Soạn bài: Làng (Kim Lân)
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
I.Tác giả - tác phẩm
1. Tác giả
Kim Lân ( 1920-2007) tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Gia đình nghèo, ông chỉ được học hết bậc tiểu học rồi đi làm. Ông bắt đầu sự nghiệp viết văn năm 21 tuổi với những câu chuyện mang tính tự truyện như : "Đứa con người vợ lẽ", "Đứa con người cô đầu", "Cô Vịa"....
Kim Lân được dư luận đặc biệt chú ý khi ông đi vào mảng đề tài độc đáo tái hiện sinh hoạt phong phú ở thôn quê.
Sau cách mạng tháng Tám, ông tiếp tục làm báo, viết văn và vẫn chuyên viết truyện ngắn, chủ yếu là viết về làng quê Việt Nam - mảng hiện thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc.
Tác phẩm chính : "Nên vợ nên chồng" - tập truyện ngắn, 1955, "Con chó xấu xí"- tập truyện ngẵn 1962.
2. Tác phẩm
Truyện ngắn "Vợ nhặt" có tiền thân là tiểu thuyết "Xóm ngụ cư", tác phẩm được viết từ ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại ( 1954), Kin Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết "Vợ Nhặt"
Thông qua những hình ảnh thật xúc động, nhà văn đã vẽ lên bức tranh hiện thực xã hội nông thôn Việt Nam trong nạn đói 1945. Vẽ ra thảm cảnh, tác giả đồng thời cũng khẳng định chỉ có lòng nhan ái và sự quật khởi mới có thể giúp những người cùng khổ vượt qua tai họa ghê gớm ấy.
II. Trả lời câu hỏi
1. Tác phẩm gồm 4 đoạn chính
- Đoạn 1 : Từ đầu đến "thị vẫn ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần" : Cảnh Tràng dẫn vợ về nhà.
- Đoạn 2 : Tiếp theo đến "cùng đẩy xe bò về" : lí giải về việc Tràng nhặt vợ
- Đoạn 3 : Tiếp theo đến " nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng" : cuộc gặp gỡ giữa bà cụ Tứ và nàng dâu mới
- Đoạn 4 : Phần còn lại : buổi sáng hôm sau ở nhà Tràng
2. Truyện ngắn gây chú ý cho người đọc ngay từ nhan đề truyện - một cái nhan đề nói lên được khá nhiều về hoàn cảnh, số phận của nhân vật chính. Tên truyên ghi nhận một tình huống éo le, độc đáo, vừa bi thảm nhưng cũng lại thấm đẫm tình người, đó là tình huống Tràng lấy được vợ. Tình huống này đã gây ngạc nhiên cho cả xóm ngụ cư, cho mẹ Tràng và cho cả bản thân Tràng nữa bởi :
- Một người nghèo túng, xấu xí, dân ngụ cư (bị người làng khinh bỉ), xưa nay con gái không ai thèm để ý đến, vả lại cũng chẳng thể có tiền để lấy vợ, vậy mà bỗng dưng lại lấy được vợ, dù chỉ là "vợ theo", "vợ nhặt".
- Giữa lúc đói kém, người như Tràng đến thân mình còn không nuôi nổi lại đèo bòng vợ với con.
Chính vì thế mà khi Tràng dắt một người đàn bà lạ mặt về nhà, cả xóm ngụ cư đều ngơ ngác, không hiểu thế nào. Họ chưa thể nghĩ đấy là vợ anh và anh ta lại dám lấy vợ lúc này.
Bà cụ Tứ, mẹ Tràng còn ngạc nhiên hơn nữa khi trông thấy người đàn bà kia ở trong nhà với con mình
Đến ngay chính Tràng cũng ngạc nhiên. Thậm chí sáng hôm sau ngày có vợ, anh ta vẫn chưa hết bàng hoàng.
