Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi !
Trong bài ca dao trên tác giả đã khéo léo sử dụng thành công phép tu từ so sánh để nhằm nói lên công lao của bố mẹ . Tác giả muợn hình ảnh của " núi , biển" để sở sánh với công lao của bố mẹ . Qua đó làm tăng sức gợi cảm . Và phép tu từ còn làm nổi bật lên công lao to lớn , rộng lớn , mênh mông và bảo là của bố mẹ dành cho người con. Hai câu thơ cuối của bài ca dao như lời nhắn , lời khuyên của bố mẹ . Câu thơ khuyên chúng ta hãy luôn ghi nhớ trong lòng những công lao to lớn ấy . Nó cho ta thấy rõ bố mẹ là người cho ta rất nhiều thứ và là người chúng ta nợ nhiều nhất.
TK:
Bài ca dao trên làm xúc động lòng người bởi đã gợi nên công ơn trời bể của cha mẹ đối với những người con thân yêu của mình.
Mở đầu bài ca dao, tác giả dân gian nhắc đến “công cha”, “nghĩa mẹ”. Đó là công sinh thành, dưỡng dục; Đó là ơn nghĩa mang nặng đẻ đau và những yêu thương mẹ dành cả cho con. Ví “công cha”, “nghĩa mẹ” như núi ngất trời, như nước ở ngoài biển Đông là lấy cái trừu tượng của tình phụ tử, tình mẫu tử so sánh với cái mênh mông, vĩnh hằng, vô hạn của trời đất, thiên nhiên. Ví công cha với núi ngất trời là khẳng định sự lớn lao, ví nghĩa mẹ như nước biển Đông là để khẳng định chiều sâu, chiều rộng và sự dạt dào. Đây cũng là một nét riêng trong tâm thức của người Việt. Hình ảnh người cha thì rắn rỏi, mạnh mẽ, cha như cột trụ trong gia đình. Hình ảnh mẹ không lớn lao, kì vĩ nhưng sâu xa, rộng mở và dạt dào cảm xúc hơn. Đối công cha với nghĩa mẹ, núi với biển là cách diễn đạt quen thuộc, đồng thời cũng làm cho các hình ảnh được tôn cao thêm, trở nên sâu sắc và lớn lao hơn.
Phép so sánh trên đã làm nổi bật một ý nghĩa sâu xa: công ơn cha mẹ vô cùng to lớn, không thể nào cân đong đo đếm hết được: “Núi cao bể rộng mênh mông”. Bởi vậy, kết lại bài ca dao, tác giả dân gian đưa ra lời nhắn nhủ: Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi! Nhắc đến “cù lao chín chữ” là nhắc đến công ơn mang nặng đẻ đau, công ơn sinh thành dưỡng dục nuôi nấng con thành người của cha của mẹ. Để có con khôn lớn hôm nay, cha mẹ đã trải qua bao vất vả, đau đớn, cực nhọc,… Bởi vậy, nghĩ đến công ơn cha mẹ, bài ca dao thiết tha nhắn nhủ những người con “ghi lòng con ơi!” những công ơn trời bể ấy. Tiếng “ơi!” vang lên thể hiện tình cảm tha thiết, mong muốn chân thành cảm động của tác giả dân gian.
Bài ca dao khép lại để lại trong lòng người đọc niềm xúc động thiêng liêng về công ơn trời bể của những đấng sinh thành. Và hơn thế là định hướng về cách sống, cách bày tỏ lòng biết ơn dành cho cha cho mẹ.
"Con dù lớn vẫn là con của mẹ,
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con"
Mẹ là người mang chúng con tới thế giới này, mẹ âu yếu chúng con. Mẹ luôn bện cạnh chúng con mỗi khi con gặp khó khăn. Đôi khi chúng con phạm sai lầm, chúng con cãi cha mẹ, mẹ nói lại với chúng con quát mắng chúng con thậm tệ nhưng có lẽ trong cái quát mắng ấy là nỗi buồn và tình yêu thương mẹ dành cho chúng con. Chắc hẳn câu nói vẫn quen thuộc mà mẹ mắng chúng ta khi phạm sai lầm đó là " tao không có phúc mới không dạy được mày". Câu nói ấy sẽ khiến chúng con lúc đó cảm thấy ghét mẹ vô cùng và nghĩ đến cái tiêu cực. Lời cha mẹ dạy chắc chắn không sai.
" Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ kính mẹ cha
Cho tròn chữ hiểu mới là đạo con". Tình mẹ một tình cảm thiêng liêng và cao quý luôn hiện hữu trong mỗi con người dành cho đấng sinh thành của chúng con. Những gì mẹ làm cho chúng bao la rộng lớn như biển cả. Làm sao có thể đếm được. Chúng con còn nhỏ chưa hiểu được tình yêu thiêng liêng ấy mẹ dành cho chúng con. Từ khi sinh ra mẹ bồng, mẹ vui và giờ chúng con lớn lên trong vòng tay của mẹ. Rồi dần dần trưởng thành nhưng trong cái trưởng thành ấy khiến mẹ lo lắng. Tình cảm của mẹ dành cho chúng con không thể nói hết bằng lời và dù cho có đi đâu, ở đâu đi nữa thù cũng sẽ chẳng có ai chăm sóc, lo lắng và quan tâm tới chúng ta nhiều như mẹ kính yêu! Chúng con biết, chúng con hư vì không hiểu được mẹ. Mẹ bên chúng con làm con hạnh phúc và bảo vệ chúng con. Chưa ai làm được những điều như vậy cả. Chúng con có làm sai gì thì con mong mẹ tha lỗi cho chúng con vì sâu thẳm trong trái tim của chúng con luôn luôn có mẹ và yêu mẹ nhiều lắm! Mẹ ơi, mặc dù chúng con không thể hiện qua lời nói nhưng chúng con thể hiện nó qua cử chỉ hành động của mình. Mẹ ơi! Chúng con yêu mẹ nhiều lắm!
