K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

12 tháng 6 2017

Chọn đáp án: A

30 tháng 1 2016

Mô-li-e (1622 – 1673) sinh trưởng ở Pa-ri, trong một gia đình buôn bán giàu có. Cha là một thương gia nổi tiếng, sau được phong một chức quan nhỏ hầu cận nhà vua. Người cha muốn con trai kế tục chức vị của mình nhưng Mô-li-e từ chối và hăm hở bước vào lĩnh vực nghệ thuật sân khấu. Sau này, ông trở thành nhà biên kịch lớn của châu Âu thế kỉ XVII và là người sáng lập ra nền hài kịch cổ điển Pháp.

 

Trưởng giả học làm sang là một vở hài kịch năm hồi, có xen những màn ca múa phụ họa nên gọi là vũ khúc hài kịch. Nội dung tóm tắt như sau:

 

Giuốc-đanh tuổi ngoài bốn mươi, thuộc tầng lớp thị dân phong lưu, giàu cổ. Nhờ bố mẹ ngày trước làm nghề buôn len dạ tích luỹ được khá nhiều tiền nên giờ đây, Giuốc-đanh muốn trở thành quý tộc để được bước chân vào xã hội thượng lưu. Bắt chước những người cao sang, lão thuê thầy về dạy cho mình đủ các môn như âm nhạc, kiếm thuật, triết lí và cả cách ăn mặc, nói năng… Giuốc-đanh mù quáng và nhẹ dạ đã bị lừa bịp một cách dễ dàng bởi các ông thầy rởm, bác phó may vụng về nhưng ba hoa, chú thợ phụ lẻo mép và cả gã bá tước sa sút Đô-răng-tơ. Vì muốn trở thành quý tộc nên Giuốc-đanh đã nhờ Đô-răng-tơ mai mối làm quen với bà hầu tước Đô-ri-men (chính là tình nhân của gã). Giuốc-đành từ chối gả con gái là Luy-xin cho Clê-ông chỉ vì chàng không phải dòng dõi quý tộc. Cuối cùng, nhờ mưu mẹo của nữ đầy tớ Cô-vi-en, Clê-ông cải trang làm hoàng tử Thổ Nhĩ Kì đến cầu hôn Luy-xin và đã được Giuốc-đanh vui vẻ chấp thuận.

 

Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục là lớp kịch kết thúc hồi Il của vở kịch Trưởng giả học làm sang. Có thể tóm tắt nội dung lớp kịch này như sau:

 

Giuốc-đanh dốt nát, quê kệch lại muốn học đòi làm sang nên đã bị nhiều kẻ lợi dụng moi tiền, cảnh Giuốc-đanh mặc lễ phục là một biểu hiện của thói học đòi lối ăn mặc sang trọng của quý tộc. Lão ta đã bị bọn thợ may lợi dụng. Tác giả đã khắc họa sinh động, tài tình, làm nổi bật tính cách lố lăng của một gã trọc phú thừa tiền rửng mỡ. Chân dung hài hước của Giuốc-đanh đã gây ra những trận cười sảng khoái cho khán giả. Màn kịch thể hiện thái độ châm biếm, đả kích và phê phán mạnh mẽ của Mô-li-e đối với giai cấp tư sản hãnh tiến đương thời.

 

Trong lớp kịch này, Mô-li-e sử dụng hai kiểu ngôn ngữ là ngôn ngữ trực tiếp của nhân vật và ngôn ngữ kể chuyện của tác giả.

 

Ngôn ngữ trực tiếp có khi là lời đối thoại giữa các nhân vật với nhau. Ví dụ như Giuốc-đanh đối đáp với bác phó may về đôi bít tất lụa hay về đôi giày quá chật, về chiếc áo may ngược hoa… Cũng có khỉ là lời độc thoại như đoạn Giuốc-đanh tự nói với mình. Đoạn kể về cảnh bác phó may và bọn thợ phụ mặc lễ phục cho Giuốc-đanh là ngôn ngữ kể chuyện. Trong kịch nói thì đối thoại là ngôn ngữ chính, qua đó làm nổi bật tính cách nhân vật.

 

Màn kịch có hai cảnh: trước và sau khi Giuốc-đanh mặc lễ phục.

 

Cảnh một diễn ra tại phòng khách nhà Giuốc-đanh với ba nhân vật: Giuốc- đanh, bác phó may và một tay thợ phụ vừa mang bộ lễ phục đến nhà. Tính cách học đòi làm sang của Giuốc-đanh bộc lộ rất rõ qua cuộc đối thoại giữa lão ta và bác phó may về bộ lễ phục, đôi bít tất, đôi giày, bộ tóc giả và lông đính mũ. Người nghe bật cười trước những lời nói, sự việc, hành động trái ngược giữa bác phó may ranh ma và lão Giuốc-đanh khờ khạo.