Đây là một tình huống oái oăm không biết nên vui hay buồn, không biết nên mừng hay lo. Mọi người đếu có tâm trạng ấy, từ những người dân xóm ngụ cư đến chính Tràng. Đặc biệt tâm trạng bà cụ Tứ đầy mâu thuẫn, vì "Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự". Bà mừng vì dù sao con mình cũng đã có vợ, một mặt lại tủi vì gặp phải lúc đói khổ này người ta mới đến lấy con mình. Bà lo lắng nhưng rồi lại động viên con và hi vọng chúng nó có thể vượt qua được cái "tao đoạn khó khăn này"
Tình huống éo le trên đã mở đầu cho sự phát triển của truyện và tác động đến diễn biến tâm trạng và hành động của các nhân vật trong tác phẩm
3. Hai chữ "vợ nhặt" đã tạo được ấn tượng, kích thích sự chú ý của người đọc. Đây không phải là cảnh lấy vợ đàng hoàng, có ăn hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt mà là một hạnh phúc do vô tình mà có, do nhặt nhạnh mà thành. Chỉ qua hiện tượng "nhặt được vợ" của Tràng, tác giả đã làm nổi bật tình cảnh và thân phận của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp 1945. Tràng "nhặt được vợ" như người ta nhặt được cái rơm, cái rác vứt ở ven đường. Cái giá của con người chưa bao giờ rẻ rúm đến vậy. Tình cảnh anh Tràng nhặt được vợ phơi bày tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo, khi mà vấn đề cái đói, miếng ăn trở thành vấn đề sinh tử, hiện thực khủng khiếp đối với con người. Miếng ăn được Kin Lân nhìn rộng ra vấn đề tình người, cái đói đẩy con người đến chỗ đường cùng, tuyệt lộ. Hạnh phúc, tình yêu dẫu nhỏ bé, mong manh, tội nghiệp nhưng hết sức đáng trọng.
4.Niềm khao khát hạnh phúc gia đình được thể hiện hết sức chân thực và sâu sắc qua nhân vật Tràng. Lúc đầu, khi có ý định đưa người đàn bà xa lạ về nhà, không phải Tràng không có chút phân vân, do dự vì anh nghĩ lúc này không biết có nuôi nổi thân mình không mà lại còn đèo bòng. Nhưng sau một thoáng do dự anh đã tặc lưỡi rồi đưa người đàn bà xa lạ về nhà. Cái quyết định và hành động thể hiện niềm khao khát hạnh phúc gia đình của người nông dân nghèo khổ này. Đây cũng là ý đồ nghệ thuật của Kim Lân : " Khi người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống, vẫn hi vọng vào tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người"
Kim Lân đã có những phát hiện tinh tế và sâu sắc về niềm khát khao hạnh phúc gia đình của nhân vật Tràng. Sự kiện bất ngờ nhặt được vợ làm thay đổi cuộc đời và số phận của nhân vật Tràng. Trên đường dẫn vợ về nhà, Tràng như đã thành một con khác: "Mặt hắn có một vẻ gì phởn phơ khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh". Trước con mắt tò mò của người dân xóm ngụ cư, người đàn bà càng thêm "ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả và chân kia", còn Tràng "lại thấy làm thích ý, cái mặt cứ vênh vênh tự đắc với chính mình". Những chính Tràng cũng không khỏi có lúc " lúng ta lúng túng , tay nọ xoa xoa vào vai kia đi bên người đàn bà". Kim Lân đã diễn tả cụ thể , vừa sinh động niềm khát khao tổ ấm gia đình và tình thương giữa những con người nghèo khổ vượt lên tất cả , bất chấp tất cả cái đói và cái chết. Đến cái buổi sáng đầu tiên có vợ , Tràng thực sự thấy cuộc đời mình đã thay đổi, anh cảm thấy " trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra", chợt nhận ra "xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi, khác lạ". Trong những giờ phút có tính chất bước ngoặt ấy, con người ta bỗng thấy mình trưởng thành. Niềm vui sướng, nỗi hạnh phúc của Tràng gắn liền với ý thức về bổn phận, trách nhiệm. Con người trở nên người hơn với những yêu thương, khát khao sâu thẳm, những ước mong gắn bó, xây đắp.