Chúc bạn học tốt!
Bài văn thật hay, nhưng tôi cần viết tiếp cho đoạn trên mà !
Câu 1: PTBĐ: Biểu cảm
Câu 2: Thể hiện sự vất vả, khó nhọc và công lao của cha mẹ là lớn lao, từ đó để chúng ta biết ơn và trân trọng, yêu thương sự khó nhọc và công lao to lớn ấy
Câu 4: Đoạn thơ trên thể hiện bức thông điệp: Hãy biết ơn, thương yêu, giúp đỡ cha mẹ vì cha mẹ đã hi sinh để chúng ta nên người, trở thành một người có ích cho xã hội và cống hiến cho đất nước
Câu 5: Tham khảo:
“Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân”
Công lao sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ đối với con cái là vô cùng to lớn, không sao kể xiết. Vì vậy, những người làm con khi đã khôn lớn, trưởng thành phải luôn ghi nhớ công lao trời biển ấy và báo đáp, phụng dưỡng cha mẹ. Đúng như những lời trong câu ca dao: “Một lòng thờ mẹ kính cha/ Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Bất kể ai cũng vậy, từ khi mới chào đời ta đã nhận được tình yêu thương vô bờ bến của cha mẹ và những người xung quanh. “Mang nặng đẻ đau” chín tháng mười ngày để rồi vỡ òa trong niềm vui và hạnh phúc khi nghe thấy tiếng khóc đầu đời của con. Còn gì vui sướng hơn khi sau bao nhiêu ngày tháng chờ đợi, thiên thần của cha mẹ đã ra đời. Và cũng từ đó, cha mẹ vất vả hơn khi phải chăm sóc con, lo cho con tất cả mọi thứ, thức trắng đêm trông nom khi con ốm. Cứ như vậy cho đến khi con “ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi”, thời gian trôi con lớn dần trong vòng tay yêu thương, chăm sóc của cha mẹ còn cha mẹ thì vất vả hơn vì vừa phải lo cho công việc vừa phải lo cho con. Nhưng có một điều mà chắc chắn ai cũng biết đó là cho dù vất vả, nặng nhọc đến đâu chỉ cần những đứa con luôn vui tươi, khỏe mạnh thì đó đã là niềm động viên, an ủi, tiếp thêm sức mạnh cho những người làm cha, làm mẹ rồi.
Công lao của cha mẹ thật vô cùng lớn lao, chính vì vậy con cái cần làm tròn trách nhiệm của mình đối với cha mẹ ngay từ khi còn nhỏ cho đến lúc trưởng thành. Khi còn nhỏ, bổn phận của con cái là phải biết vâng lời cha mẹ, chăm chỉ học tập rèn luyện để cha mẹ được vui lòng. Tuy còn nhỏ, chưa thể giúp gì nhiều cho cha mẹ nhưng việc phấn đấu để trở thành con ngoan trò giỏi chính là món quà to lớn dành cho cha mẹ của mình. Mặc dù có nhiều lúc cha mẹ có quát mắng ta nhưng suy cho cùng, những bậc làm cha làm mẹ chỉ muốn những điều tốt đẹp nhất cho con cái của mình. Có thể khi đó, chúng ta còn quá nhỏ để hiểu được một cách sâu xa những lời quát mắng đó là muốn tốt cho mình, nhưng khi đã trưởng thành, ta thầm cảm ơn những lời quát mắng đó đã giúp ta hiểu ra nhiều điều hơn. Khi con cái dần trưởng thành cũng là lúc cha mẹ ngày càng già yếu đi, đây chính là lúc những người làm con cần làm làm tròn chữ hiếu của mình, đó là phải phụng dưỡng, chăm sóc chu đáo cho cha mẹ của mình, có như vậy mới làm tròn chữ hiếu của đạo làm con.
Tuy nhiên không phải những người con nào cũng làm tròn trách nhiệm của mình đối với cha mẹ. Có những người con xem cha mẹ của mình là gánh nặng khi họ già yếu đi, anh em trong cùng một gia đình đùn đẩy trách nhiệm nuôi cha mẹ hết cho người này rồi đến người khác, có một số người chọn cách đưa cha mẹ vào viện dưỡng lão để không mất thời gian chăm sóc. Cha mẹ cả một đời vất vả vì con cái, chỉ mong lúc về già được an nhàn, sum họp bên con cháu, vậy mà những người con nỡ nhẫn tâm bỏ mặc cha mẹ trong sự cô đơn, mặc dù vẫn đầy đủ về cuộc sống vật chất nhưng lại thiếu thốn tình cảm, lúc nào cũng cảm thấy cô đơn.
Một lần nữa phải luôn tự nhắc nhở rằng, công lao, ơn nghĩa của cha mẹ là không gì có thể sánh nổi. Những người làm con phải luôn ghi nhớ công lao ấy và phải làm tròn trách nhiệm của mình đối với cha mẹ, đừng để khi cha mẹ mãi mãi không còn trên thế gian này nữa thì mọi sự báo đáp cũng đã muộn rồi.
Bài học trong câu ca dao trên có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc sống, đó là điều chúng ta cần tìm hiểu và đánh giá.
Công cha nghĩa mẹ thật là vĩ đại. Sự vĩ đại ấy được những người tác giả vô danh diễn tả bằng hai hình ảnh của thiên nhiên – “ núi Thái Sơn” và “ nước trong nguồn”.
