp từ 1/6 đến ¼ sản phẩm, tùy theo chất lượng đất và thuế được tính theo diện tích, căn cứ vào đó mà chính quyền địa phương phải thu thuế và nộp lên triều đình. Gắn liền với nông nghiệp là thủy lợi. Nhà nước hết sức quan tâm đến công tác thủy lợi, như tổ chức đào kênh, đắp đập, đê…Một viên quan thời Chandragupta được giao trọng trách đắp đập tạo nên một hồ nước gần Girnar. Đập này vẫn còn có tác dụng đến 800 năm sau. Thủy lợi là một nhiệm vụ quan trọng của quan chức địa phương và cũng là một chính sách quan trọng của nhà nước nhằm kiểm soát chính trị trên toàn lãnh thổ. Nhà nước cũng định cả mức thuế đối với nông dân nói chung và nhất là những người có sử dụng các công trình thủy lợi do nhà nước làm.

Nền kinh tế nông nghiệp lúa nước được phát triển rất mạnh mẽ trong suốt chiều dài lịch sử của Trung Quốc. Ngay từ thời nhà Hạ (khoảng thế kỷ XXI-XVI TCN), cư dân Trung Hoa cổ đại đã biết sử dụng đồng đỏ, mặc dù số lượng còn rất ít. Sang đến thời Nhà Thương (khoảng thế kỷ XVI-khoảng năm 1066 TCN), đồng thau đã được sử dụng một cách phổ biến. Thời Tây Chu, do cư dân đã tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm, nhờ việc quy hoạch đồng ruộng gắn liền với hệ thống tưới nước, sản xuất nông nghiệp đã có bước phát triển đáng kể. Tuy nhiên, nền kinh tế Trung Quốc lúc bây giờ còn mang nặng tính chất tự nhiên. Đến thời Xuân Thu-Chiến Quốc, tiến bộ nhất trong lĩnh vực kinh tế lúc bây giờ là sự xuất hiện của công cụ lao động bằng sắt. Các nhà Khảo cổ học đã phát hiện được một số đồ sắt cuối thời Xuân Thu trong một ngôi mộ cổ ở Hồ Nam mà ngày xưa là nước Sở. Thời Chiến Quốc, công cụ sắt như lưỡi cày, lưỡi cuốc, xẻng, liềm, búa được sử dụng một cách phổ biến. Họ cũng biết dùng súc vật để làm sức kéo. Bên cạnh sự xuất hiện của công cụ lao động bằng kim khí, vấn đề thủy lợi ở thời kỳ này cũng được coi trọng. Nước Ngô thời Phù Sai (thế kỷ V TCN) đã đào một hệ thống kênh nối Trường Giang với sông Hoài và nối sông Hoài với mấy con sông khác ở lưu vực sông Hoàng Hà. Đến thời Chiến Quốc, các công trình thủy lợi lớn lại càng nhiều hơn. Các nước Ngụy, Tần đều có kênh đào khá dài. Quan hệ sở hữu ruộng đất cũng có sự thay đổi. Trong giai đoạn trước, toàn bộ ruộng đất ở Trung Quốc đều thuộc quyền sở hữu của nhà nước, nhưng bắt đầu từ thời Xuân Thu, chế độ ruộng đất của nhà nước dần dần tan rã, ruộng tư đã xuất hiện ngày càng nhiều.

Xã hội phương Đông, như đã trình bày ở trên, là xã hội nông nghiệp. Nền sản xuất cổ truyền của các xã hội phương Đông về cơ bản đều là nền sản xuất nông nghiệp. Điều kiện địa lí tự nhiên của các quốc gia phương Đông nói chung đều thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp. Biểu hiện rõ nhất của các điều kiện này là sự có mặt của những con sông lớn: Sông Nil ở Bắc Phi; sông Tigris, sông Euphrates ở Tây Á; sông Ấn (Indus), sông Hằng (Gangga) ở Ấn Độ; sông Hoàng Hà, sông Dương Tử (Trường Giang) ở Trung Quốc; sông Mêcông ở bán đảo Trung – Ấn, sông Mênam ở Thái Lan, sông Hồng ở Việt Nam, v.v. Lưu vực các con sông này tạo ra những đồng bằng rộng lớn, vựa lúa của phương Đông và thế giới. Và cũng chính từ các dòng sông ấy đã xuất hiện các nhà nước cổ đại – các nền văn hoá – văn minh phương Đông. Rõ ràng không phải ngẫu nhiên mà các nhà nghiên cứu lại đưa ra các cụm từ như “văn minh sông Hồng”, “văn minh sông Mã”, “văn minh sông Ấn – sông Hằng”, v.v. Có thể nói, ngay từ đầu, văn minh phương Đông đã là văn minh nông nghiệp. Và đặc điểm này “đeo đuổi” văn hoá phương Đông cho đến tận ngày nay.

