K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

6 tháng 3 2022

tham khảo

Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, truyền thống đó lại trỗi dậy, tạo thành sức mạnh vô địch đập tan bè lũ cướp nước và bán nước, bảo vệ sự trường tồn của đất nước. Lịch sử chỉ ra rằng, để truyền thống yêu nước trở thành mạch nguồn sức mạnh, giai cấp lãnh đạo phải có đường lối chính trị đúng đắn, tin vào sức mạnh của quần chúng, lấy lợi ích của dân tộc làm thượng tôn, thực sự là ngọn cờ dẫn dắt, tập hợp toàn dân tộc tạo thành một khối thống nhất chống lại kẻ thù chung. Ngược lại, nếu truyền thống yêu nước không được khơi dậy và phát huy trở thành sức mạnh của dân tộc thì mất nước là điều khó tránh khỏi. Thực tế bài học từ cuộc kháng Pháp xâm lược cuối thế kỷ 19, thời Nguyễn là một minh chứng.

Ngày 1-9-1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha nổ súng tiến công Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Với truyền thống yêu nước nồng nàn và ý chí kiên cường, bất khuất, trong suốt nửa cuối thế kỷ 19 (1858-1896), đông đảo nhân dân trên khắp mọi miền đất nước đã anh dũng chiến đấu, tích cực cùng quan quân triều đình hoặc tự mình đứng lên chống thực dân Pháp.

Ngay từ khi thực dân Pháp đánh chiếm Đà Nẵng, nhân dân nơi đây, đặc biệt là các đội dân binh đã luôn tích cực ủng hộ, phối hợp với quân triều đình do danh tướng Nguyễn Tri Phương chỉ huy, chống lại quân xâm lược. Khi thực dân Pháp không thực hiện được âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh”, buộc phải chuyển hướng tiến đánh Nam Kỳ (tháng 2-1859), đông đảo nhân dân Nam Kỳ đã tích cực tham gia chống Pháp, kể cả sau khi triều đình ký với Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất (năm 1862) thừa nhận việc cai quản 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ thuộc nước Pháp. Quân Pháp luôn phải đối mặt với những “trung tâm kháng chiến ở khắp mọi nơi, chia nhỏ ra vô cùng, hầu như có bao nhiêu người An Nam thì có bấy nhiêu trung tâm kháng chiến”[1].

Sau khi chiếm xong Nam Kỳ (năm 1867), thực dân Pháp hai lần đánh ra Bắc Kỳ vào các năm 1873, 1882-1883. Năm 1874, triều đình Huế ký với Pháp Hiệp ước Giáp Tuất, chính thức thừa nhận chủ quyền của Pháp đối với 6 tỉnh Nam Kỳ. Sau khi đánh thẳng vào Huế, đổ bộ lên cửa Thuận An, thực dân Pháp từng bước gây áp lực buộc triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Hác-măng (ngày 25-8-1883) và Hiệp ước  Pa-tơ-nốt (ngày 6-6-1884). Đến đây, triều đình nhà Nguyễn hoàn toàn đầu hàng thực dân Pháp xâm lược. Mặc dù vậy, phong trào chống Pháp của nhân dân ta vẫn tiếp tục dâng cao và phát triển sang một giai đoạn mới: Chống Pháp đi đôi với việc chống triều đình đầu hàng. Bất chấp sức mạnh của kẻ thù và sự phản kháng của triều đình Huế, hưởng ứng lời kêu gọi Cần Vương, nhân dân khắp mọi miền Tổ quốc tiếp tục vùng lên chống Pháp. Bên cạnh đó là phong trào đấu tranh tự phát của nông dân, tất cả đều chung một mục đích đứng dậy chống giặc, cứu nước.