Thái Sơn là một trong năm ngọn núi lớn và nổi tiếng nhất ở Trung Quốc. Ngày xưa, trong thơ văn, người ta thường mược hình ảnh này để diễn đạt cái lớn lao vĩ đại của sự vật. Nước trong nguồn là dòng nước trong lành, chảy mãi không bao giờ cạn, cũng là nới khởi đầu của trăm sông ngàn suối. Thử hỏi, có những con suối lớn, dòng sông vĩ đại nào trên thế giới lại không khởi nguyên từ một nguồn nước nhỏ?
Người xưa mượn núi Thái Sơn để nói đến công lao của người cha, mượn hình ảnh nước trong nguồn để diễn đạt tình cảm vô cùng vô tận của người mẹ. Ca ngơi công lao to lớn biển trời của cha mẹ, bài ca dao muốn nhắc nhở mọi người về bổn phận làm con. “ Đạo làm con” phải biết “ thờ mẹ kính cha”, phải làm tròn chữ hiếu. Đó là lẽ phải ở đời, là giềng mối luân lí của xã hoi mà con người phải tuân theo từ bao đời nay.
Tại sao con người cần phải giữ gìn chữ hiếu? Quy luật của cuộc sống là không có cây thì không có quả, không có người sinh thành thì không thể có chúng ta. Công đức sinh thành của cha mẹ thật không có gì sánh được. Biết ơn cha mẹ trước tiên và sâu xa nhất là biết đến công ơn này. Cha mẹ là người sinh ra ta, nuôi dưỡng ta bao năm tháng, để từ một đứa trẻ sơ sinh, ta trở thành một người có hiểu biết có kiến thức trong xã hội. Cơm ăn áo mặc hàng ngày, thuốc thang khi ta đau ốm, quần áo , tiện nghi ta có… tất cả đều do công lao nuôi dưỡng của cha mẹ. Chưa kể đến khi ta khôn lớn, đến tuổi đi học, cha mẹ lại cat công đưa đón, kèm cặp dạy dỗ từng con chữ, lời văn.
Bài làm
Nhân dân ta không chỉ giàu về tình nghĩa, truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo,… mà còn có lòng yêu nước nồng nàn, cháy bỏng. Lòng yêu nước trở thành một truyền thống đẹp đẽ, quý báu của nhân dân ta, nó được phát huy và thể hiện mạnh mẽ mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng. Truyền thống quý báu đó được thể hiện rõ nhất qua đoạn trích: “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bài văn được trích trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ II, tháng 2 năm 1951 của Đảng Lao động Việt Nam. Bài văn có thể coi là một mẫu mực về lập luận, bố cục và cách dẫn chứng của thể văn nghị luận.
Trước hết về nội dung, văn bản nêu lên luận đề cơ bản: “Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta”. Mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, tinh thần ấy được phát huy một cách mạnh mẽ. Trong câu văn tiếp theo tác giả đã sử dụng động từ với hình thức tăng tiến: lướt qua, nhấn chìm cùng với đó là hình ảnh so sánh tinh thần yêu nước như một làn sóng mạnh mẽ, đã cho thấy rõ lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân ta. Để làm sáng tỏ chân lí đó tác giả đã chứng minh nó ở hai thời điểm: quá khứ và hiện tại.
Bề dày lịch sử truyền thống yêu nước của nhân dân ta đã được tác giả đưa ra dẫn chứng cụ thể ở các thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung,… đây là những vị anh hùng của dân tộc. Lấy những dẫn chứng hết sức tiêu biểu, mỗi nhân vật lịch sử gắn liền với một chiến công hiển hách, vang dội đã làm cho người đọc thấy rõ tinh thần yêu nước của tổ tiên, ông cha.
Không dừng lại ở đó, để mở rộng luận điểm, làm người đọc tin và bị thuyết phục hơn nữa, tác giả tiếp tục lấy dẫn chứng đến thời điểm hiện tại. Ở đoạn thứ ba Hồ Chí Minh tập trung chứng minh tinh thần yêu nước của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bằng hàng loạt các dẫn chứng. Sau câu chuyển đoạn “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước” Hồ Chí Minh đã khái quát lòng yêu nước ghét giặc của nhân dân: “Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng bị tạm chiếm, từ nhân dân miền ngược đến nhân dân miền xuôi, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc”. Tiếp đó bằng hình thức liệt kê, kết hợp với mô hình liên kết từ …đến Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thấy rõ lòng yêu nước của mọi tầng lớp, lứa tuổi, giai cấp,… Những dẫn chứng đó vừa cụ thể vừa toàn diện, thể hiện sự cảm phục, ngưỡng mộ tinh thần yêu nước của đồng bào ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Phần cuối văn bản là lời khẳng định tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý, chúng có thể rõ ràng dễ thấy nhưng cũng có khi được “cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm”. Lần đầu tiên, một thứ vô hình là lòng yêu nước lại được Bác cụ thể hóa, hữu hình hóa một cách vừa giản dị vừa cao quý đến như vậy. Qua lời của Bác, lòng yêu nước không phải những điều lớn lao, xa vời mà nó giản dị, ở ngay xung quanh ta. Nhiệm vụ của ta lại phải phát huy lòng yêu nước đó thành những hành động, việc làm cụ thể trong công việc kháng chiến, công việc yêu nước.
Về nghệ thuật, bài văn có bố cục chặt chẽ, gồm ba phần (phần một nêu lên vấn đề nghị luận “tinh thần yêu nước của nhân dân ta”; phần hai chứng minh tinh thần yêu nước trong quá khứ và hiện tại; phần ba nhiệm vụ của Đảng trong việc phát huy tinh thần yêu nước). Lập luận mạch lạc, rõ ràng, lí lẽ thống nhất với dẫn chứng. Dẫn chứng phong phú, cụ thể, được diễn đạt bằng những hình ảnh so sánh cụ thể, sinh động.