5. Bà cụ Tứ là nhân vật được xây dựng thành công nhất trong tác phẩm, thể hiện chiều sâu tư tưởng, gửi gắm thông điệp về tình yêu thương con người. Đó là hình ảnh người mẹ già nghèo khổ, bất hạnh nhưng cùng là một người mẹ giàu tình yêu thương. Tâm trạng tinh tế, phức tạp của bà cụ Tứ sau khi Tràng có vợ được Kim Lân miêu tả hết sức sinh động, khéo léo. Từ chỗ ngạc nhiên đến lo lắng, phấp phỏng, đến những day dứt, băn khoăng rồi xót thương, chua chát và cuối cùng là vui vẻ chấp thuận,...tất cả đã thể hiện tấm lòng bao dung, nhân hậu của người nghèo. Ngạc nhiên là tâm trạng đầu tiên, cũng là phản ứng tất yếu của một người mẹ quen sống lầm lũi, neo đơn. Với bà, việc Tràng dẫn người đàn bà về nhà là một việc bất thương, khác lạ, gây ra sự ngỡ ngàng, bất ngờ, đẩy bà vào thế bị động. Tràng lấy vợ là một việc trọng đại, bà ngạc nhiên bởi sự thay đổi lớn trong gia đình. Tác giả đã diễn tả sự ngạc nhiên của bà cụ qua hàng loạt những câu hỏi mà bà tự đặt ra cho mình. Bao nhiêu câu hỏi là bấy nhiêu nghi ngờ, lạ lẫm. Nhưng nỗi khổ sở, sự đói nghèo thường nhật đã thấm quá sâu vào tâm can bà, khiến bà đón nhận tin vui của con trong sự nín lặng. Hình như bà cũng chẳng biết nên vui hay nên buồn, nên cười hay nên khóc. Nỗi tủi phận, thương tâm đến sâu thẳm của số phận con người đã được Kim Lân dồn tụ trong sự câm lặng của bà cụ. Bà phải kìm nén bao nhiêu tâm sự của mình để chọn một trạng thái duy nhất. Nghệ thuật độc thoại nội tâm được sử dụng khá thành công, sau giây phút im lặng ấy, bà hiểu ra biết bao nhiêu là cơ sự. Những câu văn được biết từ nước mắt xót đau của tác giả, lời than của bà cụ là lời than của mọi kiếp người khốn khổ trong xã hội. Bao nhiêu quan niệm về bổn phận, trách nhiệm của một người mẹ được đánh thức trong bà. Bà cảm thấy mình lỗi với con, những câu bà tự nhủ giống như lời tự thú đau đớn của con người. Cái đói, cái nghèo kéo ghì số kiếp con người, làm con người phải quằn lưng, oằn xuống để gánh trả nó, nhưng đó vãn là món nợ đeo đẳng, triền miên suốt cả một đời.