Như vậy, cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược của triều đình nhà Nguyễn ngay từ đầu đã luôn có sự ủng hộ, phối hợp của nhân dân. Trên thực tế, quan quân nhà Nguyễn cũng đã giành được một số thắng lợi. Cuộc chiến đấu ở mặt trận Đà Nẵng đã gây cho Pháp nhiều tổn thất, buộc chúng phải từ bỏ chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” và chuyển hướng vào Gia Định. Tại Gia Định, từ giữa tháng 2 đến tháng 3-1859, quân dân ta tiếp tục gây cho Pháp nhiều khó khăn, buộc chúng phải rút đại bộ phận ra ứng cứu cho lực lượng nguy khốn ở Đà Nẵng. Đáng kể nhất là chiến thắng trong hai trận Cầu Giấy (ngày 21-12-1873 và 19-5-1883), quân triều đình do Hoàng Tá Viêm chỉ huy phối hợp với quân Lưu Vĩnh Phúc chiến đấu đập tan hai cuộc hành quân của Pháp, hai tên chỉ huy là trung tá F.Garnier và đại tá H.Rivière tử trận.

Sau mỗi thắng lợi, quân dân ta phấn khởi, sẵn sàng xông lên tiêu diệt quân xâm lược. Bất chấp lệnh bãi binh của triều đình, phong trào chống Pháp nổi lên khắp nơi, như: Trương Định ở Gò Công; Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá, Hà Tiên; Thiên Hộ Dương (Vũ Duy Dương) ở Đồng Tháp Mười; Phong trào Cần Vương do Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi khởi xướng với các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu, như; Khởi nghĩa Ba Đình (Thanh Hóa), Khởi nghĩa Bãi Sậy (Hưng Yên), Khởi nghĩa Hương Khê (Hà Tĩnh); các cuộc đấu tranh tự phát của nông dân... Các văn thân, sĩ phu yêu nước, những người đứng đầu các cuộc đấu tranh đã dựa vào dân, tin tưởng vào sức mạnh và ý chí quật cường của nhân dân, trở thành ngọn cờ quy tụ, đoàn kết nhân dân chống Pháp. Truyền thống yêu nước quật cường của dân tộc trỗi dậy mạnh mẽ, nhân dân khắp cả nước tích cực đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược, bảo vệ đất nước.

Trong khi đó, đối lập với phong trào đấu tranh của nhân dân, triều đình nhà Nguyễn với tư tưởng “chủ hòa” chi phối đã không dám hiệu triệu quan quân và đông đảo nhân dân thừa thắng xốc tới, trái lại còn ra lệnh cho quan quân lui binh và từng bước bắt tay hòa hoãn, ký với Pháp những điều ước bất lợi, đi đến đầu hàng Pháp, chống lại dân, từ bỏ vai trò lãnh đạo, bỏ rơi, thậm chí ngăn cản, phá hoại phong trào chống Pháp của nhân dân. Nhiều đề nghị cải cách nhằm canh tân đất nước, đưa đất nước thoát khỏi họa xâm lăng bị triều đình Nguyễn khước từ. Những vấn đề cốt tử để giữ nước như cố kết nhân tâm, khơi dậy và phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước của nhân dân, canh tân đất nước, chấn chỉnh quân đội, mở rộng giao lưu với các nước văn minh… đã không được triều đình Nguyễn thực hiện. Thái độ, hành động đó của triều đình nhà Nguyễn thể hiện rõ sự suy yếu, mất lòng dân, không quy tụ và phát huy được truyền thống yêu nước bất khuất của nhân dân dưới ngọn cờ chống Pháp.

Mặc dù nhân dân khắp từ Nam chí Bắc liên tục vùng lên chiến đấu và thực dân Pháp phải mất gần 4 thập kỷ (1858-1896) mới hoàn thành công cuộc đánh chiếm và bình định Việt Nam, nhưng do các phong trào đấu tranh chủ yếu tự phát, thiếu sự tổ chức và lãnh đạo thống nhất, nên chưa thúc đẩy, động viên và khai thác triệt để sức mạnh của dân tộc. Dù đã viết nên những trang sử hết sức oanh liệt, nhưng cuộc kháng Pháp cuối thế kỷ 19 dưới triều Nguyễn đã “chỉ có thể dấy lên rồi tắt, chính vì thiếu lực lượng lãnh đạo đủ năng lực”[2]. Ngoài những nguyên nhân khách quan của thời đại, đây chính là nguyên nhân chủ quan, cơ bản, có vai trò quyết định nhất, thể hiện trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để mất nước; đồng thời cũng là bài học sâu sắc về đường lối cứu nước nhằm quy tụ, cố kết nhân tâm, khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ bờ cõi thiêng liêng của Tổ quốc.