Bài văn đã làm sáng tỏ chân lí muôn đời của cha ông ta đó là truyền thống yêu nước nồng nàn, sẵn sàng đấu tranh và hi sinh để giành tự do, độc lập cho dân tộc. Truyền thống đẹp đẽ đó cần phải được phát huy mạnh mẽ vào công cuộc kháng chiến của toàn dân tộc.
Đề bài: Phân tích bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Để chứng minh cho vấn đề nghị luận, tác giả đã nêu những dẫn chứng:
- Trong lịch sử: Những trang sử vẻ vang thời Bà Trưng, Bà Triệu,..
-Công lao của các vị anh hùng dân tộc
-Trong hiện tại: mọi lứa tuổi, mọi vùng,mọi tầng lớp đều có chung lòng yêu nước
-Mỗi luận điểm được làm rõ bằng những dẫn chứng cụ thể về những việc làm, hành động của mọi người , mọi giới, mọi tầng lớp nhân dân. Tác giả đi từ những nhận xét bao quát đến những dẫn chứng cụ thể.
Muốn biết ý nghĩa của Hòa Bình, hãy hỏi người chiến binh vừa trở về từ nơi lửa đạn. Muốn biết giới hạn của Thời Gian, hãy lắng nghe niềm khát khao còn dược nhìn thấy bình minh của kẻ đang phải mang bệnh hiểm nghèo. Và, để cảm nhận được tầm vóc của người Mẹ, của tình Mẹ; xin hày sẻ chia cùng ánh nhìn đau đáu một nỗi buồn không thể gọi tên, song lại vô cùng da diết đến tái tê của những bé thơ côi cút, chưa bao giờ được cất lên hai tiếng Mẹ ơi!
Mẹ! Chỉ độc từ giản dị ấy thôi mà từ thuở ra đời cho đến tận bây giờ con vẫn chưa hiểu hết chiều sâu. Chỉ biết rằng trong lòng con, mẹ là tứ thơ đẹp nhất trần đời!
Cuộc sống quanh ta được tạo nên từ những điều giản dị. Đại dương bao la kia lại bắt đầu từ những hạt muôi nhỏ mặn mòi. Những chồi non nhỏ bé mướt xanh báo hiệu Đông tàn. Cánh én chao nghiêng giữa nền trời thăm thẳm để dẫn về cả một mùa xuân tinh khôi… Và Mẹ, Mẹ chính là điều giản dị nhất mà Vĩ Đại nhất cuộc sống này đã ban tặng cho ta.
Vòng tay ấm áp yêu thương, dòng sữa ngọt ngào cùng lời ru thiết tha trìu mến của Mẹ đã quấn quýt bên ta trong từng giấc ngủ ấu thơ, đã cho ta được nên vóc nên hình:
“Âu ơ… gió mùa thu Mẹ ru con ngủ
Năm canh dài Mẹ thức đủ năm canh”
Mẹ lo lắng cho ta từng miếng ăn, giấc ngủ, thức thâu đêm mỗi khi ta đau bệnh. Ngày đầu tiên ta cắp sách đến trường, chính thức hòa mình vào thế giới rộng lớn bên ngoài. Mẹ đã dìu dắt ta đi, âm thầm nhận lây về mình bao gian khổ nhọc nhằn:
“Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi
Khó đi Mẹ dắt con đi
Con đi trường học Mẹ đi trường đời*
(Ca dao)
Tuổi hồn nhiên, ta đâu biết được. Mẹ đã chọn đi “trường đời” "lắt lẻo gập ghềnh” cùng trăm ngàn mối lo toan để đổi lấy cho ta manh áo lành lặn và những giây phút vô tư cùng chúng bạn dưới mái trường. Trên con đường ta đi tới, bóng Mẹ nhỏ bé liêu xiêu nhưng sao lại có một sức mạnh lạ kì, sẵn sàng chở che cho ta qua mọi bão giông gian khó.
“Mẹ ta không có yếm đào
Nón mê thay nón quai thao đội đầu
Rối ren tay bí tay bầu
Váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa
(“Ngồi buồn nhớ Mẹ ta xưa” – Nguyễn Duy)
Mẹ là thế đấy, cả cuộc đời luôn lam lũ bận bịu với đồng cạn ruộng sâu, với những mùa màng khoai sắn. Cả cuộc đời, Mẹ chỉ sống vì con, dành cho con những điều tốt đẹp nhất mà chẳng giữ lại cho riêng mình bất cứ thứ gì. Thời son trẻ, Mẹ cũng đã từng là một nhan sắc, với tất cả những nồng nàn thanh tân, giọng hát ngọt ngào, ánh nhìn lúng liếng đã làm xao xuyến bao trái tim.
Mẹ từng có yếm đào, với những áo tứ thân mớ bảy mớ ba sắc màu rực rỡ, nón quai thao lộng lẫy những buổi hội Lim rộn ràng … Tất cả giờ đây Mẹ đă lặng lẽ cất thật sâu vào ngăn tủ gọi tên là Kỉ Niệm. Mẹ ta sấp ngửa băng đồng cho kịp buổi chợ trưa, “nón mê thay nón quai thao đội đầu”, cái mê nón tả tơi song Mẹ vẫn chưa chịu thay nón mới chỉ vì Mẹ sợ chén cơm ta ăn trưa nay, tôì nay sẽ phải độn thêm nhiều ngô khoai hơn nữa. Ta chưa một lần được nhìn thấy Mẹ thảnh thơi, ta cũng chưa một lần được nhìn thấy yếm đào’ của Mẹ. Nhưng ta lại thấy yêu quý xiết bao khi bốn mùa được quẩn quanh bên “váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa” của Mẹ.