 

Khi Giuốc-đanh tỏ ý sốt ruột vì bộ lễ phục may mãi chưa xong và cằn nhằn: Tôi sắp phát khùng lên vì bác đấy thì bác phó may láu cá lại viện cớ rằng vì bộ lễ phục này quá cầu kì nên vừa khó làm, vừa tốn công: Tôi không làm sao đến sớm hơn được, ấy là tôi đã cho hai chục chú thợ phụ xúm lại làm bộ lễ phục của ngài đấy.

 

Giuốc-đanh than phiền là đôi bít tất lụa bé quá, lão phải khổ sở vô cùng mới xỏ chân vào được và đã đứt mất hai mắt rồi thì bác phó may lại lí sự cù cưa theo kiểu thợ may, thợ giày rằng rồi nó giãn ra thì lại rộng quá ấy chứ. Lúc này, Giuốc-đanh vẫn tỉnh táo. Biết bác phó may cãi bừa nên lão mới bóng gió rằng: nếu các mắt của bít tất cứ đứt mãi thì sẽ rộng thật, nghĩa là sẽ rách toang không dùng được nữa.

 

Giuốc-đanh cự bác phó may về đôi giày chật cứng làm cho lão đau chân ghê gớm, bác thợ may khăng khăng phủ nhận: Không, đôi giày không làm ngài đau đâu mà. Giuốc-đanh quả quyết: Tôi, tôi bảo là nó làm tôi đau. Bác phó càng cãi hăng, lời lẽ thật khôi hài: Ngài cứ tưởng tượng ra thế… Giuốc-đanh cố dồn bác phó may vào chân tường: Tôi tưởng tượng ra thế vì tôi thấy thế. Bác này lí luận hay nhỉ!

 

Người xem đều thấy rõ Giuốc-đanh rất tỉnh táo và lời nói sắc bén của ông ta dường như đã làm cho bác phó may đuối lí.

 

Qua cuộc đối thoại này, chúng ta thấy cái đúng của Giuốc-đanh là ông ta lấy chính đôi chân của mình làm thước đo nên vẫn phân biệt được đúng sai (giày, tất đều quá chật làm cho chân bị đau). Tuy vậy, Giuốc-đanh lại dễ bị người khác điều khiển, chi phối vì không có lập trường vững vàng. Nghệ thuật gây cười bắt đầu từ đó. Đương nhiên là lão Giuốc-đanh làm sao thắng được miệng lưỡi dẻo quẹo của bác phó may.

 

Để gỡ thế bí, bác phó liền giới thiệu về bộ lễ phục vừa may xong với Giuốc- đanh. Đây là cách đánh trống lảng, tránh né thật tài tình: Thưa, đây là bộ lễ phục đẹp nhất triều đình và may vừa mắt nhất. Sáng chế ra được một bộ lễ phục trang nghiêm mà không phải màu đen thật là tuyệt tác. Tôi thách các thợ giỏi nhất mà làm nổi đấy.

 

Nhưng sự khoác lác của bác phó không lừa nổi Giuốc-đanh khi lão ta phát hiện ra chuyện động trời: Thế này là thế nào? Bác may hoa ngược mất rồi!

Thợ may nào mà chẳng hiểu được điều tối thiểu là vải hoa thì phải may cho hoa hướng lên trên. Nhưng phản ứng của Giuốc-đanh cũng chỉ dừng đến đấy. Bác phó may ranh mãnh chống chế: Nào ngài có bảo là ngài muốn may hoa xuôi đâu!

 

Giuốc-đanh không chấp nhận điều vô lí ấy và vặn lại:

 

– Lại cần phải bảo may hoa xuôi ư?

 

Câu chống chế của bác phó may làm cho Giuốc-đanh nửa tin nửa ngờ. Bác phó tinh ý nhận thấy sự dao động của lão nên tấn công tiếp:

 

– Vâng, phải bảo chứ. Vì những người quý phái đều mặc như thế này cả.

 

Để được làm “quý tộc”, quan trọng nhất là phải có bộ lễ phục sang trọng. Thế mà bác phó lại may, lễ phục cho Giuốc-đanh bằng vải hoa, tệ hơn nữa là may hoa ngược. Giuốc-đanh bực mình lắm nhưng chỉ cần nghe bác phó khẳng định như đinh đóng cột rằng những người quý phái đều mặc như thế này cả thì vội vàng bằng lòng ngay vì đang khoái làm… quý tộc. Cho nên, lão chỉ hỏi lại bác phó may tinh khôn bằng giọng của kẻ ngờ nghệch đáng thượng:

 

– Những người quý phái mặc áo ngược hoa ư?