Từ bài học lịch sử trong cuộc kháng Pháp cuối thế kỷ 19, để khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) hiện nay, cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:

Một là, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam-ngọn cờ quy tụ, tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân nhằm khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc

Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập (năm 1930) và đóng vai trò lãnh đạo cách mạng nước ta, các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân dân ta từ giữa thế kỷ 19 tuy diễn ra liên tục nhưng đều thất bại; nguyên nhân là do chưa có một đội tiền phong lãnh đạo với đường lối chính trị đúng đắn, nhằm khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, chống lại kẻ thù chung. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, với đường lối cách mạng đúng đắn, khoa học dựa trên cơ sở nền tảng lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đoàn kết một lòng, tạo nên một lực lượng to lớn và rộng khắp, anh dũng đấu tranh, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ đi lên CNXH. Sự lãnh đạo của Đảng trở thành tất yếu, là cơ sở bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng nước ta.

Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường; xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Ở trong nước, bên cạnh những thuận lợi, thời cơ mới, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu chống phá cách mạng với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Đặc biệt, chúng ra sức tuyên truyền, xuyên tạc hòng hạ thấp, đi tới phủ nhận vai trò và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam; đòi đa nguyên, đa đảng, phi chính trị hóa quân đội, tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng... Chính vì vậy, cần tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam là một tất yếu khách quan, là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh.

Từ bài học lịch sử của cuộc kháng Pháp xâm lược cuối thế kỷ 19 và thực tiễn hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng, để Đảng ta tiếp tục làm tròn sứ mệnh cao cả của mình trước dân tộc, trước nhân dân, là ngọn cờ tập hợp và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc, của nhân dân. Đặc biệt, trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, cùng với phát huy nội lực, cần tiếp tục kiên định thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Muốn vậy, phải chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, để Đảng thực sự “là đạo đức, là văn minh”. Cần tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; Nghị quyết Trung ương 7, khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X cùng các chỉ thị, nghị quyết của Quân ủy Trung ương về công tác xây dựng Đảng, tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ.

Hai là, củng cố và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ), xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam cho thấy ý nghĩa to lớn, quyết định của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong việc khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước, thực hiện đánh giặc “toàn dân”, “toàn diện”. Một trong những nguyên nhân thất bại của cuộc kháng Pháp cuối thế kỷ 19 chính là do triều đình nhà Nguyễn đã không quy tụ và phát huy được sức mạnh đại đoàn kết, truyền thống yêu nước của nhân dân. Chính vì vậy, từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng xây dựng và phát huy vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất với nhiều hình thức, biện pháp phong phú, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Đảng xác định việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở đồng thuận xã hội là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; nguồn sức mạnh tổng hợp, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng. Hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng đã xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc, từ đó phát huy cao độ lòng yêu nước, chí căm thù giặc, tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất của toàn dân, toàn quân, quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Bằng sức mạnh tổng hợp đó, quân và dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, càng đánh càng mạnh, càng thắng lớn và giành những thắng lợi quyết định cả trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, để củng cố và phát huy vai trò của MTTQ, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị về vị trí, tầm quan trọng của sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Quan tâm xây dựng MTTQ Việt Nam và các đoàn thể quần chúng vững mạnh, thực sự là ngọn cờ tập hợp, dẫn dắt quần chúng và làm tốt chức năng phản biện xã hội. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, sức mạnh vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội và củng cố mối quan hệ đoàn kết toàn dân tộc. Đối với cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân, cần tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Phong trào Thi đua Quyết thắng, tạo chuyển biến mạnh mẽ trên các lĩnh vực công tác, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng quân đội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới.