Từ bao giờ không biết, Mẹ ta đã đi vào ca dao và thơ ca bằng những hình ảnh thật hồn hậu, giản dị như vậy.
…"Không ai yêu Mẹ bằng con
Không ai thương con bằng Mẹ
Mẹ là quê hương của con
Què hương với chuối ba hương
Với xôi nếp mật với đường mía lau.”…
Tinh yêu thương Mẹ dành cho con luôn luôn là vô tận vì …“Lòng Mẹ bao lo như biển Thái Bình dạt dào. Tình Mẹ tha thiết như dòng suôi hiền ngọt ngào”.. (“Lòng Mẹ”’ Y Vân). Chỉ vì, đó là Mẹ của ta. Chao ôi, tiếng gọi Mẹ đơn sơ mà sao trĩu nặng đến thấm thìa như một chân lí: “Không ai yêu Mẹ bàng con. Không ai yếu con bằng Mẹ”.
Chân lí tình thương này đã trở thành một đúc kết mà có lẽ phải trải nghiệm bằng cả đời này ta mới có thể thấu hiểu được.
…“Ta đi trọng kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời Mẹ ru”…
(Ngồi buồn nhớ Mẹ ta xưa – Nguyễn Duy)
Có kẻ tha phương nào lại không canh cánh trong lòng một nỗi niềm cố xứ? Và, “cố hương” ấy, chính là Mẹ. Hình bóng Mẹ luôn dõi theo con trên mọi nẻo đường, đến mọi phương trời xa lạ. Chỉ cần nghĩ về Mẹ, con đã thấy cõi lòng lẻ loi của mình như được sưởi ấm lại, vì tự nhiên và đương nhiên như một điều hiển nhiên “Mẹ là quê hương của con”. Quê hương ấy là những gi hết sức bình dị mà cũng hết sức ngọt ngào như tình thương của Mẹ vẫn dành cho con vậy:
“Chuối ba hương, xôi nếp mật, đường mía lau”. Có thể con vẫn còn chưa đủ lớn khôn để hiểu được một cách thấu đáo, chỉn chu về khái niệm “Quê hương*
“Quê hương là gỉ hở Mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở Mẹ
Ai đi xa củng nhở nhiều
(“Bài học đầu cho con" – Đỗ Trung Quân)
Nhưng con lại biết rõ ràng lắm, cái nỗi “nhớ nhiều” ây đang trở về cùng hình ảnh thân thương của Mẹ:
"…Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ vể nón lá nghiêng che
Quê hương là đèm trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm*
(“Quê hương" – Đỗ Trung Quân)
Ai bảo rằng nỗi nhớ thì thật khó gọi thành tên? Trong tâm tưởng con, vẫn vẹn nguyên một màu “vàng hoa bí”, một “giậu mồng tơi” bờ rào "dâm bụt* thân quen, “chùm khế ngọt” mà “con trèo hái mỗi ngày’*. Tất cả những sự vật gần gũi, mộc mạc ấy giờ đây đã trở thành một quầng sáng lung linh; soi rõ hình ảnh thân thương nhất trong con: Mẹ!
“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một Mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người”
("Quê hương" – Đỗ Trung Quân)
Phải rồi, bước chân ta, dù có đủ dài và rộng để in dấu lên khắp nẻo đường đời. nhưng nỗi nhớ thì chỉ mãi hướng về một phía: đường về nhà Mẹ, lối về quẻ Mẹ!
“Chiều chiểu ra đứng ngõ sau
Trông về quê Mẹ ruột đau chín chiều”
(Ca dao)
Diễm phúc lớn nhất của một kiếp người là được sống trong tình thương yêu của Mẹ, được tận hưởng sự săn sóc, nâng niu của Mẹ. Tình Mẹ hiền từ như “nước trong nguồn chảy ra" mãi mãi không khi nào cạn kiệt. Những đứa con lúc nào cũng vô tư đón nhận tình Mẹ từ thuở bé thơ: “chỗ ướt Mẹ nầm, chỗ ráo con lăn”. Nào có mấy ai thấu hiểu được, dù chỉ là một phẩn, sự gian lao nhọc nhằn và cả những nỗi niềm cô đơn của Mẹ. Đất nước oằn minh trong tiếng bom đạn chiến tranh, cha lên đường ra trận, còn lại một minh, Mẹ lặng lẽ nuôi con cùng một tấm lòng son sắt:
…“Ngày trở về mắt đẫm lệ rơi
Hai mươi năm từ ngày Mẹ cưới
Đến hôm nay mới sống đời vợ chồng
Hai mươi năm…
Hai mươi năm… Mẹ nuôi con một mình…”
(“Mẹ” – Đoàn Ngọc Thu)
Không chỉ nuôi dạy con khôn lớn nên người, Mẹ còn góp phần vào cuộc kháng chiến thần thánh của cả dân tộc bằng chính sức vóc hao gầy và nàm tay bé nhỏ, tảo tần:
…“Có bà Mẹ Bàn Cờ
Vai gầy tóc bạc phơ
Chuyền cơm qua vách cấm
Khi ngoài trời đổ mưa”…
(Người Mẹ Bàn Cờ – Trần Long Ẩn)
Như ngày nào, Mẹ vì con mà nhận lấy nắng, mưa; hôm nay, Mẹ theo vào cuộc chiến cũng ch! vì muốn che chắn cho con khỏi họng súng quân thù “Dưới cơn mưa”, Mẹ đã trở thành “Huyền thoại”:
"Che từng căn hầm nhỏ
Xóa sạch vết con về
Mẹ chìm dưới cơn mưa”…
(“Huyền thoại Mẹ” – Trịnh Công Sơn)
Cuộc chiến nào lại không đem theo mất mát, đau thương? Mang nặng, đẻ đau, không quản dầm sương, dãi nắng. Mẹ chắt chiu từng dòng sữa mát lành, từng hạt gạo dẻo thơm để nuôi con lớn khôn thành “Thánh Gióng”. Khi Tổ quốc lâm nguy, Mẹ tiễn con lên đường, chôn sâu tận đáy lòng mình nỗi lo lắng khôn cùng, Mẹ hi sinh đời mình cho con và hiến dâng những đứa can yêu dấu của mình cho Tổ quốc. Con của Mẹ mãi mãi chẳng trở về, giờ đầy "Mẹ đang cô đơn” nhưng ta hiểu, Mẹ không bao giờ tiếc nuối. Nước mắt Mẹ rơi, nhưng Mẹ vẫn tự hào xiết bao vì những “Thánh Gióng” của Mẹ.