 

Người xem nhận ra lí sự của bác phó may rõ ràng là vụng chèo khéo chống, cố tình lừa bịp Giuốc-đanh. Bác phó may thấy mình đã thắng liền nói thêm một câu tỏ vẻ hờn dỗi là nếu Giuốc-danh không Ưng ý thì bác sẽ đổi lại chiều hoa cho đúng. Giuốc-đanh vì nôn nóng muốn làm quý tộc nên đầu óc bỗng mất sáng suốt, đúng hóa thành sai, rối tinh rối mù, vội khen rối rít:

 

– Ồ! Thế thì bộ áo này mạy được đấy.

 

– Nếu ngài muốn thì tôi xin may hoa xuôi lại thôi mà.

 

Giuốc-danh hoảng hốt, xua tay, lắc đầu lia lịa:

 

– Không, không.

 

Bác phó tiếp tục vờn Giuốc-đanh như mèo vờn chuột:

 

– Xin ngài cứ việc bảo.

 

Đến dây thì Giuốc-đanh đã sa bẫy một cách nhẹ nhàng mà không biết và lại càng tỏ vẻ cương quyết:  

 

– Tôi đã bảo không mà. Bác may thế này được rồi. Bác cho rằng tôi mặc áo này có vừa vặn không?

 

–  Còn phải nói! Tôi đố họa sĩ nào lấy bút mà vẽ hầu ngài bộ áo vừa khít hơn được. Ở nhà tôi có một chú thợ phụ may quần cộc thì tài nhất thiên hạ; và một chú khác là anh hùng của thời đại về may áo chẽn đấy.

 

– Bộ tóc giả và lông đính mũ có được chững chạc không?

 

– Chững chạc tuốt!

 

Sự đắc ý của Giuốc-đanh lên tới tột độ khi tin rằng mình đã có được bộ lễ phục đúng mốt quý tộc (!) Điều ấy làm cho lão ta sẵn sàng bỏ qua những chuyện vặt vãnh trước đó. Đến bộ tóc giả và lông đính mũ thì lão cũng chỉ hỏi qua loa lấy lệ.

 

Đoạn này có kịch tính rất cao. Bác phó may đang ở thế bị động (bị Giuốc- đanh phát hiện là may ngược hoa), đột ngột chuyển sang thế chủ động, tấn công đối phương bằng hai đề nghị liên tiếp: Nếu ngài muốn thì tôi sẽ xin may hoa xuôi lại thôi mà và Xin ngài cứ việc bảo. Thế là Giuốc-đanh sợ, cứ lùi mãi. Lão ta sợ là phải vì nếu bác phó nổi cơn tự ái may hoa lại cho đúng hướng thì còn gì là quý tộc nữa? Cho nên lão vội hỏi bác phó may rằng liệu bộ lễ phục lão mặc có vừa vặn không.

 

Điều đáng buồn cười thứ nhất là lễ phục của giai cấp quý tộc châu Âu trước kia thường được may bằng loại vải tốt, đắt tiền, màu đen. Còn bác phó lại may lễ phục cho Giuốc-đanh bằng vải hoa, thứ vải chỉ để dùng may váy áo cho phụ nữ hoặc trẻ con.

 

Điều đáng buồn cười thứ hai là vải hoa thì đương nhiên phải may bông hoa hướng lên trên, nhưng bác phó chẳng biết là do vụng hay do cố tình biến Giuốc-đanh thành trò cười cho thiên hạ nên đã may hoa chúc xuống phía dưới. Giuốc-đanh phát hiện ra điều đó nhưng chỉ cần bác phó may bịa ra chuyện những người quý phải đều mặc như thế này cả là lão chấp nhận ngay.

 

Sau đó, Giuốc-đanh tiếp tục phát hiện ra bác phó may ăn bớt vải của mình khi may bộ lễ phục trước nên lấy lại thế chủ động và trách bác ta. Bác phó may chống đỡ khéo léo: Chẳng là thứ hàng đẹp quá nên tôi đã gạn lại một áo để mặc và gỡ thế bí bằng cách hỏi Giuốc-đanh có muốn mặc thử bộ lễ phục mới không. Bác phó may tinh quái láu lỉnh đã đánh trúng tâm lí Giuốc-đanh đang nôn nóng muốn thành “quý tộc”để phớt lờ chuyện ăn bớt vải của mình:

 

– Mời ngài mặc thử bộ lễ phục chứ ạ.