Ba là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD) vững mạnh, củng cố “thế trận lòng dân”, thực hiện “quân với dân một ý chí”

Từ những bài học lịch sử trong quá khứ, trong đó có bài học từ cuộc kháng Pháp xâm lược thời Nguyễn, có thể khẳng định, nền QPTD và thế trận chiến tranh nhân dân (CTND) là yếu tố có ý nghĩa quyết định tạo nên sức mạnh tổng hợp để phát huy tinh thần yêu nước, giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Chính vì vậy, xây dựng nền QPTD, thế trận CTND vững mạnh là chủ trương chiến lược xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta; là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị, trong đó Quân đội nhân dân là lực lượng nòng cốt. Đó cũng chính là việc “lo giữ nước từ khi nước chưa nguy” đã được cha ông ta thực hiện thành công trong lịch sử.

Trong những năm qua, trên cơ sở quán triệt, thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về xây dựng nền QPTD, thế trận CTND, như: Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22-9-2008 của Bộ Chính trị khóa X về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới; Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết Đại hội XII của Đảng… các cấp, các ngành, các địa phương đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng nền QPTD gắn với thế trận CTND ngày càng vững chắc. Trên cơ sở đó, trong giai đoạn tiếp theo, cần tiếp tục xây dựng khu vực phòng thủ trên từng địa bàn chiến lược theo hướng “vững toàn diện, mạnh trọng điểm”; xây dựng thế trận QPTD gắn với thế trận an ninh nhân dân, trong đó đặc biệt coi trọng xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Đẩy mạnh và thực hiện tốt công tác dân vận, tạo cơ sở để xây dựng mối quan hệ gắn bó đoàn kết quân-dân, thực hiện “quân với dân một ý chí”. Quán triệt, triển khai thực hiện tốt nội dung chiến lược quân sự, chiến lược quốc phòng Việt Nam. Tập trung xây dựng lực lượng vũ trang 3 thứ quân, nhất là Quân đội nhân dân vững mạnh, làm nòng cốt cho toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Phát huy sức mạnh toàn dân, toàn xã hội, gắn với thế trận QPTD; có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phải được chuẩn bị từ thời bình, có khả năng sẵn sàng chuyển hóa thành thế trận CTND bảo vệ Tổ quốc khi có chiến tranh xảy ra, bảo đảm giành thắng lợi trong mọi tình huống.

Bốn là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc và ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia cho toàn quân, toàn dân

Ý thức sâu sắc về vai trò và sức mạnh của truyền thống yêu nước trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cách mạng. Yêu nước không chỉ ở nhận thức, ở khẩu hiệu tuyên truyền chung chung mà phải thể hiện ở hành động thiết thực, cụ thể. Người yêu cầu: “Phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”[3]; phải “đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta”[4].

Làm theo tư tưởng của Người, trong bối cảnh tình hình hiện nay, để tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, không thể không khơi dậy và nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc về đất nước Việt Nam tươi đẹp, về trang sử hào hùng của dân tộc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại trong đông đảo các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bên cạnh đó, cũng thẳng thắn nhìn nhận những bài học và nguyên nhân không thành công về việc khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước trong quá khứ để rút kinh nghiệm cho hiện tại và tương lai.

Để thực hiện điều đó, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước trong đông đảo nhân dân, cán bộ và bộ đội bằng nhiều hình thức phong phú, sinh động, cụ thể, phù hợp với từng đối tượng, trong đó đặc biệt coi trọng giáo dục trong nhà trường, giáo dục thông qua các tổ chức chính trị-xã hội và các phương tiện truyền thông; qua đó, nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, thực hiện chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Mỗi người dân cần được bồi dưỡng và nâng cao ý thức về việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xác định đó là nhiệm vụ thiêng liêng, là trách nhiệm cao cả đối với non sông đất nước. Toàn quân cần thực hiện có hiệu quả Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”, gắn với thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 87-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”. Từ đó, nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng và tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ, biến thành sức mạnh vật chất to lớn, sẵn sàng cùng toàn dân đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Từ cuộc kháng Pháp xâm lược cuối thế kỷ 19 thời Nguyễn, bài học khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước càng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần tiếp tục phát huy khí phách quật cường, truyền thống yêu nước anh dũng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, đưa sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” tiếp tục giành được những thắng lợi to lớn hơn nữa, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