Tình Mẹ lại là vầng trăng dịu dàng, đem lại cho ta cảm giác bình yên thanh thản
Đi khắp hành trình thi ca, ta gặp nhiều lắm những hình tượng người Mẹ kiên cường như vậy. Mẹ Tơm, Mẹ Suốt, chị Út Tịch… tất cả đều là nhừng cuộc đời Giản Dị mà Ánh Hùng;
…“Sống trong cát chết vùi trong cát
Những tấm lòng như ngọc sáng ngời…"
(“Mẹ Tơm” – Tố Hữu)
Và cả những bà Mẹ vô danh mà ta chưa kịp biết tên, đã cưu mang ta suốt thời khói lửa, đã che chở cho ta, gắn bó cùng ta giống hệt như người Mẹ ruột nhân hậu.
… Con nhớ mế lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi"…
(“Tiếng hát con tàu” – Chế Lan Viên)
Hình bóng Mẹ và tình thương của Mẹ dành cho con luôn được miêu tả bằng những hình tượng giản dị nhất, thuần khiết nhất và đẹp nhất trong thi ca, trong âm nhạc. Đối với mỗi đứa con thì người Mẹ của mình luôn là mẫu bình toàn mỹ. Nếu như người cha là bóng núi Thái Sơn uy nghiêm sừng sững thì người Mẹ lại là dòng nước êm đềm. Sự quan tâm của Cha giống như ánh Thái Dương chói lọi, soi cho ta thấy con đường cần phải đi; thì tình Mẹ lại là vầng trăng dịu dàng, đem lại cho ta cảm giác bình yên thanh thản:
…“Mẹ ơi! Mẹ ơi! Dù năm tháng trôi
Mẹ như vầng trăng lặng lẽ sáng soi
Tỏa sáng đời con
Những khi hạnh phúc êm đềm
Những khi va vấp ưu phiền
Con chỉ tìm về với Mẹ thôi
Trong lòng Mẹ bát ngát biển khơi…"
("Mẹ" – Đoàn Ngọc Thu)
Còn nơi chốn nào trên thế gian nầy ấm áp cho bằng vòng tay của Mẹ? Có lời hát nào trên cuộc đời này dịu êm và tha thiết hơn lời ru con của Mẹ? Và, có ai khác nữa trong cuộc sống này thương yêu con, hi sinh cho con tận tụy và âm thầm vô điều kiện và bất vụ lợi như Mẹ? Có thứ tình cảm nào nữa chăng để có thể sánh ngang tình Mẹ thương con về sự vô hạn định? Lúc con hạnh phúc bình yên thì Mẹ là người hạnh phúc hơn cả. Khi con gặp cảnh bất hạnh, đau buồn, Mẹ đã lặng thầm mà đau đớn cho con. Mẹ dõi theo từng bước con đi ngay cả khi con lớn khôn và Mẹ đã không còn trên dương thế. Con cảm nhận được tình thương vô ngần ấy của Mẹ nên vào những lúc nghịch cảnh đau thương nhất, tuyệt vọng nhất, lúc bên cạnh con không còn bất kì ai để nương tựa, con tìm về với Mẹ, nghĩ đến Mẹ.
Trước mắt ta như vẫn còn hiện diện bầu không khí như thực như mơ vào “đêm tân hôn” của Huệ Chi, cô gái trong sáng và yếu đuối bất lực trước trùng điệp những mưu toan bao vây xung quanh mình. Cô không thể kháng cự, cũng không thể trốn chạy và trong nỗi tuyệt vọng đến cùng cực, cô đã tìm đến sự giải thoát cuối cùng, đó là cái chết.
…“Hình ảnh người Mẹ đã khuất từ năm Huệ Chi còn cặp tóc tới nay, vừa đúng mười lăm năm vừa lay gọi Huệ Chi…”
Trong những giây phút cuối cùng Huệ Chi không cảm thấy run sợ và có độc vì kí ức tuổi thơ cùng với người Mẹ hiền hậu đã dồn dập trở vể bao bọc lấy cô:
… “Mẹ lại dắt tay con lên thang như cả khi còn khỏe đây! Tay Mẹ cứ nâng đã cho con từng bước, chỉ lo cho con khụy chân vì mỏi tay, chóng mặt vì gió!…”
… “Mẹ còn choàng lấy lưng con, sát mặt, mũi, má mình vào má con mà thủ thỉ: trưa nay, tối nay, ngày mai… Mẹ lại nấu chè ngô non, chè đỗ đãi, Mẹ lại thổi xôi hoa cau, lại luộc ngồng cải, lại chưng mắm cáy, lại rang tép riu cho con ăn nhé…! (“Huệ Chi trước lễ cưới” – Nguyên Hồng)
Như thế đấy, bóng hình Mẹ luôn là điểm tựa yên bình nhất đón con quay về, che chở cho con trước mọi giông bão của cuộc đời.