 

– Ừ, đưa đây tôi .

 

– Khoan đã, không thể mặc như thế được. Thứ áo này phải mặc đúng thể thức, tôi có đem người đến để mặc hầu ngài theo nhịp điệu, ơ này! Vào đây, các chú. Các chú hãy mặc bộ lễ phục này hầu ngài theo cách thức mặc cho các nhà quý phái.

 

Mô-li-e chuyển tiếp từ cảnh trước sang cảnh sau rất tự nhiên và hợp lí. Nếu ở cảnh thứ nhất, bác phó may ranh mãnh đã tránh né rất thành công những sai sót của mình bằng chính sự nôn nóng học đòi làm sang của Giuốc-đanh thì ở cảnh thứ hai, chú thợ phụ láu cá đã kiếm được khá nhiều tiền nhờ đánh trúng vào tâm lí khao khát danh vọng hão huyễn của lão trưởng giả.

 

Khác với thủ đoạn của bác phó may là vụng chèo khéo chống, chú thợ phụ đã dùng mánh khoé nịnh hót và tâng bốc là chính. Khi vừa mặc xong bộ lễ phục cho Giuốc-đanh, gã thợ phụ muốn xin tiền uống rượu nên khúm núm tôn xưng lão là ông lớn. Giuốc-đanh giật mình vì lần đầu tiên trong đời được gọi là ông lớn. Lão chưa dám tin ở tai mình, không biết có phải là nghe nhầm hay không nên hỏi lại cho chắc chắn. Chú thợ phụ lại càng tỏ vẻ lễ phép hơn: Bẩm, ông lớn ạ. Điều đó khiến cho Giuốc-đanh sướng lắm và cứ tưởng rằng hễ mặc lễ phục vào là nghiễm nhiên trở thành quý tộc: Ấy đấy, ăn mặc theo lối quý phái thì thế đấy! Còn cứ bo bo giữ kiểu cũ quần trưởng giả thì đời nào được gọi là “ông lớn”. Giuốc-đanh phóng thưởng cho chú thợ phụ: Đấy, ta thưởng về tiếng "ông lớn” đây này. Thấy lão đã mắc mưu, tay thợ phụ tiếp tục tâng bốc lão lên tận mây xanh, hết gọi là ông lớn, cụ lớn, rồi đến đức ông. Chúng ta hãy lắng nghe lời đối thoại giữa chú thợ phụ và con người mắc bệnh ảo tưởng Giuốc-đanh:

 

– Bẩm ông lớn, xin ông lớn ban cho anh em ít tiền uống rượu.

 

–  Anh gọi ta là gì?      

 

–  Bẩm, ông lớn ạ.  

–  Ông lớn ư? Ấy đấy, ăn mặc theo lối quý phái thì thế đấy! Còn cứ bo bo giữ kiểu áo quần trưởng giả thì đời nào được gọi là “ông lớn”. Đây, ta thưởng về tiếng "ông lớn” đây này!

 

–  Bẩm cụ lớn, anh em chúng tôi đội ơn cụ lớn lắm lắm.

 

–  “Cụ lớn", Ồ, ồ, cụ lớn! Chú mày thong thả tí đã. Cái tiếng “cụ lớn” đáng thưởng lắm. “Cụ lớn” không phải là một tiếng tầm thường đâu nhé. Này, cụ lớn thưởng cho các chú đây.

 

–  Dám bẩm đức ông, anh em chúng tôi sẽ đi uống rượu chúc sức khỏe đức ông.

 

–  Lại “đức ông" nữa! Hà hà! Hà hà! Các chú hãy đợi tí, đừng đi vội. Ta là đức ông kia mà! (nói riêng) Của đảng tội, nếu nó tôn ta lên bậc tướng công, thì nó sẽ được cả túi tiền mất. Đây nữa này, thưởng cho chú về tiếng “đức ông” đấy nhé.

 

–  Dạ, bẩm đức ông, anh em chúng tôi xin bái tạ ơn Người.