28 tháng 4 2022

bbbbbbbbbbbbbbbbbb

10 tháng 3 2022

*Vai trò của nhân dân : 

 -Ngăn cản sự xâm lược và và làm chậm quá trình bình đình của Pháp trên đất Việt Nam, bởi từ trc khi xâm lược Pháp xác định là xâm lược nhanh những mãi 20 năm sau thực dân Pháp mới cơ bản bình định xong việt nam và tiến hành khai thác;

- góp phần để triều đình nhà nguyễn, đặc biệt là các nhà cải cách bắt đầu có ý thức về công cuộc đổi mới, duy tân đất nước; những tư tưởng tiến bộ được xâm nhập vào việt nam;

- Kích thích hoạt động của các nhà hoạt động cách mạng

- Là kinh nghiệm quý báu cho các phong trào đâu tranh sau này;

- thể hiện tinh thần yêu nước của đồng bào ta

*Trách nhiệm của triều đình nhà Nguyễn( triều đình Huế) :

- Triều Nguyễn duy trì chính sách bảo thủ, lạc hậu đối với nhân dân. Giữa thế kỉ XIX, khi Pháp đánh chiếm Việt Nam, có nhiều nhà tư tưởng đề nghị canh tân, đổi mới đất nước. Nhưng nhà Nguyễn đã từ chối con đường này. Nhà Nguyễn vẫn tiếp túc chính sách cai trị cũ, làm cho đất nước ngày càng suy yếu, mất dần sức đề kháng trong cuộc chiến chống Pháp. Như vậy, nhà Nguyễn vì sự ích kỉ của mình đã hy sinh quyền lợi của dân tộc.  

- Trong quá trình kháng chiến chống Pháp, nhà Nguyễn còn mắc nhiều sai lầm như từ bỏ con đường vũ trang chống pháp, đi theo con đương thương lượng đầu hàng từng bước đến đầu hàng hoàn toàn; không biết chớp lấy thời cơ để giành thắng lợi

17 tháng 4 2022

hkvgyluhl;

Thái độ

Nhân dân:

- Kiên quyết chống xâm lược ngay từ khi Pháp nổ súng xâm lược nước ta.

- Kiên quyết chống trả khi địch tấn công Gia Định và các tỉnh Nam Kỳ.

- Thái độ “bất tuân lệnh” triều đình của nhân dân và sĩ phu yêu nước.

Triều đình:

- Không kiên quyết động viên nhân dân chống Pháp.

- Bỏ lỡ thời cơ để hành động.

- Nhu nhược, ươn hèn, ích kỷ, vì quyền lợi của dòng họ bán rẻ dân tộc.

Hành động

Nhân dân:

- Anh dũng chống trả chúng tại Đà Nẵng dẫn đến làm thất bại kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của địch.

- Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra quyết liệt chống sự mở rộng chiếm đóng của thực dân Pháp và chống sự nhu nhược của triều đình.

- Vì nhân dân, Trương Định ở lại kháng chiến.

Triều đình:

- Bỏ lỡ thời cơ khi địch đánh Gia Định.

- Ký Hiệp ước 1862 để mất ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ.

- Để mất ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ (1867).

- Đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân.

2 tháng 5 2023

SOS

18 tháng 3 2021

Có ai giúp mình với?

 

18 tháng 3 2021

- Quân triều đình chống cự yếu ớt và ở trong tư thế, “thủ hiểm”, không quyết tâm chống giặc và chỉ thủ hiểm ở Chí Hoà.