Không chỉ trong lịch sử xa xưa, ngày nay nông nghiệp vẫn phổ biến ở nhiều quốc gia phương Đông. Các nhà khoa học cho biết rằng hiện nay 90% diện tích trồng lúa trên thế giới nằm ở châu Á và sản lượng lúa gạo tại châu Á bằng 92% tổng sản lượng của thế giới. Như vậy rõ ràng là sản xuất nông nghiệp gắn chặt với các quốc gia phương Đông, và đó là cơ sở tạo ra loại hình văn hoá gốc nông nghiệp, tạo ra bản sắc nông nghiệp – nông thôn của văn minh phương Đông. Tính chất nông nghiệp – nông thôn được thể hiện ở rất nhiều bình diện văn hoá và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của các nền văn hoá phương Đông.

3. Ở phương Đông – nhà nước được hình thành từ rất sớm với thiết chế chính trị quân chủ chuyên chế

Phương Đông bước vào xã hội chiếm hữu nô lệ – xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử phát triển của nhân loại – tương đối sớm. Điều này cũng dễ hiểu. Như trên đã nói, nông nghiệp ở phương Đông ra đời sớm và giữ vai trò chủ đạo. Khi nông nghiệp phát triển thì tổ chức xã hội cũng phát triển, dẫn đến việc xã hội sớm phân hoá thành giai cấp và hệ quả là nhà nước sớm ra đời. Thời gian xuất hiện nhà nước phương Đông cổ đại sớm nhất (dưới hình thức nhà nước chiếm hữu nô lệ) là vào khoảng thế kỉ thứ IV TCN. Dĩ nhiên các nhà nước chiếm hữu nô lệ không ra đời cùng một lúc và cũng không chấm dứt cùng một lúc. Ra đời sớm nhất là nhà nước chiếm hữu nô lệ ở Ai Cập và Lưỡng Hà (thế kỉ thứ IV TCN), sau đó mới đến các nhà nước ở khu vực sông Ấn, sông Hằng và Hoàng Hà, Dương Tử (thế kỉ thứ III TCN). Về sự “lụi tàn” của các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông cũng tương tự. Nếu như đế quốc Ba Tư ở vùng Trung Cận Đông sụp đổ ngay từ thế kỉ thứ IV TCN thì nhà nước cổ đại Ấn Độ còn kéo dài mãi đến tận những thế kỉ đầu công nguyên.

Các nhà nước cổ đại phương Đông không chỉ có những đặc trưng chung của một xã hội chiếm hữu nô lệ mà còn có những đặc điểm riêng mang màu sắc phương Đông, như sau:

– Do các quốc gia cổ đại phương Đông ra đời ở thời kì mà sức sản xuất xã hội đang còn ở trình độ thấp kém, tức là ở giai đoạn cuối của thời đại đồ đá mới, nên xã hội chiếm hữu nô lệ không thể phát triển nhanh chóng, khiến các quốc gia đó, nói chung, không trở thành những xã hội chiếm hữu nô lệ phát triển thành thục và điển hình.

– Sự tồn tại dai dẳng và ngoan cố của các tổ chức công xã nông thôn, tàn tích của xã hội thị tộc thời nguyên thuỷ, và sự phát triển rất yếu ớt của chế độ tư hữu về ruộng đất trong các xã hội cổ đại phương Đông. Nói như Marx (trong thư gửi Engels ngày 2–6–1853): “Việc không có sở hữu tư nhân về ruộng đất là cơ sở của tất cả các hiện tượng ở phương Đông”. Engels cũng có nhận xét tương tự khi ông viết (trong thư gửi lại cho Marx ngày 6–6–1853): “Việc không có sở hữu tư nhân về ruộng đất thực sự là chiếc chìa khoá để hiểu toàn bộ phương Đông”.