 

Chú thợ phụ quả là có cái mũi rất tinh, đánh hơi được miếng mồi béo bở: kẻ thích nịnh có cả một túi tiền to. Túi tiền ấy kích thích chú nghĩ ra cách khéo léo moi tiền của Giuốc-đanh. Chú tinh khôn leo thang từng nấc một, biết kiềm chế để cho kẻ hám danh kia có thời gian tận hưởng sung sướng, vì cứ sướng là lão lại thưởng tiền. Giuốc-đanh không tiếc tiền vì đang khao khát danh vọng và dù có biết tỏng sự tôn vinh ấy là giả tạo đi chăng nữa thì lão vẫn cứ thích mê. Danh vọng ảo nhưng tiền bỏ ra mua lại là tiền thật. Chú thợ phụ chỉ cần tiền nên chẳng tội gì mà ngưng nịnh hót.

 

Nhân vật Giuốc-đanh là nạn nhân, là trò đùa của lũ người lừa bịp, vậy mà lão lặi cứ tưởng mình thực sự đã thành quý tộc. Chỉ cần tỉnh táo một chút thôi là lão sẽ nhận ra mọi cái tên mĩ miều, kêu như chuông mà chú thợ phụ hào phóng gọi từ nãy đến giờ chỉ là hão huyền, giả dối.

 

Vậy tại sao Giuốc-đanh đang từ chỗ tỉnh táo bỗng nhiên lại rời vào tình trạng mất sáng suốt như thế? Thì ra lão đang chìm ngập trong ảo giác quý tộc, đang quay cuồng giữa vầng hào quang lóa mắt của hư danh. Những đại từ nhân xưng trang trọng thường dùng trong giới thượng lưu như: ông lớn, cụ lớn, đức ông đã được chú thợ phụ tinh quái dùng để lừa những kẻ trưởng giả thích học làm sang như Giuốc-đanh. Cái “tài” của chú thợ phụ chính là ở chiến thuật “câu nhử” con mồi. Sự thật là dù có thuộc hạng quý tộc hẳn hoi đi nữa thì cũng chẳng bao giở có sự thăng Cấp liên tục chỉ trong phút chốc như thế. Ấy vậy mà chú ta “bốc” Giuốc-đanh lên vùn vụt đến chóng mặt, hỏi làm sao mà Giuốc-đanh không sướng mê tơi? Hai lần đầu, nghe gã thợ phụ tâng bốc gọi mình là ông lớn, rồi cụ lớn, Giuốc-đanh ngỡ ngàng vì lạ lùng và khoái chí. Lần thứ ba, được tôn vinh là đức ông thì Giuốc-đanh chóang váng như vừa nốc một li rượu mạnh, đầu óc quay cuồng, lâng lâng bay trện chín tầng mây. Nhưng sau đó thì lão có phần hổi tỉnh và nghĩ đến túi tiền. Lão sáng suốt lại chăng? Quả có thế! Nhưng dù có tự dặn mình là đừng quên cái túi tiền mỗi lúc một với sau những lần được tôn vinh, xưng tụng; nhưng lão trót đâm lao thì phải theo lao. Vả lại, tội gì mà kìm nén niềm sung sướng tột đỉnh đâu phải lúc nào cũng dễ dàng bỏ tiền ra mà mua được?

 

Thấy chú thợ phụ dừng lại, không tôn vinh mình lên đến bậc tướng công, Giuốc-đanh lắm bẩm: Nó như thế là phải chăng, nếu không ta đến mất tong cả tiền cho nó thôi! Qua câu nói đó, ta thấy khao khát học đòi làm sang ở lão trưởng giả này là vô cùng mãnh liệt. Lão sẵn sàng tốn kém rất nhiều tiền để được làm sang, tức là để giống như tầng lớp quý tộc thượng lưu trong xã hội đương thời. Một điều người xem dễ nhận thấy là Giuốc-đanh vẫn biết phân biệt đúng sai nhưng hư danh quý tộc đã khiến cho lão quên mất thực tại. Vì ảo tưởng nên lão đã để cho kẻ xấu lừa bịp và biến thành trò cười.

Lão Giuốc-đanh trọc phú dốt nát chỉ vì thói học đòi làm sang mà bị bác phó may và chú thợ phụ lợi dụng để kiếm chác. Người xem bật cười khi thấy lão tin rằng phải mặc áo ngược hoa thì mới là quý phái và cứ moi mãi tiền ra thưởng cho tay thợ phụ để mua lấy mấy cái tên gọi hão huyền.

 

Khán giả cười đến vỡ rạp khi được tận mắt chứng kiến cảnh Giuốc-đanh bị bốn tay thợ phụ lột quần áo ra, mặc cho bộ lễ phục lố lăng, màu sắc lòe loẹt, lại may ngược hoa và lão vừa mặc vừa nhún nhảy theo điệu nhạc. Lão đang sung sướng đến mê mẩn vì tưởng rằng mình đã trở thành một quý tộc chính tông (!).