Sau khi hiểu ra cơ sự, khi có thời gian để ngẫm về cuộc đời mình, bà mới khóc. Giọt nước mắt rỉ xuống trong kẽ mắt kèm nhèm là giọt nước mắt tủi thân, tủi phận khi bà ý thức sâu sắc về cuộc đời khốn khổ của mình. Giọt nước mắt trào ra như diễn tả bao nhiêu day dứt, tức tưởi, dằn vặt, lo lắng của con người. Đó là hệ quả tất yếu của sự kìm nén, nín lặng trong ai oán, xót thương ở trên, đó là những giọt nước mắt của cuộc đời tủi nhục, đau đớn. Bà quay lại nhìn người đàn bà con mình lấy làm vợ, từ tình thương cho con trai, bà chuyển sang tình thương cho con dâu. Đó là sự gặp gỡ, đồng cảm trong tâm hồn những người phụ nữ bất hạnh, bà cụ Tứ không chỉ ý thức được nỗi khổ của đời mình, của con mình mà còn biết cảm thông với nỗi khổ của người đàn bà tội nghiệp kia. Dường như có một mối dây liên hệ kì diệu giữa tâm hồn những người phụ nữ đồng cảm, trái tim họ cùng nhịp đập của những sẻ chia yêu thương, khao khát hạnh phúc. Đến đây, bà thương con trai thì ít mà tội và thương con dâu nhiều hơn. Nước mắt ròng ròng của bà cụ Tứ là nước mắt của sự đồng cảm , nỗi sẻ chia. Bà như muốn dùng nước mắt của mình để gột rửa nỗi đau thân phận mình. Tiếng khóc lúc này là sự giãi bày lòng mình, sự đi tìm những đồng cảm với các con. Cuối cùng bà chấp nhận câu chuyện Tràng lấy vợ trong sự mừng vui, hạnh phúc. Bà vẽ ra viễn cảnh tương lai cho các con : Ngăn nhà, thu dọn nhà cửa, chủ động nói chuyện vui, đãi chè khoán,.... Những ước mơ, khao khát là biểu hiện cao nhất của tình yêu con, là nỗi trăn trở xưa nay chưa được làm tròn. Niềm tin, khát vọng, sự sống vẫn được thắp sáng trong tâm hồn con người dù đã già nua, dù đã gần đất xa trời. Đây chính là dụng ý nghệ thuật sâu sắc của Kim Lân, là cái đẹp của chủ nghĩa nhân văn, là triết lí tình thương vượt lên mọi đau khổ. Hình ảnh, tâm trạng bà cụ Tứ thể hiện chiều sâu tư tưởng của Kim Lân, là nhân vật điển hình của bà mẹ Việt Nam khốn khó, bất hạnh nhưng giàu yêu thương, nhân ái
6.Đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn Kim Lân qua truyện ngắn "Vợ nhặt"
- Cách tạo tình huống truyện độc đáo, tự nhiên, kết hợp nhuần nhuyễn hai yếu tố hiện thực và nhân đạo
- Bút pháp phân tích tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc
- Nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm làm nổi rõ tâm lí của từng nhân vâtj.
- Ngôn ngữ truyện phong phú, có tính cá thể hóa, phù hợp với tính cách nhân vật
- Cách kể chuyện tự nhiên, giọng điệu chậm rãi thể hiện vốn sống, sự hiểu biết phong phú về đời sống nông thôn và người nông dân. Cách kể nhiều khi hóm hỉnh, sắc sảo nhưng vẫn đôn hậu.
- Kết cấu truyện khá đặc sắc, kết thúc mở. Kim Lân có tài sử dụng những chi tiết nghệ thuật, thể hiện sinh động tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm
Kim Lân là nhà văn có vốn sống vô cùng phong phú và sâu sắc về nông thôn Việt Nam.Các sáng tác của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người nông dân. Văn bản “Làng” đươc sáng tác vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,với nhân vật chính là ông Hai,một lão nông hiền lành,yêu làng,yêu nước và gắn bó với kháng chiến.Ông Hai là một nhân vật độc đáo mang nhiều đặc điếm chung tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp nhưng đồng thời cũng mang những đặc điểm tính cách rất riêng, rất thú vị. Ông đã trở thành linh hồn của Làng và thể hiện trọn vẹn tư tưởng của nhà văn và tác phẩm
Ông Hai cũng như bao người nông dân quê từ xưa luôn gắn bó với làng quê của mình. Ông yêu quí và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về nó một cách nhiệt tình, hào hứng. Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng,theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu.
Tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử thách. Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật. Ông cũng thường xuyên đi đọc báo để nghe tin về làng Chợ Dầu của mình. Những chiến công nho nhỏ của các anh chiến sĩ hay của các em nhỏ cũng đủ làm ông sướng rơn, cứ như thể làng mình vừa lập công vậy. Ông mong đất nước mau đến ngày thống nhất cùng như mong chóng được trở về làng.
Mọi việc làm, hành động của ông Hai đều hướng về làng. Tình yêu làng trong ông có lẽ chẳng bao giờ vơi cạn. Trong hoàn cảnh khó khăn nhất, nó càng được bộc lộ rõ hơn. Tin làng Chợ Dầu theo giặc đến với ông Hai quá đột ngột. Đột ngột vì đang lúc tâm trạng ông đang phấn chấn vì những tin kháng chiến thắng lợi ông vừa mới nghe được trong phòng thông tin. Vì vậy, cái tin làng theo giặc làm cho ông sững sờ như không tin nổi: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Tâm trạng ông đang phấn chấn chuyển thành đau xót, tủi hổ càng lúc càng dâng lên và trở thành nỗi ám ảnh ông thường xuyên. Suốt ngày ông chỉ biết ở trong nhà, không dám ra khỏi ngõ, không dám gặp mặt ai, không dám nói to… Nghe những tiếng lao xao ngoài đường, ông cũng chột dạ nghĩ người ta bàn tán đến chuyện làng mình. Tâm trạng của ông Hai lâm vào bế tắc khi hay tin mụ chủ nhà không cho gia đình ông tiếp tục trú ngụ vì không chứa những người làng Chợ Dầu theo giặc.
1. Mở bài:
- Kim Lân là nhà văn chuyên viết về cuộc sống nông thôn. - Một trong những tác phẩm của ông là truyện ngắn Làng với nhân vật chính là ông Hai - một người phải rời làng của mình để đến nơi tản cư.
2. Thân bài:
_Luận điểm 1: tình yêu làng + Luận cứ 1: niềm tự hào , kiêu hãnh của ông hai về làng của mình - Dù đã rời làng nhưng ông vẫn: + Nghĩ về làng của mình, nghĩ về những buổi làm việc cùng anh em + Lo lắng, nhớ đến làng: "Chao ôi! Ông lão nhớ cái làng này quá " + Luận cứ 2: tâm trạng của ông hai khi nghe tin làng chợ dầu đi theo giặc:
- Cổ ông nghẹn, giọng lạc hẳn đi. - Lúc đầu ông không tin nên hỏi lại. - Ông quá xấu hổ nên đã chép miệng , đánh trống lãng:"Hà, nắng gớm, về nào... " rồi cúi mặt mà đi. - Khi về nhà, ông nằm vật ra gường. Tối hôm đó thì trằn trọc ko ngủ dc. - Ông nhìn dám trẻ ngây thơ mà bị mang tiếng việt gian rổi khóc. - Ông điểm lại mọi người trong làng nhưng thấy ai cũng có tinh thần cả nên ông vẫn ko tin lại có ai làm điều nhục nhã ấy. - Lo sợ sẽ bị bà chủ nhà đuổi vì ông biết rằng nơi đây ai cũng khinh bỉ và ko chứa chấp việt gian.
+Luận cứ 3: tâm trạng ông hai sau khi nghe tin làng được cải chính - Mặt ông hai vui tươi, rạng rỡ hẳn lên. - Về nhà, ông chia quà cho lũ trẻ xong liền chạy khắp xóm để loan tin. - Ông qua nhà bác Thứ và kể chuyện làng của mình. _Luận điểm 2: tình yêu nước: - Tình yêu làng là cơ sở cho tình yêu nước. - "Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!" khi nghe các tin dân ta đánh Tây từ phòng thông tin. - Ông và con ông đều ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh (cuộc đối thoại giữa 2 cha con gần cuối bài - đoạn chữ nhỏ).