– Sự bảo tồn lâu dài của chế độ nô lệ gia trưởng và của các hình thức áp bức, bóc lột kiểu gia trưởng, việc sử dụng lao động của nô lệ chưa được phổ cập trong các ngành sản xuất xã hội và vai trò của nô lệ trong sản xuất kinh tế chưa chiếm vị trí chủ đạo. Nô lệ phương Đông không phải là lực lượng chính làm ra của cải vật chất. Tuyệt đại đa số nô lệ được sử dụng để hầu hạ, phục dịch trong các gia đình quan lại, chủ nô quyền quý. Điều này cũng dễ hiểu bởi ở các quốc gia nông nghiệp phương Đông, nhà nước bóc lột nông dân là chính, bằng chế độ lao dịch, thuế khoá.

– Sự xuất hiện và phát triển mạnh của một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt – nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền – gọi là chủ nghĩa chuyên chế phương Đông. Các quốc gia phương Đông sở dĩ thiết lập được thiết chế chính trị này bởi vua các nước đó nắm được quyền sở hữu tối cao về ruộng đất và về thần dân trong cả nước. Có thể nói “khắp dưới gầm trời không đâu không phải đất nhà vua, khắp dưới mặt đất không đâu không phải thần dân của nhà vua”. Do nắm được tư liệu sản xuất là toàn bộ ruộng đất nên các nhà vua đã dùng nó để ràng buộc các thần dân và nắm trọn quyền chính trị. Một lí do nữa về sự tồn tại của nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền là yêu cầu của việc trị thuỷ, đắp đê phòng lụt, bảo vệ mùa màng. Nhu cầu này đòi hỏi phải tập trung quyền lực vào trung ương để có thể huy động được sức người sức của, nhân tài vật lực. Ngoài ra các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông còn phải tiến hành các cuộc chiến tranh để mở rộng bờ cõi hoặc bảo vệ lãnh thổ của mình, do đó cũng cần phải tập trung quyền lực vào tay trung ương để huy động lực lượng vật chất và tinh thần.

Căn cứ và những ngườn sử liệu còn lại, chúng ta biết rằng, ngay từ rất sớm, cụ thể là từ thiên niên kỷ IV TCN, nhà nước đã được hình thành ở Ai Cập. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi cộng với nền kinh tế nông nghiệp phát triển từ rất sớm, các liên minh công xã lần lượt xuất hiện mà người Ai Cập gọi la Nôm,ở Ai Cập lúc bây giờ có 40 Nôm (hay còn gọi là Châu). Đứng đầu Nôm là một thủ lĩnh gọi là Nomarque – tức Chúa Châu. Chúa châu đồng thời cũng là thủ lĩnh quân sự, thẩm phán và là tăng lữ tối cao của châu. Chức tăng lữ tối cao đã đem lại cho họ thêm một quyền lực rất lớn: thần quyền. Chúa châu được xem như một vị thần sống. mỗi châu có một tín ngưỡng riêng, thờ một vị thần riêng. Chiến tranh cướp bóc của cải và nô lệ, thôn tính đất đai lẫn nhau thường xuyên xảy ra giữa các châu. Ngoài ra, chiến tranh giữa các châu còn xuất phát từ những vấn đề về tôn giáo.

Do yêu cầu thống nhất để quản lý công tác thủy lợi với quy mô ngày một rộng lớn, lại cũng do nguyện vọng chấm dứt những cuộc tranh chấp lâu dài và tàn khốc nhằm thôn tính đất đai của nhau, dần dần các châu hợp nhất lại thành một quốc gia thống nhất tương đối rộng lớn. Giữa thiên niên kỷ IV TCN, các châu miền Bắc Ai Cập thống nhất thành vương quốc Hạ Ai Cập, còn các châu ở miền Nam thống nhất thành vương quốc Thượng Ai Cập. Mỗi vương quốc gồm khoảng 20 châu.

Vào khoảng năm 3200 TCN, sau một quá trình đấu tranh lâu dài, hai vùng Thượng và Hạ Ai Cập đã hợp nhất thành một quốc gia thống nhất. Người có công to lớn ấy cũng là vị Vua đầu tiên của Ai Cập chính là Menes, Ông cũng là người đặt nền móng xây dựng thành Memphis-kinh đô đầu tiên của Ai Cập. Nhà nước Ai Cập thống nhất trải qua ba thời kỳ phát triển chính: Cổ vương quốc (khoảng từ năm 3000 đến năm 2300 TCN), Trung vương quốc (khoảng từ năm 2200 đến năm 1570 TCN) và Tân vương quốc (khoảng từ năm 1570 đến khoảng thế kỷ X TCN). Ngoài ra, thời kỳ mới ra đời của nhà nước được gọi là thời Tảo kì vương quốc, thời kỳ cuối là Hậu kỳ vương quốc. Thời Tảo kì vương quốc gồm hai vương triều I và II, tồn tại từ năm 3200 đến khoảng năm 3000 TCN. Tổ chức nhà nước bây giờ còn sơ khai nhưng đã mang đặc điểm của một nhà nước chuyên chế phương Đông.