Có giây phút sum vầy Mẹ con nào cảm động đến lay động trái tim con người như khoảnh khắc mợ Du lén lút quay về gặp “thằng Dũng con mợ”:
"…Và tôi cảm thấy rõ ràng sự lo lắng và đau khổ của một người đàn bà đã bị đuổi ra khỏi cửa của một gia đình, nay lén lút trở về để được thăm nom con giây phút…” (“Mợ Du” – Nguyên Hồng)
Nhân vật “tôi” chỉ là một đứa trẻ ngây thơ, chưa hiểu hết lẽ ghét thương của thế giới người lớn, "… và như những người lớn, tôi đã ghét và khinh mợ mỗi khi nghe nhắc đến mợ với cái tội không thể tha thứ ấy…” nhưng “…nhìn sự chia lìa, đau xót của hai Mẹ con Dũng, tôi đã có cảm tưởng chính tôi là Dũng và tôi đã có ý muốn ôm ghì lấy mợ Du, ôm ghì mãi mãi, ôm ghì lấy rồi dù bị chết cũng cam tâm…" ("Mợ Du” — Nguyên Hồng). Ta chợt bắt gặp nét tương đồng trong số phận xót xa cay đắng và đầy nghiệt ngã giữa mợ Du và chị Phăng- tin, Mẹ bé Cô-dét trong tiểu thuyết “Những người khốn khổ” của đại văn hào Pháp Victor Huygo. Chị Phăng-tin đã phải ngập sâu trong thế giới tối tãm, phải ỉàm những nghề chua chát nhất; kể cả phải cắt đi mớ tóc đẹp óng ánh và nhổ bán cả đến những chiếc răng của mình đổi lây tiền gửi vợ chồng Tê-nác-điê để nuôi Cô-dét. Chị đã nỗ lực kéo dài cuộc đời khốn khổ của mình chỉ bằng vào thứ ánh sáng le lói xa xôi: Cô-dét đang sống tốt và sống khỏe! Có thể nói không quá lời rằng: Phăng-tin là hiện thân cho người Mẹ khổ đau nhất của mọi nền văn học.
Phăng-tin cũng như Mợ Du đã vĩnh viễn ra đi mà chưa một lần gặp lại con mình kể từ khi chia tay lần cuối. Lòng ta ngậm ngùi trước số phận bi thảm của họ, nhưng hình tượng hai người Mẹ ấy đã neo lại trong ta một dấu son khó thể phai nhòa về khái niệm thiêng liêng: Tình Mẫu tử.
Một nhà thơ đã từng thốt lên sau khi người Mẹ kính yêu của mình đã trở thành "tro bụi bên sông”:
“ … Ta làm thơ cho đời và biết bao người con gái”
Đã bao giờ thơ cho Mẹ ta chưa?…”
(Đỗ Trung Quân)
Trước nỗi bừng tỉnh muộn màng này, ta chợt điếng lòng khi hình dung đến một lúc nào đó, “ Mẹ bỏ con đi đường xa vạn dặm” (Trịnh Công Sơn). Cuộc sống của ta sẽ trở nên tối tăm và trống vắng, vô nghĩa và lạnh lẽo đến nhường nào nếu không còn Mẹ?
“ ..Rủi mai này Mẹ hiền có mất đi
Như đóa hoa không mặt trời
Như trẻ thơ không nụ cười
Ngỡ đời mình không lớn khôn thêm
Như bầu trời thiếu ánh sao đêm …”
(“Bông hồng cài áo" -Phạm Thế Mỹ)
Còn lời so sánh nào súc tích hơn thế, cụ thể hơn thế mà cũng đem ỉạỉ cho ta nhiều dự cảm buồn đau hơn thế? Bầu trời xa tít tắp và huyền ảo đến khôn cùng kia chỉ đẹp và gần gũi hơn khỉ tỏa sáng những ánh sao lấp lánh. Và có loài hoa nào tồn tại được, tươi tắn rực rỡ được, nếu như không có ánh Mặt Trời. Có gương mặt trẻ thơ nào trọn vẹn hồn nhiên khi thiếu vắng nụ cuời vô tư lự? Sự hiện hữu của Mẹ trong cuộc đời ta luôn lặng ỉẽ âm thầm mà chi đến khi Mẹ đã ra đi thì ta mới bàng hoàng mà phát hiện, hụt hẫng mà nuôi tiêc …
Tự vấn lại lòng mình đôi khi đã quá vô tư đến độ vô tâm mà tận hưởng tình yêu của Mẹ. Tình Mẹ cho ta không đòi hỏi, đáp đền như mọi dòng sông vẫn luôn lặng thầm chảy ra biển lớn. Lòng yêu thương Mẹ dành cho ta như những phù sa tự ngàn đời, vẫn bồi đắp cho biết bao đồng bằng, bến sông thêm màu mỡ, tốt tươi. Ta khẽ nâng đôi bàn tay Mẹ, áp vào má mình. Chao ôi là ấm áp! Đôi bàn tay đã có nhiều chỗ chai sần vì cuộc mưu sinh cực nhọc. Đôi bàn tay theo năm tháng đã nhăn nheo, gầy guộc, ram ráp, tảo tần. Vậy mà sao ta vẫn cứ thấy đôi bàn tay của Mẹ ta là đẹp nhất và mềm mại nhất? Từ đôi bàn tay này của Mẹ, miếng vá trên áo con như được hóa phép nhiệm màu, trở thành tinh xảo đến lạ lùng, Mẹ dạy con rằng “đói cho sạch, rách cho thơm”, và con đã nâng niu quý giá manh áo cũ ấy đến chừng nào, Mẹ có biết không? Chỉ vì từ miếng vá kia trong từng mũi chỉ đường kim đều có hơi ấm từ tình thương của Mẹ!