3. Kết bài
-Ông hai là một người rất rất yêu làng và yêu nước của mình.
-Hai điều trên đã dc tác giả làm rõ qua cách xây dựng nhiều tình huống truyện khác nhau, miêu tả tâm lí nhân vật qua những cuộc đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm đa dạng.
Tham khảo:
Viết về nông thôn và người nông dân là một mảng đề tài lớn trong văn học Việt Nam. Trong rất nhiều tác phẩm và tác giả thành công khi viết về đề tài này có Kim Lân và truyện ngắn Làng.
Nhà văn Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Vãn Tài, sinh năm 1920, mất năm 2007, quê gốc tỉnh Bắc Ninh. Xuất thân trong gia đình nghèo. Nhà văn Kim Lân đã qua hoạt động văn hóa cứu quốc, trong kháng chiến chống Pháp công tác ở chiến khu Việt Bắc. Từng là ủy viên Ban phụ trách Nhà xuất bản Văn học, Trường bồi dưỡng những người viết trẻ, tuần báo Văn Nghệ, Nhà xuất bản Tác phẩm mới.
Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và chủ yếu về làng quê Việt Nam. Ông thường viết về những cảnh tội nghiệp, cuộc sống khốn khó đến cùng cực của người nông dân dưới chế độ cũ, những con người của quê hương ông, thân thiết ruột thịt với ông, từ cuộc sống đói nghèo lam lũ trực tiếp bước vào tác phẩm. Sau tiếp cận với đề cương văn hóa năm 1943 của Đảng, Kim Lân viết về những người nông dân đi theo cách mạng và sự đổi đời của họ. Tác phẩm đã xuất bản: Nên vợ nên chồng (truyện ngắn, 1955); Con chó xấu xí (truyện ngắn, 1962); Hiệp sĩ gỗ, Ông cả Ngũ...
Truyện ngắn Làng được nhà văn Kim Lân viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trọn tạp chí Văn nghệ năm 1948 với nhân vật chính là ông Hai, một lão nông hiền lành, yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến.
Trong kháng chiến, ông Hai - người làng Chợ Dầu, buộc phải rời làng. Ở nơi tản cư, ông luôn nhớ và tự hào về làng mình, ông vui với những tin kháng chiến qua các bản thông tin. Ông lấy làm vui sướng và hãnh diện về tinh thần anh dũng kháng chiến của dân làng. Nhưng bất ngờ nghe tin làng ông theo giặc, từ lúc ấy, "cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân" và luôn mang nỗi ám ảnh nặng nề, thậm chí "cúi gằm mặt mà đi". Suốt mấy ngày, ông luôn chột dạ, đau đớn, tủi hổ khi nghe tin làng mình theo giặc vì ông rất yêu làng, yêu nước. Khi được tin cải chính, ông vui sướng như người đã chết đi được sống lại ông lại vui vẻ, phấn chấn và càng tự hào về làng của mình. Nội dung ý nghĩa: Qua tâm trạng đau xót, tủi hổ của ông Hai ở nơi tản cư khi nghe tin đồn làng mình theo giặc, truyện thể hiện tình yêu làng quê sâu sắc thống nhất với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến của người nông dân.
Xây dựng cốt truyện tâm lí. Cách miêu tả chân thực, sinh động tâm lý nhân vật. Trần thuật linh hoạt, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm đa dạng, tự nhiên như cuộc sống cùng với tình huống truyện đặc sắc những mâu thuẫn căng thẳng, dồn đẩy, bức bối đã góp phần không nhỏ tạo nên thành công của câu chuyện, đồng thời còn thể hiện sự am hiểu và gắn bó sâu sắc của nhà văn với người nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.
Đọc truyện ngắn Làng của Kim Lân, ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: Yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến. Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng” xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc khi viết về người nông dân của văn học Việt Nam hiện đại.