Đứng đầu bộ máy nhà nước Ai Cập là một ông vua chuyên chế, người Ai Cập gọi là Pharaon. Pharaon được xem như một vị thần sống. Quyền lực của Pharaon là tối cao và vô hạn. Bất cứ là thường dân hay là quý tộc, một được khi tiếp xúc với Pharaon đều phải quỳ lạy. Quý tộc, quan lại khi muốn tâu trình với Pharaon điều gì đều phải cúi mặt xuống sát đất, cách xa nhà Vua. Người Ai Cập coi Pharaon là “con của thần Ra”-thần Mặt Trời. Như vậy, mọi người không thể tiếp xúc với nhà Vua một cách tùy tiện. tên gọi đó một mặt phản ánh bản chất tôn giáo của các giai cấp ở Ai Cập cổ đại, mặt khác nó phản ánh quyền lực vô hạn của nhà nước quân chủ chuyên chế mà đứng đầu là nhà Vua-đã được thần thánh hóa. Với quyền lực tối cao và vô hạn, những mệnh lệnh của nhà Vua tuyên bố trong hội đồng vương quốc hay trước tòa án đều là pháp luật. Các Pharaon ở Ai Cập có chức năng tăng lữ tối cao, là thẩm phán tòa án tối cao, lãnh tụ quân sự tối cao. Như vậy, tất cả những chức vụ cao nhất, to lớn nhất của nhà nước này đều nằm trong tay nhà Vua. Nhà nước, mà người đứng đầu là Vua, là chủ sở hữu lớn nhất về đất đai, tài sản và thần dân của đất nước. Vua dùng quyền sở hữu đó để ban tặng cho thân tộc, quý tộc, quan lại, tăng lữ-những người giúp việc cho mình, để tạo ra chỗ dựa vững chắc cho mình cho chính quyền. Vì là người có quyền sở hữu tài sản lớn nhất nên cuộc sống của nhà vua rất xa hoa, lộng lẫy, phù phiếm giữa đám thân nhân hoàng tộc và đám đình thần thân tín nhất trong triều.

Cùng với tầng lớp quí tộc, quan lại, tầng lớp tăng lữ cao cấp có vai trò vô cung quan trọng trong đời sống chính trị xã hội của Ai Cập. Tăng lữ là chỗ dựa về mặt tinh thần cho cả nhà nước quân chủ chuyên chế và cả thần dân. Các tăng lữ luôn tìm cách thần thánh hóa địa vị và quyền lực của nhà Vua cho nên họ có quyền hành to lớn và được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi của nhà nước ban cho.

Đồng thời, với việc củng cố bộ máy nhà nước, củng cố quyền lực của nhà Vua, nhà nước Ai Cập còn chú trọng xây dựng và phát triển lực lượng quân đội mạnh để tiến hành chiến tranh xâm lược, cướp bóc của cải và thống trị nhân dân các nước khác. Ngoài ra, còn dùng nó để đàn áp và thống trị nhân dân trong nước.

Nhà nước Ai Cập cổ đại được coi là nhà nước quân chủ chuyên chế điển hình trong tất cả các nhà nước cổ đại ở phương Đông.

Ở Lưỡng Hà, vào cuối thiên niên kỷ IV TCN – đầu thiên niên kỷ III TCN, những quốc gia đầu tiên của người Sumer đã xuất hiện. Sự xuất hiện nhà nước đánh dấu thời kỳ tan rã của chế độ thị tộc và sự bắt đầu thời đại văn minh. Những quốc gia đầu tiên của người Sumer là quốc gia thành bang, tiêu biểu như Ur, Eridu, Lagash, Uruk, Nippua… Tiếp đến, người Akkad cũng xây dựng nên quốc gia riêng của mình. Sau khi lật đổ vương triều III của thành bang Ur , người Amorites đã xây dựng nên một quốc gia mới, chọn thành Babylonia ở trung tâm lưu vực sông Euphrates làm kinh đô. Kể từ đây, Lưỡng Hà bước vào thời kỳ phát triển hưng thịnh khá lâu dài ( từ đầu thế kỷ XIX TCN đến đầu thế kỷ XVI TCN), cường thịnh nhất là dưới thời trị vì của Vua Hamurabi (1792-1750 TCN). Lịch sử gọi thời kỳ là Cổ Babylonia để phân biệt với thời kỳ Tân Babylonia sau này. Vưong quốc Tân Babylonia phát triển thịnh trị nhất dưới thời trị trị vì của vua Nabuchodonosor (605-562 TCN).