 

Mô-li-e là nhà soạn kịch tài ba, tên tuổi ông sáng chói trong lịch sử sân khấu thế giới. Ông đã xây dựng thành công nhiều nhân vật điển hình, tiêu biểu cho tầng lớp giàu có thừa tiền rửng mỡ, học đòi làm sang. Có thể nói thái độ châm biếm, đả kích của Mô-li-e đối với giai cấp tư sản hãnh tiến được thể hiện rất rõ trong vở hài kịch xuất sắc này. Tính cách lố lăng, rởm đời của Giuốc-đanh vừa có đặc điểm riêng, vừa mang tính xã hội rất cao. Nhân vật này đã vượt khỏi giới hạn là tác phầm của một thời (thế kỉ XVII) trong nền văn chương Pháp để trở thành hình tượng nghệ thuật độc đáo, mang tính khái quát muôn đời.

 

Vở hài kịch Trưởng giả học làm sang là lời cảnh báo cho những kẻ bị tha hóa về nhân cách, hoang tưởng về mình, ham thích những thứ mình không thể có và không nên có.

 

Đoạn văn sau sử dụng các phương thức biểu đạt nào?“Hình như các bạn vẫn cho rằng ăn mặc như thế mới tỏ ra là người “văn minh”, “sành điệu”. Và có lẽ các bạn vẫn tưởng rằng sự “sành điệu”, “văn minh” ấy sẽ làm cho mình trở thành con người “thức thời” hơn, “hiện đại” hơn. Những bộ quần áo ấy sẽ làm cho các bạn có thể hãnh diện ngẩng cao đầu trước mọi...
Đọc tiếp

Đoạn văn sau sử dụng các phương thức biểu đạt nào?

“Hình như các bạn vẫn cho rằng ăn mặc như thế mới tỏ ra là người “văn minh”, “sành điệu”. Và có lẽ các bạn vẫn tưởng rằng sự “sành điệu”, “văn minh” ấy sẽ làm cho mình trở thành con người “thức thời” hơn, “hiện đại” hơn. Những bộ quần áo ấy sẽ làm cho các bạn có thể hãnh diện ngẩng cao đầu trước mọi người. Nhưng các bạn có nhớ lớp kịch Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục mà chúng ta mới học không? Cái ông trưởng giả Giuốc-đanh kia hăm hở đặt may lễ phục, vì ông ta tưởng rằng hễ mặc được một bộ lễ phục quý tộc là mình sẽ có ngay cái sang của nhà quý tộc, còn “cứ bo bo giữ kiểu áo quần trưởng giả thì đời nào được gọi là ông lớn”. Nhưng do không biết thế nào mới đúng là sang trọng, ông Giuốc-Đanh đã biến mình thành trò cười với bộ quần áo may hoa lộn ngược và ngắn cũn cỡn (vì bị ăn bớt vải). Ông ta còn bị đám thợ phụ lột cả cái áo ngắn lẫn chiếc quần cộc mặc khi tập kiếm. Vậy thì sự sang trọng, cả sự “sành điệu”, “văn minh” nữa, có phải là được làm nên nhờ vào việc đua theo “mốt” này “mốt” nọ đâu!”

A. Tự sự

B. Miêu tả

C. Nghị luận

D. Cả A, B, C

1
8 tháng 12 2018

Chọn đáp án: D

Chỉ ra thán từ trong các câu dưới đây.a) Đột nhiên lão bảo tôi:- Này ! Thằng cháu nhà tôi, đến một năm nay, chẳng có giấy má gì đấy, ông giáo ạ!À! Thì ra lão đang nghĩ đến thằng con lão.b) – Con chó là của cháu nó mua đấy chứ!... Nó mua về nuôi, định để đến lúc cưới vợ thì giết thịt…Ấy! Sự đời lại cứ thường như vậy đấy. Người ta định rồi chẳng bao giờ người ta làm...
Đọc tiếp

Chỉ ra thán từ trong các câu dưới đây.

a) Đột nhiên lão bảo tôi:

- Này ! Thằng cháu nhà tôi, đến một năm nay, chẳng có giấy má gì đấy, ông giáo ạ!