- Nhân dân tự động nổi lên đánh giặc khiến chúng khốn đốn và Quân triều đình thiếu quyết tâm, không có đường lối phù hợp.

- Nhân nhượng Pháp để giữ lấy quyền lợi g/c và quyền lợi dòng họ. =Đất nc chậm pt,suy yếu dần

=> Nhà nước nhu nhược, không có quyết tâm chống giặc. Nhân dân thiếu đường lối đánh gặc, bỏ lỡ cơ hội đánh đuổi giặc pháp,

18 tháng 3 2022

tham khảo

Tình hình nước ta sau hiệp ước Nhâm Tuất:

- Nhân dân khổ cực,căm phẫn.Nhiều toán nghĩa binh nổi lên chống giặc

- Triều đình bạc nhược,yếu kém nhờ đó quân Pháp đã chiếm các tỉnh miền Tây mà không tốn một viên đạn

- Cuộc kháng chiến của nhân dân vô cung khó khăn,không chỉ chống giặc mà còn bị triều đình Huế ra sức ngăn trở

so sánh thái độ nhân dân với triều đình nhà Nguyễn trước sự xâm lược của thực dân Pháp

Thái độ của triều đình NguyễnThái độ của nhân dân ta 

- Trong buổi đầu chống Pháp,triều đình cũng có quyết tâm chống giặc có thể kể đến như: Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương,quân dân ta anh dũng chống trả làm thất bại âm mưu "đánh nhanh thắng nhanh" của địch,cử Hoàng Diệu làm tổng đốc thành Hà Nội,...

- Sau đó triều đình Huế quyết định đi theo chính sách cầu hòa,nhân nhượng và thương lượng với Pháp.Nhu nhược hèn yếu kí với Pháp những bản hiệp ước bán nước,đi từ đầu hàng từng bước đến đầu hàng hoàn toàn

- Đàn áp các cuộc khởi nghĩa,ngăn trở phong trào kháng chiến của nhân dân,tiếp tay cho Pháp tiếp tục xâm lược nước ta

- Vì lợi ích của dòng họ mà quên đi lợi ích của dân tộc

- Bảo thủ,bất lực trong việc thích ứng hoàn cảnh,không chấp nhận những thay đổi và từ chối mọi sự cải cách,kể cả những cải cách hoàn toàn có thể thực hiện được làm cho kinh tế,xã hội rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng

⇒⇒ Nhu nhược,hèn nhát,bảo thủ,không đoàn kết với nhân dân chống giặc

- Nêu cao tinh thần chống giặc,bảo vệ bảo vệ bờ cõi.Lập nên nhiều trung tâm kháng chiến dưới sự chỉ huy của nhiều lãnh tụ nổi tiếng như: Nguyễn Trung Trực,Nguyễn Hữu Huân,...Nhiều người thà chết không chịu khuất phục,có người dùng văn thơ để chiến đấu: Nguyễn Đình Chiểu,Hồ Huân Nghiệp,...

- Anh dũng đứng lên kháng chiến,phản đối mạnh mẽ những chính sách bất công của triều đình nhà Nguyễn và thực dân Pháp

⇒⇒ Kiên cường,bất khuất,dũng cảm hi sinh xương máu bảo vệ nền độc lập nước nhà

18 tháng 3 2022

Bạn xem lại bài này nhé

Tình hình nước ta sau hiệp ước Nhâm Tuất:

- Nhân dân khổ cực,căm phẫn.Nhiều toán nghĩa binh nổi lên chống giặc

- Triều đình bạc nhược,yếu kém nhờ đó quân Pháp đã chiếm các tỉnh miền Tây mà không tốn một viên đạn

- Cuộc kháng chiến của nhân dân vô cung khó khăn,không chỉ chống giặc mà còn bị triều đình Huế ra sức ngăn trở

So sánh thái độ nhân dân với triều đình nhà Nguyễn trước sự xâm lược của thực dân Pháp

Thái độ của triều đình NguyễnThái độ của nhân dân ta 

- Trong buổi đầu chống Pháp,triều đình cũng có quyết tâm chống giặc có thể kể đến như: Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương,quân dân ta anh dũng chống trả làm thất bại âm mưu "đánh nhanh thắng nhanh" của địch,cử Hoàng Diệu làm tổng đốc thành Hà Nội,...