Hôm qua, lần đầu tiên con chú tâm nhìn Mẹ từ phía sau lưng. Đôi vai Mẹ gầy và mong manh quá! Chất chồng trên bờ vai của Mẹ là những lo toan của cuộc sống hằng ngày. Và con biết, một trong số đó là bài toán khó mà đáp số là con đường đến lớp của con. Lần đầu tiên con ngắm Mẹ từ phía sau lưng, Mái tóc mướt xanh ngày thơ dại con thích vùi mặt vào hít hà hương bồ kết, mái tóc dày và mềm mại như một áng mây con vẫn ước ao mình có được ngày thành thiếu nữ. Mái tóc ấy sao giờ đây chỉ còn chưa đầy búi hd Mẹ? Thời gian đã lạnh lùng rắc lên tóc Mẹ thứ màu của lãng quên, của sương khỏi, hay là con đã quá vô tình mà không nhận ra mây trắng đã về che ngang đời Mẹ…
Lần đầu tiên con ngắm Mẹ từ phía sau, và con cảm nhận ra một nỗi lo sợ mơ hồ nhưng dường như đang ở rất gần: lưng Mẹ đã còng, bước đi của Mẹ đả có phần yếu ớt. Con chạy đến ôm chầm lấy Mẹ, và chợt thấy rằng, vòng tay của con đã đủ lớn để làm chỗ tựa nương cho Mẹ. Mẹ ơi, con đã có những khi làm phiền lòng Mẹ, khiến cho đôi mắt nhân từ này phải hằn sâu thêm vết chân chim. Con hiểu lòng Mẹ đủ bao la để tha thứ cho con mọi lỗi lầm. Nhưng con vẫn muốn thốt ra một câu nói từ tận đáy lòng mình: Con cảm ơn Mẹ và con xin lỗi Mẹ! Con đã lớn khôn rồi Mẹ ạ, từ khi con biết rằng món đầu cá và cơm cháy thì ra không ngon lành như Mẹ vẫn thường giải thích với con khi dành chúng về chén cơm của Mẹ trong mỗi bữa ăn. Con đã không còn là đứa bé thơ dại hồn nhiên chỉ biết quẩn quanh trong nhà với Mẹ, chỉ biết có con và Mẹ như là duy nhất trong thế gian này:
“…Con làm mây nhé
Mẹ làm mặt trăng
Hai tay con ôm mặt Mẹ
Còn mái nhà ta là trời xanh…”
(“Mây và sóng" – Tagore)
Con đã lớn khôn đủ để hiểu được rằng, đến một ngày con rời xa vòng tay Mẹ để vui vầy trong một cuộc sống khác như ước mơ lớn nhất của Mẹ vẫn thường mơ cho con, thì đó cũng chính là ngày trống vắng nhất trong cuộc đời Mẹ:
“..Đưa con ra đến cửa buồng thôi
Mẹ phải xa con, khổ mấy mươi
Con ạ, đêm nay mình Mẹ khóc
Đêm đêm mình Mẹ lại đưa thoi
(“Lòng Mẹ” – Nguyễn Bính)
Mẹ ơi, con đã đủ lớn khôn để một mình bước đi trên con đường thẳm xa phía trước. Và, vẫn biết rằng:
“ … Mỗi mùa xuân sang,
Mẹ tôi lại thêm một tuổi
Mỗi mùa xuân sang, ngày tôi xa Mẹ càng gần
Dù biết như thế, tôi vẫn phải tin Mẹ đang còn trẻ
Mỗi mùa xuân về, Mẹ thêm tuổi mới
Mỗi mùa xuân mới con mừng tuổi Mẹ".
(“Mừng tuổi Mẹ” – Trần Long Ẩn)
Con biết mình là người giàu có nhất vì bên con vẫn còn có Mẹ, vì con có cả vũ trụ chứa chan tình Mẹ. Mỗi sớm mai thức giấc, con thấy mình hạnh phúc vô bờ vì biết mình lại được sống thêm một ngày bên Mẹ. Mẹ ơi, mẹ đẹp như một niềm thơ ru con lớn khôn suốt cỏ dặm dài cuộc đời buồn đau và hạnh phúc!
Trăm cái đức lấy đức hiếu làm đầu. Điều này có thể thấy công cha nghĩa mẹ đối với mỗi người chúng ta to lớn biết chừng nào. Công mẹ mang nặng đẻ đau, công cha ngày đêm vất vả dưỡng dục, những công lao này thật không biết bao giờ những người con cái như chúng ta mới báo đáp hêt. Khi chúng ta còn bé hay đã khôn lớn thì trong mắt cha mẹ chúng ta vẫn chỉ bẻ bỏng như ngày nào. Cha mẹ vẫn hàng ngày quan tâm, theo dõi mọi bước đi trên con đường của chúng ta. Tình cảm của cha mẹ với con cái lúc nào cũng dạt dào, tưởng chừng như không bao giờ biết khô cạn. Chúng ta hãy phấn đấu trở thành những người con ngoan trò giỏi để đền đáp công ơn của cha mẹ.