À! Thì ra lão đang nghĩ đến thằng con lão.

b) – Con chó là của cháu nó mua đấy chứ!... Nó mua về nuôi, định để đến lúc cưới vợ thì giết thịt…

Ấy! Sự đời lại cứ thường như vậy đấy. Người ta định rồi chẳng bao giờ người ta làm được.

c) – Vâng! Ông giáo dạy phải! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng.

d) Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn […].

e) Hỡi ơi lão Hạc! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều như ai hết…

1
20 tháng 1 2018

Thán từ trong trích đoạn văn bản Lão Hạc (Nam Cao):

Câu 1. Đọc đoạn văn sau đây“Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố mà hiểu họ, thì ta chỉthấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi.... toàn là những cớ để cho ta tàn nhẫn;không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương.... Vợ tôikhông ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có bao giờ quên được cái chân đaucủa...
Đọc tiếp

Câu 1. Đọc đoạn văn sau đây
“Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố mà hiểu họ, thì ta chỉ
thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi.... toàn là những cớ để cho ta tàn nhẫn;
không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương.... Vợ tôi
không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có bao giờ quên được cái chân đau
của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn
nghĩ tới ai được nữa. Cái bản tính tốt đẹp của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích
kỉ che lấp mất. Tôi biết vậy nên chỉ buồn chứ không nỡ giận.”
Đoạn văn trên chủ yếu nói lên điều gì về nhân vật ông giáo?
A. Bênh vực, bao che đối với hành động từ chối giúp đỡ lão Hạc của vợ mình.
B. Có một thái độ sống, một cách ứng xử mang tinh thần nhân đạo đối với con người.
C. Thương hại đối với lão Hạc và những con người như lão Hạc.
D. Có cái nhìn hẹp hòi với con người và cuộc sống nói chung.
Câu 2. Câu văn: “Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố mà hiểu họ, thì ta chỉ
thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi.... toàn là những cớ để cho ta tàn nhẫn;
không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương....” sử
dụng phép tu từ nào?
A. Liệt kê B. So sánh C. Ẩn dụ D. Nhân hóa
Câu 3. Những từ in đậm trong câu văn trên được xếp vào trường từ vựng nào?
A. Trí tuệ của con người
B. Tính cách của con người
C. Tình cảm của con người
D. Năng lực của con người
Câu 4. Nội dung chính của đoạn văn sau là gì?
“Hỡi ơi lão Hạc! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều như ai hết.... Một con
người như thế ấy!.... Một người đã khóc vì trót lừa một con chó!.... Một người nhịn ăn để
tiền lại làm ma, bởi không muốn liên lụy đến hàng xóm, láng giềng.... Con người đáng
kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một
thêm đáng buồn....”
A. Sự trách cứ lão Hạc của ông giáo khi nghe Binh Tư kể chuyện.
B. Sự mâu thuẫn trong việc làm và lời nói của lão Hạc.
C. Sự tha hóa trong nhân cách của lão Hạc.
D. Sự ngỡ ngàng và chua chát của ông giáo khi nghe Binh Tư kể chuyện.
Câu 5. Dấu chấm lửng được sử dụng nhiều lần trong đoạn văn trên có tác dụng gì?
A. Thể hiện sự ngập ngừng, ngỡ ngàng, đau đớn trong lòng ông giáo.
B. Ngụ ý rằng còn nhiều điều ông giáo biết về lão Hạc mà chưa kể hết.

C. Làm giãn nhịp điệu câu văn.
D. Cả A,B,C đều đúng.
Câu 6. Nhận định nào sau đây nói đầy đủ nhất dụng ý của tác giả khi viết về cái đói và
miếng ăn trong truyện “Lão Hạc”.
A. Cái đói và miếng ăn là một sự thật bi thảm, ám ảnh nhân dân ta suốt một thời gian
dài.
B. Cái đói và miếng ăn là một thử thách để phân hóa tính cách và phẩm giá của con
người.
C. Cái đói và miếng ăn có nguy cơ làm cho nhân tính của con người bị tha hóa và
biến chất.
D. Cả ba ý kiến trên đều đúng.
Câu 7. Ngoài chức năng chính là dùng để hỏi, câu nghi vấn còn dùng để làm gì?
A. Để cầu khiến
B. Để khẳng định hoặc phủ định
C. Để biểu lộ tình cảm, cảm xúc.
D. Cả A,B,C đều đúng.
Câu 8. Câu nghi vấn nào dưới đây không được dùng để hỏi?
A. Thế bây giờ làm thế nào? Mợ tôi biết thì chết.
B. Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình?
C.Tại sao anh ta lại không tiễn mình ra tận xe nhỉ?
D. Cậu muốn tụi mình chơi lại trò chơi ngày hôm qua hả?
Câu 9. Câu nghi vấn dưới đây được dùng để làm gì?
“Một người đau chân có bao giờ quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một
cái gì khác đâu?”
A. Khẳng định
B. Đe dọa
C. Hỏi
D. Bộc lộ tình cảm, cảm xúc.
Câu 10. Câu văn “Cái bản tính tốt đẹp của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ
che lấp mất” thuộc kiểu câu nào xét về cấu tạo
A. Câu đơn B. Câu ghép C. Câu mở rộng thành phần D. Câu rút gọn.