- Sau đó triều đình Huế quyết định đi theo chính sách cầu hòa,nhân nhượng và thương lượng với Pháp.Nhu nhược hèn yếu kí với Pháp những bản hiệp ước bán nước,đi từ đầu hàng từng bước đến đầu hàng hoàn toàn

- Đàn áp các cuộc khởi nghĩa,ngăn trở phong trào kháng chiến của nhân dân,tiếp tay cho Pháp tiếp tục xâm lược nước ta

- Vì lợi ích của dòng họ mà quên đi lợi ích của dân tộc

- Bảo thủ,bất lực trong việc thích ứng hoàn cảnh,không chấp nhận những thay đổi và từ chối mọi sự cải cách,kể cả những cải cách hoàn toàn có thể thực hiện được →làm cho kinh tế,xã hội rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng

⇒ Nhu nhược,hèn nhát,bảo thủ,không đoàn kết với nhân dân chống giặc

- Nêu cao tinh thần chống giặc,bảo vệ bảo vệ bờ cõi.Lập nên nhiều trung tâm kháng chiến dưới sự chỉ huy của nhiều lãnh tụ nổi tiếng như: Nguyễn Trung Trực,Nguyễn Hữu Huân,...Nhiều người thà chết không chịu khuất phục,có người dùng văn thơ để chiến đấu: Nguyễn Đình Chiểu,Hồ Huân Nghiệp,...

- Anh dũng đứng lên kháng chiến,phản đối mạnh mẽ những chính sách bất công của triều đình nhà Nguyễn và thực dân Pháp

⇒ Kiên cường,bất khuất,dũng cảm hi sinh xương máu bảo vệ nền độc lập nước nhà

23 tháng 3 2022

Điểm khác biệt căn bản về tinh thần chống Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam so với triều đình nhà Nguyễn là gì?

A. Thái độ chiến đấu không kiên định, dễ thỏa hiệp

B. Khuất phục trước sức mạnh của thực dân Pháp

C. Kiên quyết đấu tranh chống Pháp tới cùng

D. Phối hợp với Pháp lật đổ triều Nguyễn

23 tháng 3 2022

xuống ;-;

29 tháng 3 2023

Thái độ

Nhân dân:

- Kiên quyết chống xâm lược ngay từ khi Pháp nổ súng xâm lược nước ta.

- Kiên quyết chống trả khi địch tấn công Gia Định và các tỉnh Nam Kỳ.

- Thái độ “bất tuân lệnh” triều đình của nhân dân và sĩ phu yêu nước.

Triều đình:

- Không kiên quyết động viên nhân dân chống Pháp.

- Bỏ lỡ thời cơ để hành động.

- Nhu nhược, ươn hèn, ích kỷ, vì quyền lợi của dòng họ bán rẻ dân tộc.

Hành động

Nhân dân:

- Anh dũng chống trả chúng tại Đà Nẵng dẫn đến làm thất bại kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của địch.

- Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra quyết liệt chống sự mở rộng chiếm đóng của thực dân Pháp và chống sự nhu nhược của triều đình.

- Vì nhân dân, Trương Định ở lại kháng chiến.

Triều đình:

- Bỏ lỡ thời cơ khi địch đánh Gia Định.

- Ký Hiệp ước 1862 để mất ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ.

- Để mất ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ (1867).

- Đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân.

30 tháng 3 2023

Tham khảo: 

Thái độ

Nhân dân:

- Kiên quyết chống xâm lược ngay từ khi Pháp nổ súng xâm lược nước ta.

 

- Kiên quyết chống trả khi địch tấn công Gia Định và các tỉnh Nam Kỳ.