Ngay từ thời Xume, tổ chức chính trị ở Lưỡng Hà đã được xây dựng và phát triển theo mô hình nhà nước phong kiến quân chủ chuyên chế tập quyền, quyền lực tập trung vào trong tay nhà Vua và tập đoàn thống trị trung ương. Ở thời Xume, vì tồn tại nhiều quốc gia nhỏ, đứng đầu nhà nước là một Patesi – người làm chủ – là đại diện của tầng lớp thống trị. Chức Patesi ban đầu do quý tộc bầu ra, nhưng về sau được cha truyền con nối. Chính vì vậy, các Patesi sẽ dần thâu tóm mọi quyền lực to lớn nhất, cùng với đó, dần dần Patesi được coi là đại diện tăng lữ tối cao của tầng lớp tăng lữ, là đại diện của thần thánh, là chỉ huy lực lượng quân sự của thành bang, là người quản lý kinh tế và là người sở hữu tối cao đối với đất đai và mọi tài sản của thành bang. Mặc dù nhà nước đã được hình thành và ngày càng hoàn thiện nhưng điểm nổi bật của nhà nước Lưỡng Hà thời kỳ Xume vẫn còn mang tính chất sơ khai, tồn tại nhiều tàn dư của chế độ dân chủ thị tộc, bộ lạc. Những cơ quan dân chủ của thời kỳ thị tộc, bộ lạc vẫn còn tồn tại và vẫn có quyền lực nhất định bên cạnh chính quyền chuyên chế của nhà vua. Mặt khác, sự tồn tại của các công xã nông thôn đã buộc nhà nước Xume phải thiết lập và sử dụng các cơ quan quản lý của công xã như là một bộ phận của chính quyền trong cả nước, bỡi vì, có thông qua những cơ quan công xã thì nhà nước quân chủ chuyên chế mới với tay tới các cơ quan đơn vị hành chính nhỏ nhất, mới có thể điều khiển các thành viên của công xã.

Sang thời kỳ Cổ Babylonia, xã hội Lưỡng Hà phát triển thịnh đạt dưới triều Vua Hamurabi. Đây là thời kỳ mà lãnh thổ vương quốc được mở rộng nhất, toàn bộ khu vực Lưỡng Hà là một dơn vị kinh tế chính trị rộng lớn nhất, có một chính quyền quân chủ chuyên chế tập quyền cai trị toàn quốc gia. Thời kỳ Babylonia là thời kỳ mà nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền được củng cố và phát triển hoàn thiện nhất, nhà nước Babylonia đứng đầu là vua – người có quyền lực tối cao, được các thần dân và tăng lữ thần thánh hóa. Trong bộ luật Hamurabi, quyền lực của nhà vua được thể hiện rất rõ, nó là thiêng liêng, là tối thượng, nhà vua trở thành chúa tể của cả nước. Cùng với vai trò hết sức to lớn của nhà vua, bộ máy quân chủ chuyên chế Babylonia được thiết lập đầy đủ, chặt chẽ và hoàn thiện nhất. Về hình thức, nhà nước Babylonia được chia thành hai khu vực khác nhau nên có chế độ cai trị khác. Cùng với việc củng cố bộ máy chính quyền và chính sách cai trị thích hợp, nhà vua rất quyết tâm xây dựng quân đội. Quân đội Babylonia là quân đội thường trực, do chính nhà vua chỉ huy, tướng lĩnh và quân sĩ đều được ban cấp ruộng đất, người có công được ban thưởng để khuyến khích họ nhiệt tình trong công việc của nhà nước. Quân đội Babylonia có tinh thần kỷ luật nghiêm minh, được huấn luyện chiến đấu kĩ càng nên khả năng chiến đấu rất tốt. Chính vì quân đội hùng mạnh nên nhà nước Babylonia luôn giành thắng lọi trong các cuộc chiến tranh chinh phục toàn bộ Lưỡng Hà, củng cố chính quyền nhà nước, đưa vương quốc Babylonia trở thành quốc gia thịnh trị nhất trong lịch sử Lưỡng Hà. Đặc biệt, dưới thời Hamurabi còn chế định được bộ luật thành văn hoàn chỉnh đầu tiên, được áp dụng rộng rãi và thống nhất ở Lưỡng Hà. Sự ra đời của bộ luật Hamurabi vừa phản ánh được bản chất giai cấp rõ nét của nhà nước quân chủ chuyên chế, đồng thời, nó vừa thể hiện tính chất và trình độ của bộ máy nhà nước đó trong việc cai trị quốc gia. Xét về khía cạnh lịch sử, bộ luật Hamurabi được coi là tài sản, văn kiện có giá trị bậc nhất của phương Đông và thế giới thời cổ đại.