0
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:Tôi chỉ quan niệm được một cách đi bộ ngao du thú vị hơn đi ngựa: đó là đi bộ. Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc nào thì dừng, ta muốn hoạt động nhiều ít thế nào là tùy. Ta quan sát khắp nơi; ta quay sang phải, sang trái; ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay; ta dừng lại ở tất cả mọi khía cạnh. Tôi nhìn thấy một dòng sông ư, tôi đi...
Đọc tiếp

Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:

Tôi chỉ quan niệm được một cách đi bộ ngao du thú vị hơn đi ngựa: đó là đi bộ. Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc nào thì dừng, ta muốn hoạt động nhiều ít thế nào là tùy. Ta quan sát khắp nơi; ta quay sang phải, sang trái; ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay; ta dừng lại ở tất cả mọi khía cạnh. Tôi nhìn thấy một dòng sông ư, tôi đi men theo sông; một khu rừng rậm ư, tôi đi vào dưới bóng cây; một hang động ư, tôi đến tham quan; một mỏ đá ư, tôi xem xét các khoáng sản. Bất cứ nơi đâu tôi thích, tôi lưu lại đấy. Hễ lúc nào tôi thấy chán, tôi bỏ đi luôn. Tôi chẳng phụ thuộc vào những con ngựa hay gã phu trạm.

a. Đoạn trích trên trích trong văn bản nào? tác giả là ai?
b. Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn văn trên.
c. Nội dung của đoạn văn trên.
d. Qua đoạn văn trên em hiểu gì về con người tác giả?

3
31 tháng 3 2020

a. Đi bộ ngao du - Ru-xô.

b. Nghị luận

c. Đi bộ ngao du ta có thể tùy theo ý muốn, ngắm nhìn những gì mình thích.

d. Con người tác giả ưa tự do, khám phá.

1 tháng 4 2020

a. Đoạn trích từ: Đi bộ ngao du, tác giả: Ru-xo

b. PTBĐ: nghị luận

c. Nội dung của văn bản: Đi bộ ngao du có thể đi đâu tùy ý muốn, ngắm nhìn những nơi mình thích

d. Tác giả là con người giản dị, quý trọng tự do và yêu thiên nhiên.

14 tháng 3 2018

a, Câu cảm thán mang nghĩa phủ định

  b, Câu cảm thán mang nghĩa phủ định

  c, Câu nghi vấn với ý nghĩa bác bỏ

  d, Câu nghi vấn với ý nghĩa thể hiện cảm xúc (ngao ngán)

    Đặt những câu có ý nghĩa tương đương:

    - Không đẹp gì cả!

    - Không có chuyện đó đâu!

    - Bài thơ chẳng không hay.

    - Cụ không biết chứ tôi có sung sướng đâu.

 Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi" Tôi an ủi lão:- Cụ cứ tưởng thế đấy chứ nó chả hiểu gì đâu! Vả lại ai nuôi chó mà chả bán hay giết thịt! Ta giết nó là hóa kiếp cho nó đấy, hóa kiếp để cho nó làm kiếp khác.Lão chua chát bảo:- Ông giáo nói phải! Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hóa kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút.. kiếp người như...
Đọc tiếp

 Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi

" Tôi an ủi lão:

- Cụ cứ tưởng thế đấy chứ nó chả hiểu gì đâu! Vả lại ai nuôi chó mà chả bán hay giết thịt! Ta giết nó là hóa kiếp cho nó đấy, hóa kiếp để cho nó làm kiếp khác.

Lão chua chát bảo:

- Ông giáo nói phải! Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hóa kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút.. kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn!..

Tôi bùi ngùi nhìn lão bảo:

- Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng?

- Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?"

  1.  Đoạn trích trên có mấy câu nghi vấn? Hành động nói trong những câu nghi vấn đó là gì?
  2. Các nhân vật nào tham gia cuộc hội thoại trên? Chỉ ra số lượt lời của từng nhân vật trong đoạn hội thoại đó
0
30 tháng 6 2019

Trong các câu dưới đây, trợ từ là:

a, Chính thầy hiệu trưởng đã tặng tôi cuốn sách này

c, Ngay tôi cũng không biết đến việc này.

e, Cô ấy đẹp ơi là đẹp

i, Tôi nhắc anh những ba bốn lần mà anh vẫn quên.