Tóm tắt:
Ông Hai là người nông dân yêu và tự hào về làng chợ Dầu của mình nhưng vì chiến tranh và hoàn cảnh gia đình nên ông phải đi tản cư. Một hôm nghe ngóng được tin làng Dầu theo Tây. Tin dữ bất ngờ, ông xúc động nghẹn lời rồi chỉ biết cúi gằm mặt xuống mà đi về. Về nhà, ông nằm vật ra, ai nói gì cũng tưởng họ bàn tán về làng mình. Khi cùng đường, ông chớm có ý định quay về làng nhưng rồi ông lại xác định “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Khi chủ tịch xã lên cải chính làng Dầu không theo Tây, ông sung sướng đi khoe với tất cả mọi người.
Bố cục:
- Phần 1 (từ đầu ...vui quá!) : Ông Hai trước khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.
- Phần 2 (tiếp ... đi đôi phần) : Tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc.
- Phần 3 (còn lại) : Tâm trạng của ông Hai khi tin làng theo giặc được cải chính.
Đọc hiểu văn bảnCâu 1 (trang 174 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Tình huống truyện : Ông Hai, một người dân làng Dầu rất yêu và tự hào về làng, vì chiến tranh mà phải đi tản cư, ông nghe được tin làng Chợ Dầu theo giặc từ chính những người tản cư đi qua.
Câu 2 (trang 174 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
- Diễn biến tâm trạng và hành động của ông Hai từ lúc nghe tin làng mình theo giặc :
+ Khi nghe tin xấu : ông sững sờ, xấu hổ, uất ức ; mặt cúi gằm xuống đất. Ông đau đớn, nguyền rủa bọn phản bội, mấy ngày không dám đi đâu. Ông quyết đoạn tuyệt với làng để đi theo kháng chiến.
+ Khi nghe tin cải chính làng Chợ Dầu không theo giặc, ông vô cùng sung sướng.
- Ông Hai đau đớn, tủi hổ khi nghe làng theo giặc vì ông rất yêu và tự hào về làng mình. Càng yêu, hãnh diện, tự hào về làng bao nhiêu thì lại càng thấy đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu.
- Tâm trạng của ông Hai được biểu hiện : ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề. Ông tuyệt giao với tất cả mọi người vì xấu hổ.
Câu 3 (trang 174 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
- Ông Hai trò chuyện với đứa con nhỏ thực chất là tự giãi bày nỗi lòng mình.
- Qua lời trò chuyện, ta thấy:
+ Tình yêu làng của ông Hai vô cùng sâu nặng.
+ Tình yêu đất nước, tấm lòng chung thủy của ông với kháng chiến, với cụ Hồ.
- Tình yêu làng quê hòa quyện với tình yêu đất nước, với kháng chiến, với cụ Hồ.
Câu 4 (trang 174 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí : chân thực, sâu sắc, sinh động
- Ngôn ngữ nhân vật : khẩu ngữ, tự nhiên, gần gũi với đời sống.
Luyện tậpCâu 1 (trang 174 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
- Phân tích đoạn văn : Ông lão náo nức...đi đôi phần.
- Biện pháp miêu tả tâm lí nhân vật: Ngôn ngữ nhân vật và nghệ thuật kể chuyện đặc sắc. Lời trần thuật và lời nhân vật có sự thông nhất. Cách kể chuyện linh hoạt, tự nhiên, gần gũi đời sống hằng ngày.
Câu 2 (trang 174 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
- Bài thơ viết về tình cảm quê hương đất nước : Quê hương (Tế Hanh)
“Làng tôi vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông”
+ Nhớ con sông quê hương (Tế Hanh) :
Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là 1 buổi trưa hè
Tỏa nắng xuống dòng sông lấp loáng
- Nét riêng của truyện Làng : thơ Tế Hanh miêu tả cảnh quê hương qua nỗi nhớ, còn Làng thiên về sự việc, về diễn biến tâm trạng nhân vật.
#Tham khảo