- Thái độ “bất tuân lệnh” triều đình của nhân dân và sĩ phu yêu nước.

Triều đình:

- Không kiên quyết động viên nhân dân chống Pháp.

- Bỏ lỡ thời cơ để hành động.

- Nhu nhược, ươn hèn, ích kỷ, vì quyền lợi của dòng họ bán rẻ dân tộc.

Hành động

Nhân dân:

- Anh dũng chống trả chúng tại Đà Nẵng dẫn đến làm thất bại kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của địch.

- Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra quyết liệt chống sự mở rộng chiếm đóng của thực dân Pháp và chống sự nhu nhược của triều đình.

- Vì nhân dân, Trương Định ở lại kháng chiến.

Triều đình:

- Bỏ lỡ thời cơ khi địch đánh Gia Định.

- Ký Hiệp ước 1862 để mất ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ.

- Để mất ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ (1867).

- Đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân.

2 tháng 2 2021

a) Giai đoạn từ tháng 9-1858 đến tháng 2-1861:

* Thái độ của triều đình:

- Xây thành luỹ, phòng tuyến tại Đà Nẵng và Gia Định, tăng lực lượng, thực hiện chiến thuật phòng thủ.

- Kêu gọi nhân dân ứng nghĩa, chủ trương “vườn không nhà trống”, bất hợp tác với giặc.

- Quan quân triều đình đã phối hợp với nhân dân đánh Pháp.

* Thái độ của nhân dân:

Ngay từ đầu, nhân dân đã hưởng ứng lời kêu gọi của triều đình phá nhà cửa, vườn tược, đào hào, cùng quân triều đình xây thành đắp luỹ, lập các đội dân binh hăng hái đánh Pháp.

b) Giai đoạn từ tháng 2-1861 đến ngày 5-6-1862                    

* Thái độ của triều đình: Phòng tuyến Chí Hoà bị vỡ, quân triều đình tan rã. Triều đình hoang mang dao động, số ít quan quân triều đình tiếp tục đánh Pháp, nhưng đa số lo sợ muốn "thủ để hoà", cuối cùng đã kí Hiệp ước Nhâm Tuất để bảo vệ quyền thống trị .

* Thái độ của nhân dân: Phong trào chống Pháp của nhân dân diễn ra ngày càng mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, văn thân yêu nước, thể hiện quyết tâm đánh Pháp đến cùng, nhiều căn cứ chống Pháp được xây dựng ở Gia Định, Gò Công, Đồng Tháp Mười,... chiêu mộ hàng nghìn nghĩa quân, hoạt động rất mạnh, đẩy quân Pháp vào thế bất lợi.

c) Giai đoạn từ tháng 6-1862 đến tháng 6-1867

* Thái độ của triều đình:

- Sau khi kí Hiệp ước, triều đình ra lệnh giải tán nghĩa binh, giải tán phong trào kháng chiến, hạ khí giới nộp cho Pháp.

- Triều đình bước đầu trả chiến phí cho Pháp, cử phái đoàn sang Pháp thương thuyết chuộc ba tỉnh miền Đông nhưng thất bại.

- Tăng tô thuế, đàn áp khởi nghĩa nông dân mà lẽ ra phải chỉnh đốn nội trị, bồi dưỡng sức dân, đoàn kết nhân dân kháng chiến.

-Thái độ của nhà Nguyễn tạo điều kiện thuận lợi cho Pháp chiếm luôn ba tỉnh miền Tây.

* Thái độ của nhân dân:  

- Từ phong trào ứng nghĩa chuyển thành phong trào tự động kháng chiến sôi nổi khắp sáu tỉnh Nam Kì. Nghĩa quân kiên trì bám đất, bám dân, phản kháng quyết liệt trước bản Hiệp ước 1862, nổi bật nhất là hoạt động của nghĩa quân Trương Định.

- Một số sĩ phu văn thân yêu nước ở miền Đông thể hiện thái độ bất hợp tác với địch, không chấp nhận Hiệp ước 1862 bằng phong trào "tị địa".