Các thời kỳ sau đó, tuy Lưỡng Hà có nhiều biến động nhưng về cơ bản, mô hình quân chủ chuyên chế này vẫn được duy trì. Điều này chứng tỏ, thiết chế chính trị phổ biến của các quốc gia cổ đại phương Đông vẫn là quân chủ chuyên chế.

Mặc dù xuất hiện muộn hơn Ai Cập, Lưỡng Hà về mặt thời gian nhưng nhà nước cổ đại của Trung Quốc vẫn được hình thành từ khá sớm, mở đầu là triều đại nhà Hạ thiết lập vào thế kỷ XXI-XVIII TCN, nó chưa thực sự ổn định và vững chắc nhưng vẫn là một kiểu nhà nước quân chủ chuyên chế tập quyền. Thủ lĩnh liên minh các bộ lạc đã trở thành vua, ngôi vua không còn do được bầu cử của các thành viên trong bộ lạc mà đã trở thành ngôi thừa kế. Việc nối ngôi vua được xem là tất nhiên hợp với đạo lý. Để bảo vệ địa vị của nhà vua cũng như địa vị của giai cấp thống trị, nhà Hạ đã tổ chức ra những công cụ bạo lực như quân đội, nhà tù, hệ thống quan lại… Trong hệ thống hành chính, người có quyền lực cao nhất là vua.

Sau khi nhà Hạ sụp đổ, nhà Thương lên thay. Nhà Thương tồn tại trong khoảng thời gian từ thế kỷ XVII-XII TCN, bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế tập quyền đã được củng cố và phát triển vững chắc hơn, với cơ cấu tổ chức hoàn thiện hơn. Do đó, xã hội Trung Quốc dưới thời Thương đã có những bước phát triển cao hơn so với thời Hạ về tất cả các mặt: kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng…

Sang thời nhà Chu, kế thừa sự thành quả dưới thời Thương, nhà Chu đã tiến hành xây dựng và phát triển mạnh mẽ, là triều đại lớn mạnh nhất của Trung Quốc thời cổ đại. Với sự mở rộng lãnh thổ, bộ máy cai trị đã được xây dựng hoàn chỉnh và phát triển đầy đủ nhất. Người đứng đầu đất nước được gọi làThiên tử, Thiên tử cùng với các quý tộc lập ra triều đình, gồm có bá quan, chia thành hai ngành Văn và Võ rất rõ ràng. Triều đình đặt ra những chức quan phụ trách các công việc cụ thể của đất nước, hệ thống sáu bộ đã được thành lập. Chế độ “thế tộc” được xác lập. Mọi tài sản trong nước đều là của nhà vua, kể cả các t

21 tháng 8 2017

cho mik xin link

11 tháng 10 2023

Lạc Sơn Đại Phật là tượng Phật bằng đá cao nhất thế giới, bức tượng này được tạc vào vách đá Thê Loan của núi Lăng Vân, nằm ở chỗ hợp lưu của ba con sông Dân Giang, Đại Độ và Thanh Y ở miền nam Tứ Xuyên (Trung Quốc). Được UNESCO công nhận là di sản thế giới năm 1996. Chiều cao 71 mét, bức tượng đã mô tả Phật Di Lặc đang ngồi và hai tay đặt lên gối. Trải qua hơn 1000 năm lịch sử, bức tượng này vẫn giữ sức hút đặc biệt với người dân và khách du lịch, hàng năm khách du lịch đến tham quan rất đông, đây là một bức tượng lạc giữa bức tranh thiên nhiên tạo nên một khung cảnh khó quên đối với những ai từng đặt chân tới.